Chương 4
ĐÔI BẠN NHỎ

Câu chuyện thương tâm là câu chuyện giữa hai cậu nhỏ Uy và Đồng thân nhau hơn ruột thịt mà rồi một bên lỡ lầm...
Trước ngày bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc - 19-12-46 cha Uy đã bị công an Việt Minh  bắt, người ta tình nghi ông có dính líu với Quốc Dân đảng.  Gia đình còn lại hai mẹ con, tản cư lên Phú Thọ.  Ở đây mẹ Uy lúng túng vì sinh kế đành gửi Uy vào "trại thiếu nhi bác Hồ".  Nhưng bà đã gửi nhầm Uy vào đoàn trẻ thuộc Cô nhi viện phố Hàng Bột, Hà Nội nay tản cư lên đây.  Khi Pháp nhảy dù Phú Thọ, mẹ Uy chạy xuống xuôi - Việt Trì - còn Uy theo đoàn ngược Thanh Ba, ngược Vũ Yển, ngược Phê Đình, ngược Âm Thượng tới Văn Phú, dừng lại ở đây.  Uy hoàn toàn mất liên lạc với mẹ từ đấy.
Trên con đường di chuyển từ Phú Thọ ngược đến Văn Phú, Uy làm quen với Đồng rồi tình thân nảy nở rất chóng giữ đôi trẻ nhỏ.
   Đồng thực sự là trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, được nuôi trong cô nhi viện từ thủa còn phải ẵm ngửa.
Tới văn Phú đoàn thiếu nhi tự sửa soạn lấy nơi ăn chốn ở.  Tại Văn Phú cũng như tại Phê Đình, Âm Thượng, hai bên bờ sông chỉ thấy ngút ngàn ruộng mía, đây đó là mái tranh xám của những nhà quay mật.  Quanh nhà quay mật, bã mía phơi khô chất thành những đống lớn như đống rơm ở vùng xuôi, ruồi nhặng bao phủ trên đó như cả một sư đoàn chiếm trọn khu đồi trọc dưới một mô hình nhỏ; thỉnh thoảng thấy động chúng bay vù lên tiếng ve ve dào dạt rộng lớn, qua đi một vài giây chúng lại đậu xuống tựa như con nào về nguyên chỗ cũ của con ấy, chỉ còn lại tiếng bước chân trâu theo vòng tròn kéo mật và tiếng máy nghiến mía kin kít tự bên trong vọng ra đều đều.  Buổi trưa mùi bã mía khài khài bốc hơi dưới nắng tỏa ra ôm lấy khu nhà, trong khi mùi mật nồng nàn bốc lên từ lò lửa bên trong.
Buổi chiều Uy và Đồng ra sông tắm.  Đồng mới võ vẽ biết bơi, Uy dắt tay Đồng lội xuống nước lần theo bãi cát thoai thoải.  Chợt bàn chân Đồng gặp phải khoảng bùn trơn nhày nhụa rồi sao vào một khoảng hoắm sâu như giếng.  Vì mất đà, Đồng ngã sấp xuống bị cuốn theo dòng, Uy nhào vội ra túm được một cánh tay bạn rồi Uy cố lựa theo dòng nước bơi vào phía trong, một chân tầm phòng trên mặt nước, một chân quờ quạng bên dưới để xem đã đến quãng nông chưa.
Mấy lần chân Uy vừa chạm vào cát thì dòng nước như một cánh tay lực lưỡng và quái ác lại du Uy ra xa để gặp khối nước sâu lạnh như băng bên dưới.  Chắc là Đồng đã uống nhiều nước mà Uy thì cương quyết giữ chặt lấy tay bạn hy vọng rạt vào một quãng nông nào rộng hơn.  Chợt có một cánh tay khác lực lưỡng hơn cánh tay của dòng sông, cánh tay đó phải dài lắm vì quàng được cả hai đứa.  Đồng, Uy cùng ngửa mặt thở không khí vì cả hai được lật ngửa kẹp vào giữa cánh tay và khoảng xương háng của người cứu.
