Dịch giả: DUNG LÊ
NGÀY THỨ MƯỜI NĂM

Dãy hành lang bệnh viện thần kinh nồng nặc một mùi rất đặc biệt, ánh nắng chiếu rọi vào phòng từ một bên cửa sổ, không giống như không khí mà tôi từng tưởng tượng. Nhưng một nam y tá cường tráng đi lướt quá đã khiến tôi hiểu rằng đây một nơi rất đặc biệt.
Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa một buồng bệnh nhân, một thiếu nữ đang cuộn tròn lại dưới ánh nắng ấm áp, tên của cô ấy là Xuân Vũ.
Tối hôm qua, Diệp Tiêu kể rằng Xuân Vũ đã được tìm thấy và được đưa tới bệnh viện. Vậy là tôi liền quyết định đến thăm cô ấy, bất luận là vì đồng cảm hay là trách nhiệm, cũng bất luận cô ấy là có điên thật hay không.
Ban nãy bác sỹ nói với tôi, hôm qua lúc Xuân Vũ được đưa vào bệnh viện, thần kinh không minh mẫn, hỏi gì cô ấy cũng không trả lời được, miệng lẩm bẩm không hiểu nói những gì, khả năng bị hoảng sợ cao độ tới mức bị thần kinh phân liệt rồi. Bác sỹ không hy vọng tôi có thể hỏi được gì từ cô ấy, ông cho rằng khả năng Xuân Vũ phải trải qua một đợt điều trị kéo dài mới có thể hồi phục lại.
Lúc này, Xuân Vũ chầm chậm ngẩng đầu lên, cô ấy nhìn chằm chằm vào mắt tôi giống một con cừu trước khi bị kết liễu, cảm giác tuyệt vọng và bất lực. Trái tim tôi run rẩy, lẽ nào tôi đáng sợ vậy sao? Nhưng, nếu như không có "Hoang thôn" của tôi thì cô ấy có thể tới bước đường cùng như hiện nay không? Nghĩ tới đây, tôi cúi đầu im lặng.
Ngoài sức tưởng tượng của tôi, Xuân Vũ là người mở miệng trước: “Anh rút cuộc tới rồi”.
“Cô biết tôi sẽ đến sao? Hay là cứ thế ngồi đợi tôi xuất hiện?”
“Đúng, tôi biết anh nhất định sẽ tới tìm tôi. Nói đi, có phải cả ba người họ đều đã chết rồi không?”
Kỳ lạ, không phải bác sỹ nói cô ấy điên rồi sao? Nhưng giọng điệu cô ấy lúc này rất bình tĩnh còn thần sắc và biểu cảm cũng rất bình thường, nhìn không ra bất cứ dấu hiệu tâm thần nào.
Đối diện với câu hỏi của cô ấy, tôi cũng có chút ngần ngại, nếu nói ra tin Tô Thiên Bình đã chết thì có kích động tới cô ấy không? Tôi đành phải gượng cười nói: “Cô đừng lo lắng quá, cô ở đây rất an toàn”.
“Thôi đi, tôi biết đây là đâu”. Giọng điệu của cô ấy già dặn hơn rất nhiều, hình như không còn là một nữ sinh nhỏ nhắn nữa, “Anh nhất định là đến hỏi tôi, đã xảy ra chuyện gì ở Hoang thôn đúng không?”
“Có lẽ là thế, nhưng tôi đã biết được chút ít rồi”.
“Là Tô Thiên Bình kể cho anh?”
“Đúng, tôi và cậu ta đã nói chuyện với nhau”.
Nhưng Xuân Vũ lắc lắc đầu nói: “Anh vẫn còn chưa biết một số chuyện đâu”.
“Là chuyện gì?”
Ánh mắt của cô ấy đột nhiên có chút hoảng loạn, khưng lại một hồi mới thốt ra: “Miệng giếng đó…”
“Giếng?”
Nhịp tim tôi lập tức loạn nhịp.
“Đúng thế, sau sân Tiến Sỹ Đệ có một chiếc giếng, về bí mật của chiếc giếng”. Xuân Vũ bắt đầu thở dốc, cô ấy vuốt tóc tên trán nói, “Trước hôm rời khỏi Hoang thôn, Tô Thiên Bình và Hàn Tiểu Phong đều ở lại trong Tiến Sỹ Đệ, nhưng tôi và Hoắc Cường lại ra ngoài đi loanh quanh, tôi hỏi thăm một ông cụ trong thôn, nghe nói cụ ấy là người cao tuổi nhất ở Hoang thôn rất quen thuộc và nắm rõ các truyền thuyết về Hoang thôn”.
“Các bạn đã tìm thấy cụ già đó rồi?”