Thoáng một phút sau thân hình lực lưỡng đó đã nhoai tới khoảng nông, nước chỉ vừa ngập đầu gối, cánh tay lực lưỡng dựng Đồng, Uy đứng thẳng lên, rồi theo sau một tiếng thở phào là giọng nói khàn và ấm của một ông già:
   - Tí nữa các cháu chết nhé!
Còn run cầm cập Đồng, Uy ngẫng lên nhìn ân nhân.  Đó là một cụ già trạc trên sáu mươi tuổi nhưng còn vạm vỡ lắm, khuôn mặt cụ nếu đều đặn ra thì hình trái soan nhưng vì má hóp xuống (chắc hẳn vì mấy chiếc răng hàm rụng) lưỡng quyền nhô lên, chiếc cằm càng nhọn với mấy sợi râu màu muối tiêu khiến bộ mặt cụ phảng phất giống một trái vải chín mõm.  Đặc biệt cụ bị hói cả một khoảng từ trán đến gần đỉnh đầu, da khoảng đó nhẵn bóng như sẹo.  Khoảng tóc còn lại hai bên và phía sau cũng đã hoa râm và không được nhiều nhặn gì cho lắm.
   Cụ nhìn hai đứa trẻ lúc đó đã cùng cụ lên tới bãi cát.  Đôi mắt sáng cương quyết một cách thuần hậu, nụ cười còn thuần hậu hơn, cụ hỏi:
   - Quần áo của các cháu trên bãi cát đằng kia phải không?
   Đồng, Uy gật đầu.
   Cụ nói:
   - Đứng đây chờ bủ chạy lại lấy cho nghe!
   Lát sau Đồng, Uy đã ngồi sưởi bên lò mật của Bủ Tôn, tên cụ già (miền này chữ "bủ" có nghĩa như ông hay cụ miền xuôi).
   Lò mật của Bủ Tôn ở ngay bên bờ sông, còn nhà thì ở chân đồi cách đấy chừng ba trăm thước.  Về trại, tối hôm đó trước khi đi ngủ, Đồng nắm lấy tay Uy nói:
   - Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ.
   "Khi buồn" đây Đồng muốn ám chỉ tai nạn suýt chết đuối ban chiều.
II
   Dân chúng Văn Phú vẫn thường nhắc đến con hổ thọt đã tác họa cả vùng Tuyên Quang, Phú Tho, Yên Báy khoảng bốn mươi năm nay.  Khoảng mười năm đầu - hồi nó chưa bị thọt - riêng vùng này, có tới mười người bị nó vồ, như vậy trung bình mỗi năm một người bị nạn cọp.  Rồi đồn điền Văn Phú được mở mang giồng chè, sơn và trầu, chủ đồn điền là một người Pháp ưa săn bắn.  Con hổ bị ông rượt bắn trượt vào ngay năm đầu ( khi ông vừa tới Văn Phú), nó thành hổ thọt từ đấy và xuất hiện luôn quanh vùng, có năm tổng số nạn nhân lên tới ba hoặc bốn người.  Nó tăng cường hoạt động để trả thù? Tới đâu nó để lại hình tích: Ba vết chân lớn to bằng chiếc mũ và vết chân phải phía sau nhỏ như bông sen hàm tiếu.
   Rồi những chuyện hoang đường được thêu dệt trong dân chúng.  Người ta nói hổ thọt đã thành tinh, từng hiện hình người vẫy nạn nhân vào bụi rồi mới hiện thành hổ mà vồ.  Có lần - vẫn theo truyền thuyết hoang đường của dân vùng này - nó bắt chước tiếng mẹ gọi con; người con "dạ" một tiếng, vội vã mở cửa ra, bị nó vồ liền và cấu ngay vào yết hầu ( đã thành tinh nên vồ ai là nó biết cấu ngay vào yết hầu để hết kêu).
   Bốn mươi năm qua... hổ thọt còn sống như thường.  Hổ thành tinh hẳn không thể già yếu đi được, dân chúng nghĩ thế.  Mà có già yếu thì nó đã biết lột để trở thành cường tráng như xưa.