“Đúng vậy, cụ già này râu tóc bạc phơ, râu để dài cả chòm, ít nhất cũng phải ngoài tám mươi tuổi rồi. Cụ giống hệt những dân thôn ở Hoang thôn, ánh mắt cụ nhìn chúng tôi rất kỳ quái, sau đó kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện thế vợ…”
“Thế vợ?”
“Anh hiểu ý nghĩa của thế vợ?”
“Ừ, tôi biết, kể tiếp đi”.
“Những năm đầu Dân quốc, gia đình Âu Dương ở Hoang thôn rất giàu có, nhưng lão gia Âu Dương bao năm vẫn chưa có con nên đã bỏ tiền ra thuê một người đàn bà nghèo về làm vợ thế. Sau đó, vợ thế đẻ cho ông ta một cậu con trai, nhưng cô ta luôn muốn bỏ trốn khỏi Tiến Sỹ Đệ để gặp lại người chồng và con trai trước đây. Lão gia nhốt cô vào hậu viên. Rút cuộc tới một ngày, vợ thế bỏ trốn khỏi Tiến Sỹ Đệ chuẩn bị cao chạy xa bay, nhưng lại bị gia đình Âu Dương bắt lại, lão gia quyết định trừng phạt cô bằng thủ đoạn cay nghiệt”.
“Dìm giếng…”
Tôi chậm rãi thốt ra hai từ này.
Xuân Vũ tỏ ra rất bất ngờ: “Anh biết câu chuyện này?”
“Đúng thế, vợ thế bị dìm xuống giếng. Từ đó trở đi, không ai dám tới hậu viên nữa”.
Đột nhiên, tôi nhớ tới Tiểu Sảnh, cô ấy đã từng kể cho tôi câu chuyện này, rõ ràng câu chuyện này là có thật.
Xuân Vũ tiếp tục nói: Nhưng anh nhất định không biết, ông cụ kể chuyện cho chúng tôi chính là con trai của vợ thế đó”.
“Con trai của vợ thế?”
“Là con trai với chồng trước, trước khi vợ thế vào nhà Âu Dương. Ông cụ nói ông rất hận gia đình Âu Dương, thực ra tất cả mọi người ở Hoang thôn đều không thích Tiến Sỹ Đệ. Sau năm 1949, gia đình Âu Dương lụi bại thì càng không có ai để ý tới gia đình họ, gia tộc này giống như cô hồn ma dại trấn giữ ngôi nhà cổ, nhân khẩu càng ngày càng khan hiếm, bây giờ xem ra triệt để tuyệt hậu rồi”.
Tôi thở dài: “Chắc đây chính là báo ứng”.
Xuân Vũ gật gật đầu, cô ấy nói chuyện đã bắt đầu có chút khó khăn: “Ngoài ra… ông cụ còn nói Hoang thôn cổ đại là một… làng phong”.
“Làng phong?”
Cái này là lần đầu tiên tôi nghe thấy. Thậm chí trong truyện "Hoang thôn" của tôi còn nói là người dân Hoang thôn chính là di dân phương bắc tới từ thời Tĩnh Khang đời Tống, hoàn toàn vượt ra khỏi sự hư cấu của tôi.
“Đúng thế, thời xưa những bệnh nhân phong rất bị kỳ thị, họ bị đuổi ra khỏi nhà, lang thang tứ phương thật đáng thương. Rất nhiều bệnh nhân phong vì sinh tồn đạ tụ họp nhau lại, trèo đèo lội suối đi đường trường tới mảnh đất hoang vắng cạnh biển nảy và đặt tên cho nó là Hoang thôn. Nhưng, trước khi họ tới đây thì đã có một gia tộc đời đời định cư tại đây, đó chính là gia tộc Âu Dương”.
“Gia tộc Âu Dương sống cùng những người bệnh phong và cùng nhau tập hợp thành Hoang thôn?”
“Nhưng không biết tại sao, gia đình Âu Dương không có một ai bị mắc bệnh phong. Còn những bệnh nhân phong từ nơi khác tới đa số đều sống thọ, hơn nữa còn sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, trải qua sự phát triển phồn thịnh của mười mấy đời người, bệnh phong đã dần dần biến mất khỏi Hoang thôn”.
“Thật là không thể tin được, bệnh phong thời xưa được nhận định là tuyệt chứng, không ai có thể chữa được căn bệnh này”.
“Thực sự như thế, thế nên mấy trăm năm sau, rất ít người cả gan tiến vào Hoang thôn”.
“Đây cũng là nguyên nhân mà Hoang thôn bảo thủ và cách biệt với thế giới bên ngoài, đúng không?”