   Đồng, Uy đâu có ngờ những chuyện về con hổ thọt thành tinh đó lại có chút ít liên lạc đến cái đầu hói của ân nhân chúng là bủ Tôn.  Ngày đó bủ Tôn mới khoảng ba mươi tuổi, anh em bà con còn gọi là đoàn Tôn.  "Đoàn" là một chức vị trong hàng xã, ai cũng có thể bỏ tiền ra mua để được miễn tuần đinh, cũng như ở miền xuôi người ta mua "xã" mua "nhiêu".  Một hôm đoàn Tôn vào rừng hái củi được nửa chừng thì lên cơn sốt nhưng vẫn cố tiếp tục chặt cho đủ gánh.  Anh Đoàn lại không quên kiếm thêm ít măng tươi để lá nữa về nấu canh cho bầm (mẹ) sơi.  Trời đổ cơn mưa lớn, sấm sét vang động cả cánh rừng; anh Đoàn thấy ù tai, không phải vì sấm sét mà vì cơn sốt đã lên tới cực độ.  Đầu óc bỗng choáng váng, chân tay rời rã, Đoàn Tôn chỉ còn kịp nhận thấy chiếc miếu nhỏ thấp thoáng gần đấy trong màn mưa, bèn gắng rảo bước lại nằm vật dưới mái hành lang hẹp.  Anh Đoàn ưỡn ngực oằn oại người và rên một cách sảng khoái.  Anh Đoàn thấy mình hiện thành con hổ trắng như chuyện Tiết Nhân Quý xưa ở nhà nàng Liễu Kim Huê.  Anh đập đuôi gầm lên một tiếng vì trước mắt anh khi đó là con hổ thọt thành tinh.  Loài hổ quái ác ăn thịt người thành tinh thì cao quý sao bằng bạch hổ?  Anh gầm thêm một tiếng nữa rền vang thành sấm sét khiến con hổ thọt hoảng sợ chạy mất.  Mệt, anh gục xuống, đầu vẫn bừng bừng nóng.  Bỗng thấy lạnh trên đỉnh đầu, anh ngẫng lên, con hổ thọt đã trở lại lúc nào vừa thè lưỡi liếm.  Anh đứng nhỏm lên hùng dũng và hiên ngang như một thiên tướng khoác bào trắng, anh quật đuôi, gầm một tiếng còn uy nghi hơn tiếng sét và làm lóe lửa một góc trời.  Lần này hổ thọt chạy miết vào rừng sâu không còn dám thò mặt ra nữa.  Tiếng rên ngớt dần cùng với cơn sốt.  Chiều! Cơn mưa đã tạnh, chỉ còn tiếng con suối lên cao đương xoáy cuộn lao mình ra sông Thao.  Anh đoàn Tôn đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, chân tay bải hoải.  Quần áo anh ướt đẫm không phải vì nước mưa mà vì mồ hôi đổ ra trong cơn sốt như nung như nấu vừa qua.  Anh đứng dậy, lảo đảo tới chỗ kiếm củi khi nãy.  Chiếc dìu của anh bị bao phủ bởi một đống bọt trắng.  "Hừm, nước dãi con hổ thọt chứ gì"! - Anh nghĩ.
   Anh chỉ xách có cái rìu về.  Bầm chờ anh ở cửa.  Anh về nhà thay quần áo khô rồi nằm vật lên giường.  Bầm nấu cháo cho ăn ăn.  Mồ côi cha từ nhỏ và là con một, anh vẫn được bầm thương chiều.
   Ăn xong bát cháo, anh cúi đầu trầm ngâm một phút rồi mới nói:
   - Bầm ạ, lúc nãy con gặp hổ thọt.
   Bà cụ giật nẩy mình:
   - Mày gặp hổ thọt? Mày không bị nó ăn thịt?