“Đúng, nhưng không chỉ có những điều đó”. Đột nhiên, ánh mắt Xuân Vũ biến thành dị dạng trở lại, “Mấy trăm năm nay, Hoang thôn luôn có một truyền thuyết thế này: có một bí mật trọng đại không một ai biết được chôn giấu tại một nơi nào đó trong Hoang thôn, tất cả những người nơi khác tới Hoang thôn đều sẽ bị nguyền rủa bởi lời nguyền thần bí đó”.
Tôi bỗng dưng lạnh toát, nhìn dáng vẻ kỳ quái của Xuân Vũ chậm rãi nói: “Tất cả những người từ nơi khác tới đều sẽ bị nguyền rủa?”
“Không sai, không một ai thoát được”.
Câu trả lời của Xuân Vũ chắc như định đóng cột.
Nhưng vấn đề là tôi cũng là “người nơi khác tới”.
Tôi cảm giác mình như bị cái gì đó bắn trúng, bất giác sững lại, cúi đầu trong vô thức, chìm đắm trong suy tư.
Xuân Vũ giống như trúng tà, miệng lẩm bẩm lải nhải mãi một câu: “Không một ai thoát được… Không một ai thoát được… Không một ai thoát được…”
Thật không thể tin nổi, trông cô ấy lúc này chẳng khác gì phù thủy còn câu nói trong miệng cô giống lời nguyền cổ xưa, văng vẳng mãi bên tia tôi không dứt. Tôi căng thẳng nhìn mặt cô ấy, lớn tiếng nói: “Xuân Vũ, cô sao thế, tỉnh dậy mau”.
“Không một ai thoát được… Không một ai thoát được… Không một ai thoát được”
Cô ấy dường như biến thành một con người khác, đôi mắt vô thần nhìn về phía trước, đầu thì lắc lư theo miệng, tần số lắc càng lúc càng nhanh khiến tôi cũng chóng cả mặt, tôi vội vàng hét lên gọi y tá.
Lúc này, theo nhịp lắc điên loạn của Xuân Vũ, một vật đeo lúc lắc được giấu trong lòng cô rơi ra. Phút chốc, mắt tôi như bị vật gì đó đâm thấu, vật đó chính là một chiếc nhẫn ngọc.
Tôi không buồn để ý tới Xuân Vũ đang phát điên, mắt nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn đeo trước ngực cô ấy, nó phát ra một thứ ánh sáng kỳ lạ, khiến mắt tôi cũng dao động theo nó.
Nam y tá cường tráng xông lên, vất vả lắm mới khống chế được Xuân Vũ, sau đó một y tá khác tiêm cho cô ấy. Trong quá trình Xuân Vũ giãy giũa giằng co, sợi dây trên cổ cô ấy đứt ra, chiếc nhẫn rơi ra đất. Tôi lập tức cúi người nhặt chiếc nhẫn ngọc lên, lùi sang một bên nhìn Xuân Vũ.
Khoảng mười phút sau, các y tá rời khỏi phòng. Xuân Vũ rút cuộc đãphục hồi trấn tĩnh, vẻ mặt mệt mỏi nhìn tôi.
Tôi lắc lắc chiếc nhẫn trước mặt cô ấy nói: “Xin lỗi, đồ của cô rơi rồi”.
Xuân Vũ nhíu mắt nhìn chiếc nhẫn một lúc: “Không, đây không phải là đồ của tôi, anh cầm lấy đi”.
“Thế nó là của ai?”
Cô ấy trả lời bằng một giọng kỳ dị và buồn rầu: “Nó thuộc về Hoang thôn”.
“Hoang thôn?”
Tôi lại tỉ mẩn nhìn chiếc nhẫn ngọc, nó dày dặn hơn những chiếc nhẫn thông thường, chủ yếu là một nửa màu xanh non trong suốt, nhưng phía bên cạnh của chiếc nhẫn lại có màu đỏ đun rất kỳ lạ.
Phút chốc, tay tôi như bị điện giật, trong đầu hồi tưởng lại những câu hỏi của Tô Thiên Bình. Đúng, ở Hoang thôn họ đã xâm nhập vào một cung điện bí ẩn dưới lòng đất, ở tầng dưới cùng của địa cung, họ đã phát hiện ra một chiếc rương ngọc, bên trong có đựng một chiếc nhẫn ngọc.
Chính là chiếc nhẫn này, giống hệt như Tô Thiên Bình đã miêu tả.
Đột nhiên, tôi nhìn Xuân Vũ chằm chằm nói: “Chiếc nhẫn ngọc này đúng ra là của mật thất dưới lòng đất tại Hoang thôn?”
Cô ta xem ra có chút sợ hãi, lập tức gật gật đầu.
“Lúc đó, đèn pin của Hoắc Cường bị rơi hỏng, thế nên cô nhân cơ hội bóng tối, trộm chiếc nhẫn nảy từ mật thất ra?”
"Đúng thế, anh cầm lấy nó đi”. Xuân Vũ run rẩy nói, đôi mắt quả rất lạnh lùng.
Lúc này, các y tá đột nhiên đi vào, họ dìu Xuân Vũ để đưa cô ấy tới khu nằm viện.
Xuân Vũ rất phục tùng đi theo, nhưng khi cô ấy bước tới cửa, giống như vừa đột nhiên nhớ ra gì đó, quay đầu lại nói với tôi: “Còn có một tấm ảnh…”
“Ảnh gì?”
Tôi lập tức lao bổ về phía cô ấy, các y tá tóm lấy tay cô kéo ra ngoài. Xuân Vũ dùng tay còn lại bám chặt vào thành cửa, hấp tấp nói: “Một bức ảnh về Hoang thôn, bị Hàn Tiểu Phong lấy đi rồi”.
Tôi chưa kịp trả lời thì Xuân Vũ đã bị các y tá kéo ra ngoài hành lang, cô ấy chu nguyện, bước theo con đường nhỏ, hai mắt không ngừng quét dọc hai bên đường.
Sắc trời càng lúc càng âm u, đột nhiên có vài giọt mưa rơi xuống khiến lòng tôi càng trở nên bất an.
Khi tôi đang chạy tới cuối đường An Tức bỗng nhiên phát hiện ra giữa một đống đổ nát sừng sững một ngôi nhà màu xanh lá cây.
Đây là một căn nhà ba tầng kiểu dáng của Anh quốc, trên tường phủ kín những dây leo mày xanh lá cây bao trọn lấy cả ngôi nhà. Mưa càng lúc càng to, dưới bầu trời u ám, căn nhà màu xanh này đứng sừng sững cô độc, xung quanh toàn là những bức tường đổ nát. Tôi cảm thấy cảnh tượng này thật sành điệu, giống hệt như di chỉ cổ đại trên thảo nguyên hoang tàn nước Anh khiến người ta tim đập thình thịch từng hồi.
Nước mưa càng lúc càng dày đặc quất vào mặt tôi, tôi đành phải dẫm lên đống gạch ngói hoang phế, chạy về phía ngôi nhà màu xanh.
Bỗng nhiên, tôi phát hiện một phụ nữ trẻ đứng dưới lầu đang ngước mắt lên nhìn đỉnh ngôi nhà, cô ta mặc một chiếc váy trắng nhưng không che ô, nước mưa dần dần làm ướt cô ta khiến chiếc váy bó sát cơ thể, nhìn từ đằng sau dáng dấp của cô ta thật sự vô cùng hấp dẫn.
Tôi rút cuộc đã lao tới nơi, lập tức thốt lên tên của cô ta: “Tiểu Sảnh”.
Sắc mặt của cô ấy hình như kon63, thẫn thờ quay đầu lại nói: “Anh tới muộn rồi”.
“Xin lỗi, sao cô lại đứng đây, cẩn thận ướt mưa bị lạnh đấy”. Trong lúc nói chuyện, tôi cũng phát hiện ra mình cũng đã bị ướt hết cả người từ lúc nào rồi, điệu bộ còn lếch thếch hơn cả cô ta.
Tiểu Sảnh không buồn để ý tới lời tôi nói, cô ta vẫn đứng nhìn chằm chằm vào ngôi nhà nói: “Đây chính là quán trọ Hoang thôn”.
“quán trọ Hoang thôn?”
Bốn chữ này khiên tôi chột dạ, lúc này tôi mới phát hiện ra tấm biển số nhà treo dưới tầng trệt “Số 13 đường An Tức”.
Không sai, nơi Diệp Tiêu nói chính là chỗ này, tôi không sao kìm chế được sự kích động trong lòng, nắm lấy tay Tiểu Sảnh xông vào ngôi nhà.
Giây phút nắm lấy tay cô ấy, lòng tôi bỗng ấm áp, làn da cô ấy trơn mịn và mát rượi, còn ướt cả những hạt mưa, cảm giác vừa trơn vừa mịn khiến tôi bất giác cũng cảm thấy ngại ngùng.
Nhưng cô ấy dằng tay lại nói: “Đừng, tôi cảm giác ngôi nhà này rất kỳ quái, chúng ta đừng tự ý xông vào”.
“Cô muốn thành gà mắc tóc dưới mưa sao?”
Tôi nắm chặt tay cô ấy, lao nhanh về phía cửa ra vào, hiên nhà giúp chúng tôi chắn mưa, tôi ra sức gõ cửa, nhưng đằng sau cánh cửa không chút phản ứng. Tôi lại nhoài lên cửa sổ để nhìn vào bên trong, nhưng trong đó quả thật rất tối.