   Nụ cười anh Đoàn tuy mệt nhọc, nhưng bao hàm biết bao là kiêu:
   - Lúc đó con đương lên cơn sốt, tướng tinh con xuất hiện thành Bạch Hổ.  Hai lần hổ thọt đến gần, hai lần con gầm lên, lần thứ hai con hổ thọt chạy mất hút vào rừng.  Nó liếm lên đầu con một cái.
   Bà cụ chắp tay trước ngực:
   - A di đà Phật, thì trước sau tao vẫn bảo là tao cầu tự được mày ở miểu Đức Bà.  Mày là con Đức Bà.  A di đà Phật, con Đức Bà tướng tinh Bạch Hổ thì hổ thọt làm gì được?
   (Miền này, ngay ven rừng cách bờ sông chừng một trăm thước, có chiếc miếu cổ thờ bà Âu Cơ, tương truyền dựng lên tự thời Lý cùng với chiếc miếu nữa ở Yên Báy).
   Tin anh đoàn Tôn tướng tinh Bạch Hổ đánh bạt hổ thọt lan đi rất chóng khắp vùng, ai cũng lắc đầu le lưỡi.  Anh lại bắt đầu rụng tóc.  Một năm sau anh hói từ trán tới đỉnh đầu.  Trước các anh em trong họ ngoài làng, anh thường đưa tay lên xoa khoảng hói đó và nói bằng giọng bình thản:
   - Nó chỉ liếm có một cái mà tóc rụng hết, độc thế!
   Anh vâng theo lời bầm lấy vợ nhưng được một năm thì vợ chết, chưa kịp có con.  Bầm cũng quy tiên.  ANh cho rằng mình tướng tinh Bạch Hổ nên hiếm con là phải và chẳng thấy chẳng nghĩ đến tục huyền nữa.  Vả lại bầm mất rồi còn ai đủ quyền giục anh việc đó?
   Tính anh thẳng thắn, hay giúp đỡ nên được nhiều người vì nể nhưng đôi khi cũng xảy ra sự xô xát có thể đưa đến ấu đả.  Những lúc đó anh đứng rạng chân, khoanh tay lại, uy nghi như Bạch Hổ và anh nói với địch thủ:
   - Mày cứ giỏi vào đây, đến hổ thọt ông còn không coi vào đâu nữa là mày.
   Sự thực, nguyên sức vóc anh đoàn Tôn đã vào hạng lực lưỡng vạm vỡ đáng kể, huống chi thành tích tướng tinh Bạch Hổ của anh với hổ thọt, bởi vậy khi anh nói vậy, địch thủ thường tìm cách rút lui có... trật tự.
   Anh đoàn Tôn xưa, nay đã thành bủ Tôn rồi.  Thấm thoát chóng thế! Bủ Tôn vẫn ở căn nhà cũ ở chân đồi, ven sông, lại còn dư dật tiền hùn vốn với mấy người cùng xã dựng lò kéo mật.  Cuộc đời cô độc nhiêu khi cũng làm bủ Tôn thấy buồn.  Bủ yêu trẻ lắm, song nhà cửa vùng trung du này cách nhau xa quá, lũ trẻ ít chịu đến chơi với bủ.  Hàng ngày chúng chỉ đến tụ tập ở lò mật.  Bủ thường mùa nào thức nấy mang hoa quả ở vườn nhà đến cho chúng:  chuối, quít, cam, nhãn...  Đôi khi gặp ngày phiên chợ bủ mua một ít bánh rán.  Lũ trẻ đến bủ cho thêm bát mật lò nhà để chúng thêm vào ăn cho thực ngọt đậm.  Trẻ con thích ngọt mà!
   Buổi chiều hôm đó nấu xong mẻ mật cuối cùng, bủ ra sông tắm thì thấy hai đứa trẻ đương chới với giữa dòng.  May mà bủ đứng phía dưới dòng nên nhào ra đón kịp.  Thoạt bủ tưởng chúng thuộc đoàn trẻ quen thuộc, hàng ngày gặp ở lò mật, ai ngờ đó là hai thiếu nhi "trại bác Hồ" mới đến.