Trong lúc vội vã, chúng tôi vòng ra phía sau ngôi nhà thì phát hiện ra một cửa sau không hề bắt mắt, hình như chỉ là che đậy qua quýt. Tôi thử nhẹ nhàng đẩy cửa, không ngờ rằng cánh cửa liền mở ra. Tôi lập tức kéo Tiểu Sảnh đi vào trong.
Tôi đã bước vào quán trọ Hoang thôn.
Bước vào cửa là một dãy hành lang, chất đống linh tinh những đồ gia dụng cũ kĩ và rác rưởi, ánh sáng tối tăm khiến mắt của chúng tôi không thích ứng lắm, lớp bụi tung bay theo từng bước chân của chúng tôi tiến vào, tôi vội vàng dùng tay che miệng và mũi.
Mãi đến lúc này, bàn tay của Tiểu Sảnh mới giảy ra khỏi tay tôi, cô ấy xoa xao cổ tay nói: “Đây là do anh muốn xông vào đấy nhé”.
Lớp bụi đã dần dần bay đi, tôi thở dài nói: “Ban nãy trong điện thoại, không phải cô nói rất muốn xem quán trọ Hoang thôn sao? Sao bây giờ lại thấy sợ rồi?”
“Tôi cũng không hiểu tại sao?” Tiểu Sảnh lấy tay lau lau mái tóc ướt mưa để lộ ra ánh mắt hoảng hốt, “khi tôi đứng dưới ngôi nhà, lúc ngước lên nhìn cửa sổ tầng ba trong lòng bỗng có cảm giác kỳ quái, tôi không thể diễn tả bằng lời nhưng thực sự tôi cảm thấy rất khủng khiếp, khủng khiếp vì ngôi nhà này”.
Nghe giọng nói u sầu của cô ấy khiến lòng tôi cũng có chút sợ hãi nhưng tôi vẫn cứ an ủi cô ấy: “Không, đấy chỉ là tác động tâm lý của cô mà thôi”.
Nhưng cô ấy vẫn lắc đầu quầy quậy, bàn tay lại bắt đầu lau váy đang bị ướt mưa.
Tôi có chút bối rối hỏi: “Cô bị ướt hết rồi, có sao không? Có cần tôi đưa cô về không?”
“Không sao đâu, dù sao cũng đã vào đây rồi, chúng ta xem thế nào trước đã”.
Tiểu Sảnh rút cuộc đã ngẩng đầu lên, người cô ấy đã lau khô được chút ít, ánh mắt thẫn thờ nhìn về phía cuối hành lang, ở đó chìm đắm trong bóng tôi đặc quánh.
Tôi rón rén đi trước, mỗi bước chân đều khiến bụi tung bay, tôi không ngừng dùng tay phẩy bụi, cảm giác giống như đang đi trong một đường hầm khiến tôi nhớ lại địa cung Hoang thôn mà Tô Thiên Bình từng kể lại.
Đột nhiên, bên cạnh hành lang xuất hiện một căn phòng, trong ánh sáng tù mù có thể phân biệt mang máng, đây là một cửa tối om để tiến vào, cánh cửa ban nãy tôi gõ chính là cánh cửa này.
Sau cánh cửa là căn phòng trống hươ trống hoắc, tôi ngẩng đầu tỉ mỉ quan sát tường và sàn nhà, xem ra thiết kế của căn phòng này không đến nỗi tệ, mang phong cách Anh quốc. Chỉ là trên tường phủ kín bụi, còn có cả những vết bẩn tích lũy qua bao năm tháng, rất nhiều chỗ trên sàn nhà đều đã bong tróc, cảm giác loang lổ này khiến người ta nhụt chí.
Bên trong còn có một phòng khách, mắt tôi giờ đã thích ứng với bóng tối, phát hiện ra phòng khách này rất rộng rãi, nếu có tới vài chục người khiêu vũ ở đây chắc vẫn chứa đủ. Bên cạnh phòng khách còn có một chiếc cầu thang hình xoắn ốc, tôi tới bên cầu tahng ngẩng đầu lên nhìn, đắn đo một lúc lâu nhưng vẫn không dám đi lên đó. Có lẽ do bị đóng cửa quá lâu nên căn phòng này tỏa ra một mùi ẩm mốc khiến những người bước vào cảm thấy tức thở.
Sau đó, Tiểu Sảnh đi vào căn phòng bên cạnh, tôi vội vàng đi theo cô ấy. Đó cũng là một căn phòng rộng rãi, ánh sáng có vẻ khá hơn căn phòng ban nãy một chút. Nhưng khiến chúng tôi ngạc nhiên ở chỗ, căn phòng này có đặt một chiếc đàn dương cầm màu đen.
Tiểu Sảnh lập tức lao tới, tuy trên mặt đàn phủ rất nhiều bụi nhưng cô ấy vẫn mở ắp đàn ra. Một dãy những phím đàn đen trắng so le nhau lộ ra, cô ấy lấy tay nhấn lên những phím đàn. Tuy nhiên tiếng nhạc diệu kỳ đã không vang lên như tưởng tượng, chiếc đàn này giống như một người câm, cho dù Tiểu Sảnh ấn thế nào đi chăng nữa nó đều không phát ra bất cứ âm thanh gì.
Tôi cẩn thận nhìn mác gắn trên mặt đàn, nó được sản xuất tại Anh quốc, vào năm 1947. Tôi lắc đầu nói: “Đã bao nhiêu năm qua, chiếc đàn dương cầm này chắc hỏng từ lâu rồi. Nếu như mà chưa hỏng thì chiếc đàn dương cầm quý giá đáng tiền này chắc đã bị người ta dọn đi từ lâu rồi”.
Sau đó, tôi lại ra phía sau đàn xem xem, quả nhiên như vậy, linh kiện bên trong đều đã bị đổ gãy, giống như một chiếc máy rách nát chỉ còn lại sắt thép rỉ sét.
Tiểu Sảnh cũng gật gật đầu, cô ấy thất vọng đậy nắp đàn lại: “Anh nói không sai, nếu không thì nó đã không còn ở đây”.
Lúc này, tôi quay đầu lại để xem bức tường bên cạnh, rồi lại nhìn chiếc đàn, đột nhiên kêu lên: “Chính là chỗ này rồi”.
“Anh nói cái gì?”
“Giống hệt như trong ảnh!”
Tôi lập tức lấy bức ảnh từ trong cặp ra, vốn là bức ảnh gia đình Âu Dương, tôi chỉ vào bức tường trước mặt, Tiểu Sảnh cũng lập tức gật đầu: “Đúng, đàn dương cầm và bếp lò”.
Hóa ra, trên bức tường này có khảm nạm một chiếc bếp lò to, trên góc tường còn có vài chiếc đèn phong cách phương tây, cộng thêm cả chiếc đàn dương cầm thì hoàn toàn giống với bối cảnh trong bức ảnh cũ này. Chúng tôi lại cẩn thận đối chiếu thêm một chút, cầm bức ảnh tới một góc khác trong phòng, đây có lẽ là vị trí mà người thợ chụp ảnh đứng, đứng tại chỗ này nhìn ra thì quả thật giống hệt với góc độ nhìn thấy trong ảnh. Bối cảnh đằng sau hình như không có chút biến đổi nào, dường như thời gian đã ngưng đọng trong căn phòng này.
“Chính là chụp tại căn phòng này”. Tôi sững người ra nhìn tấm ảnh cũ kĩ này: “Không sai, nơi đây chính là quán trọ Hoang thôn. Đã hơn năm mươi năm qua đi, nhưng chúng ta đứng tại đây, nhìn những người trong ảnh mà dường như họ vẫn đang ở trong căn phòng này”.
“Đừng nói linh tinh”. Tiểu Sảnh lập tức ngắt lời tôi, giống như tôi đã phạm phải một điều tối kị nào đó. Cô ấy lại quay đầu lại nhìn ra ngoài cửa sổ, bên ngoài mưa như trút nước, màn mưa dày đặc hòa cùng sắc trời ủy mị, trộn với cả không khí ẩm ướt cùng mùi ẩm mốc cũ kĩ của căn phòng này đều khiến người ta cảm thay61kho1 thở.
“Bên ngoài mưa to thế, không thể tạnh ngay được, chúng ta đi xem ngôi nhà này trước đã”.
Vừa nói tôi vừa bước ra khỏi căn phòng này, lại xuống đi một vòng khắp tầng một. Bên cạnh phòng khách hình như là một nhà bếp, nhưng không thấy bất cứ đồ gia dụng nào, mạng nhện giăng kín trên bếp lò. Ngoài ra còn có vài căn phòng nhỏ, hình như là để cho những người giúp việc ở.
Tôi lại tới chỗ lên cầu thang, cẩn thận rón rén bước lên, chiếc cầu thang xoắn ốc này vẫn còn khá kiên cố, chỉ có lan can là phủ kín bụi. Bước một vòng theo cầu thang, rút cục tôi đã tới tầng hai của quán trọ Hoang thôn. Trước mặt là một dãy hành lang dài nhưng không nhìn thấy dù chỉ là một tia ánh sáng đã khiến tôi không dám cả gan tùy tiện bước vào. Trên tường có một chiếc công tắc đèn, tôi thử ấn một cái, không ngờ đèn đã bật sáng, hóa ra ở đây từ trước tới nay vẫn chưa ngắt điện.