   Đồng, Uy là những đứa trẻ biết nhớ ơn, nên kể từ đấy hằng ngày cứ vào buổi chiều, khi chúng không phải làm gì nữa, chúng cố bớt chút thì giờ đến căn nhà ở chân đồi thăm bủ một lát.  Từ trại thiếu nhi đi tắt qua bãi cát bờ sông đến nhà bủ chỉ chừng hai trăm thước là cùng.  Hai "ông khách tý hon" đó quen sau mà lại thăm bủ trước, chứ chẳng lười như lũ trẻ kia chỉ biết chờ quà ở lò mật.
   Bảo rằng Đồng, Uy là những đứa trẻ biết ơn cũng đúng, nhưng cũng đừng quên vì bủ Tôn yêu trẻ nên mới có sức "nam châm hút sắt" như vậy.
   Ba mươi năm qua, bủ Tôn chưa hề quên chuyện tướng tinh Bạch Hổ của mình đã từng làm bạt vía hổ thọt.  Ngày nay không còn những chuyện gây gổ như hồi còn trẻ, bủ không phải đứng khoanh tay hiên ngang như Bạch Hổ mà thách thức ai.  Trước anh em bà con thân thuộc thỉnh thoảng bủ chỉ đưa tay lên xoa khoảng đầu hói nhắc lại câu bủ vẫn nhắc từ xưa:
   - "Nó chỉ liếm có một cái mà tóc rụng hết, độc thế"!
III
   Sớm hôm đó trời còn mờ mờ sáng mà Đồng, Uy cũng đã dậy.  Đôi bạn nhỏ rủ nhau vác hai ống bương dài ra sông kiê"m nước để về kịp giờ điểm danh là vừa.  Trước sau rồi cũng phải làm công việc đó, làm sớm còn hơn.  Đường đi còn giữ nguyên hơi mát thăm thẳm của ban đêm, bóng tối còn tràn ngập khe lạch.  Đồng, Uy khi đi ngang cầu tre nhìn xuống chỉ thấp thoáng thấy mấy dòng nước nhỏ.  Gió sớm phe phẩy, những bụi cây dọc theo lạch nước xào xạc một cách huyền bí.
   Đồng theo đường mòn xuống sông trước.  Bỗng tiếng Đồng thét thanh:
   - Trời ơi, hổ thọt, Uy!
   Một luồng điện giụt làm tê ran khắp cơ thể, Uy nhẩy bổ xuống với Đồng.  Nguy biến đã thu hút đôi bạn nhỏ làm một chứ không tách rời.
   Đồng chỉ tay xuống khoảng cát ướt ngay trước mặt giọng run bần bật:
   - Hổ thọt, Uy ơi!
   Ba vết chân to bằng cái mũ cùng vết chân phải phía sau nhỏ bằng bông sen hàm tiếu in hằn kia, rõ quá và mới như còn đọng ngấn nước ở từng vết.
   Uy đứng sát Đồng, cả hai cùng dựng ống bương về phía trước như vừa dùng nó làm mộc che lại vừa dùng nó làm dáo để chuẩn bị chiến đấu.
   - Nó vừa ra đây uống nước - Uy nói - thấy động nhẩy vội vào bụi cây khe lạch, chắc thế!
   Mấy bông cỏ đuôi chồn - Đồng nhìn - ở ngay khoảng khe lạch phất phơ như nhịp theo với bước chân vô hình.  Mấy bông cỏ đuôi chồn ấy - Đồng nghĩ - mà chụm lại thì thành đuôi con hổ thọt.
   - Phải gọi bủ Tôn! - tiếng uy nói ăn khớp với ý Đồng nghĩ.
   - Phải bước giật lùi - vẫn tiếng Uy - nó đương rình, hễ quay lưng lại là chết với nó.
   Đôi bạn lùi nhanh mấy bước, bốn mắt dán lấy bụi cây khe lạch, nín thở.
   Tiếng Uy đã quyết định hét:
   - Bủ Tôn, cứu chúng cháu!