Bỗng nhiên, tiếng bước chân lanh lảnh của Tiểu Sảnh theo lên, căn phòng trống rỗng vọng lại những âm thanh kỳ quái, tôi mỉm cười với cô ấy: “Có lẽ ở đây vẫn có thể ở được”.
Nhưng vẻ mặt cô ấy vẫn giữ nguyên vẻ nghiêm túc: “Nhưng tại sao bao lâu nay lại chẳng có ai ở? Xem ra ít nhất cũng đóng cửa để không vài năm nay rồi”.
Tôi tiến thẳng về phía hành lang, ánh đèn trên trần rất tối chiếu lên một khoảng không đầy bụi, cảm giác như một đám khói đặc quánh. Tôi ra sức khua tay tán đám bụi đi, lấy hết dũng khí đi vào cánh cửa bên cạnh.
Căn phòng rộng khoảng mười mấy mét vuông này, bên trong cũng trống hươ trống hoắc, bức tường bị ẩm đều đã bong tróc hết cả. Tôi chậm rãi bước tới trước cửa sổ, ven cửa sổ giăng kín những dây leo xanh mướt, dường như muốn che kín cả một nửa cửa sổ. Nhìn qua những kẽ lá che lấp cửa sổ là cả một công trường hoang phế và đổ nát, phía xa xa là những công trình cao ốc đã được dựng nên. Mưa to vẫn đang trút xuống ngoài cửa sổ,vài giọt mưa bắn vào qua ô cửa kính bị vỡ, tôi hít một hơi thật sâu, đến cả không khí cũng ẩm ướt, căn phòng này giống như được ngâm trong nước.
Tôi quay đầu lại, nhìn thấy Tiểu Sảnh đứng ngoài cửa, sắc mặt cô ấy trắng bệch dị thường, mái tóc ẩm ướt dính từng búi trên trán, ánh mắt cũng toát lên vẻ mệt mỏi. Tôi tới bên cô ấy nói: “Có phải bị lạnh rồi không?”
“Không, tôi chỉ cảm thấy không khí của căn phòng này có chút quái dị”.
“Nhà cổ đều có mùi này, bình thường thôi”.
Sau đó, tôi tới cửa cầu thang trên hành lang, ngó nghiêng lên phía tầng ba. Trên lầu lộ ra vài tia sáng yếu ớt, tôi vịn lan can đắn đo một hồi lâu, tim đập nhanh một cách vô cớ.
Khi chân tôi vừa đặt lên sàn nhà, Tiểu Sảnh đột nhiên kéo tôi lại, cô ta rầu rĩ nói: “Đừng lên đó”.
“Tại sao?”
Mắt cô ấy sững lại nhìn xoáy vào mắt tôi: “Không biết, nhưng anh đứng lên”.
Tôi và cô ấy bốn mắt nhìn nhau vài phút, nhưng rút cuộc tôi đã từ bỏ: “Được, chúng ta rời khỏi đây thôi”.
Đi xuống cầu thang xoắn ốc, chúng tôi trở lại tầng trệt, cửa trước hình như bị khóa chết rồi, đành phải đi ra từ hành lang như lúc tới. Bên hành lang chất đống những đồ đạc linh tinh, tôi phát hiện trong đó có một chiếc ô, đúng kiểu ô đen cán sắt thời những thập kỷ 80, tôi thử căng chiếc ô lên, xem ra vẫn có thể sử dụng.
Vậy là, tôi và Tiểu Sảnh dùng chung một chiếc ô, ra khỏi quán trọ Hoang thôn bằng cửa sau.
Ra khỏi ngôi nhà cổ ức chế này, chúng tôi đều tham lam hít thở không khí trong mưa, mưa to không ngừng rơi đập xuống ô. May mà chiếc ô này che được rất rộng, vừa vặn có thể dung nạp hai chúng tôi, còn Tiểu Sảnh có vẻ như ý tứ giữ khoảng cách với tôi, cố gắng hết sức không chạm vào người tôi.
Cả đoạn đường toàn là gạch ngó đổ nát ngổn ngang, giống như đang đi trên một di chỉ cổ đại. Tôi chốc chốc lại ngoái đầu nhìn, quán trọ Hoang thôn sừng sững giữa đống hoang tàn, khắp thân mình nó đều bị những dây leo quấn chặt. Tôi tưởng tượng ra mưa to sẽ khiến những thực vật này phát triển mạnh mẽ, lá xanh sẽ vươn tới từng ngóc ngách của ngôi nhà cổ, đây có lẽ là niềm vui cuống nhiệt cuối cùng của chúng.
Chúng tôi đi lại trong mưa thật khó khăn, vất vả lắm mới đi khỏi đống hoang tàn này, tôi đột nhiên nhớ ra gì đó: “Đợi đã, tôi còn muốn tới một nơi nữa”
Mưa to hình như đã khiến Tiểu Sảnh có chút bực bội khó chịu: “Đi đâu?”
“Công ty bất động sản, chỉ có ở đấy mới hỏi ra được nhiều hơn tình hình liên quan tới ngôi nhà”.
Tiểu Sảnh do dự một lúc nói: “Được thôi, chúng ta đi”.
Ngày mưa gió quả thật chẳng gặp được mấy người, chúng tôi vất vả lắm mới hỏi thăm được địa chỉ của công ty bất động sản, chính là chỗ cách nơi này hai con phố. Vậy là tôi và Tiểu Sảnh cùng chung chiếc ô, vội vàng tìm tới công ty bất động sản.
Tôi vờ xưng mình là phóng viên muốn làm một phóng sự điều tra về ngôi nhà cổ để hỏi thăm công ty bất động sản về ngôi nhà số 3 trên đường An Tức.
“Số 13 đường An Tức?” người phụ trách của công ty bất động sản hít một hơi lạnh toát, anh ta ngạc nhiên hỏi: “Các bạn sao lại hỏi về ngôi nhà đó?”
“Có gì không bình thường sao?”
“Ngôi nhà cổ đó mười hôm nữa là đập rồi”.
Bỗng dưng trong lòng tôi như bị một nắm đấm, vội vàng lắc đầu nói: “Không thể được, sao lại phải đập nó đi chứ?”
“Các bạn không nhìn thấy sao? Cả đường An Tức đều đã tháo dỡ sạch rồi, bây giờ chỉ còn sót lại mỗi ngôi nhà cổ đó. Theo như kế hoạch thi công của đội di dời, số 13 đường An Tức sẽ là ngôi nhà cuối cùng được đập đi”.
“Tại sao phải đập nó đi?”
“Dải đất hai bên đường An Tức dều đã được phê chuẩn cho thuê, chuẩn bị xây cao ốc”.
Tôi phút chốc bỗng trở nên bó tay: “Thế bây giờ ngôi nhà đó thuộc về ai?”
“Ngôi nhà đó vốn dĩ của nhà nước, cũng là sở hữu của công ty bất động sản chúng tôi, vài năm trước đã đóng cửa để không rồi, từ lâu đã không có người ở”.
“Ngôi nhà to nhu thế, sao lại không có người ở? Lẽ nào cũng không cho thuê được?”
“Đương nhiên muốn cho thuê đi rồi, cũng có rất nhiều người đến xem nhà, chuẩn bị bỏ ra cả đống tiền thuê lại. Nhưng người ta vừa bước vào nhà liền cảm thấy âm khí quá nặng, không may mắn. Bây giờ thuê nhà người ta coi trọng phong thủy, đặc biệt là những ông chủ có tiền, ai ai cũng đều rất mê tín, vừa thấy phong thủy không tốt một cái là nói thế nào cũng không dám thuê nữa”.
“Thế ông có biết tình hình của ngôi nhà nay trước giải phóng không?”
Ông ta lắc lắc đầu nói: “Thực sự lâu quá rồi, chúng tôi cũng không rõ nữa”.
Tôi hiểu rằng có hỏi thêm cũng chẳng được kết quả gì nên liền cảm ơn ông ta rồi vội vàng rời khỏi công ty bất động sản.
Mưa đã ngớt dần, ánh mắt của Tiểu Sảnh cứ có chút thẫn thờ, tôi đột nhiên chạm vào cô ấy nói: “Cô sao thế? Vừa nãy ở công ty bất động sản, cô chẳng nói câu nào”.
“Tôi có thể nói được gì?”
Cô ấy lạnh lùng trả lời, khẩu ngữ này khiến tôi nản chí.
Tôi cảm thấy vài phần tuyệt vọng, ngẩng đầu nói: “Thôi được rồi, Tiểu Sảnh, việc này vốn dĩ không liên quan gì tới cô, cô không cần tới nữa, quên hết tất cả đi”.
Tiểu Sảnh lắc lắc đầu nói: “Không, tôi cũng muốn biết bí mật của Hoang thôn”.
Tôi không biết phải nói thế nào với cô ấy, thực ra thì lòng tôi cũng đang rối bời. Tôi đưa chiếc ô vào tay cô ấy nói: “Tôi đi đây, tạm biệt… Không, không cần gặp lại nữa đâu”.
Sau đó, đến đầu cũng không ngoái lại, tôi lao vào màn mưa, chặn một chiếc tắc xi về nhà.
Ngồi hàng ghế sau trên tắc xi, tôi quay đầy lại nhìn Tiểu Sảnh bên đường, thân hình mảnh dẻ cùng cả chiếc ô đen giống như một bức tượng điêu khắc diễm lệ.