   Cùng với tiếng hét của uy, gió vừa xoay chiều thổi mạnh đưa cả một mảng sông đập phải khúc quành thốt thành một tiếng gầm, nước bắn tung tóe.  Tiếng Uy hét hòa với tiếng sóng đó như một cái gì tượng trưng cho kinh hoàng lồng vào một cái gì tượng trưng cho hung dữ.
   Đồng liếc nhìn lại phía sau, mái nhà Bủ Tôn trông khá rõ nhưng còn xa.
   Đôi bạn lùi nhanh thêm một mạch nữa, tiếng Uy hét cương quyết hơn:
   - Bủ Tôn, cứu chúng cháu!
   Có tiếng vang dập vào khúc quành của bờ đáp lại?
   Không, ôi sung sướng, đó là tiếng của Bủ Tôn:
   - Bủ Tôn đây! Gì đấy, các cháu?
   - Hổ thọt, bủ ơi!
   - A.. Hổ thọt, có bủ đây!
   Tiếng chân nhảy xuống bãi, tiếng chân chạy lại tưng bừng.  Thoắt thôi, bủ Tôn đã tiến tới, bủ còn cởi trần, hai tay không mang gì nhưng có bủ bên cạnh Đồng, Uy cũng cảm thấy hoàn toàn qua cơn tai biến.
   Đồng chỉ:
   - Bủ trông vết chân nó kìa.
   - Đích thị! - Bủ Tôn đáp rồi tiến nhanh lại cúi nhìn, rồi ngẩng về phía bụi cây khe lạch vẻ thách thức.
   - Các cháu ra kín nước? - Bủ hỏi giọng vang vang.
   - Vâng! - Đồng, Uy cùng đáp.
   - Cứ xuống kín nước đi, có bủ đây! - Bủ Tôn vẫn nhìn thẳng về phía bụi cây khe lạch nói như vậy.
   Đồng, Uy kín nước xong cùng bủ Tôn xếp thành hàng ngang lên đường cái.  Bủ Tôn luôn luôn án ngữ về phía bụi cây khe lạch, mắt luôn luôn dán về phía ấy, thành thử trong khi đi quành như thế bủ Tôn bỗng có dáng điệu khuềnh khoàng nghiêm trọng của một Samourai già đương vờn một địch thủ vô hình trong một bụi cây dưới chân núi Phú Sĩ.  Mặt trời  đã ló rạng, ánh hồng xua bóng tối khỏi khe lạch, dòng nước bên dưới tựa hồ rộng ra và tươi tỉnh như khuôn mặt đứa trẻ ngủ đẫy giấc, mấy bông cỏ đuôi chồn phất phơ dưới gió sớm hiền lành.
   - Bớ... hổ thọt... hổ thọt... có ta đây!
   Tiếng bủ Tôn vang lên, bủ cảm thấy tướng tinh của bủ đang bốc khỏi đầu óc hiện thành Bạch Hổ.  Tiếng bủ hét vừa rồi như có nhịp với tiếng gầm vang của tướng tinh và con mắt tâm linh của bủ như trông thấy hổ thọt, kìa, đang chạy miết... chạy miết...
   Đến cổng trại.
   - Các cháu vào nhé - bủ nói - bủ về.  Có bủ không sợ! Bủ tướng tinh Bạch Hổ mà!
   Đồng, Uy đã về kịp giờ điểm danh.  Đứng trong hàng, Đồng bỗng nắm lấy tay Uy, vẫn nhìn thẳng, nói:
   - Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ.
   Uy gật đầu mỉm cười.  Đã ba tháng nay chung sống với Đồng ở trại này, Uy nhận thấy cứ sau mỗi cơn nguy biến hoặc cực nhọc, Đồng lại nắm tay mình nhắc câu đó.
IV
   Ở Văn Phú bên những rừng mía ngút ngàn là tác phẩm của người, còn một thứ ngút ngàn hơn, ngút ngàn đến như bất tận, ấy là rừng tre nứa.  Tre nứa phủ kín đồi núi, tre nứa phủ kín thung lũng, tre nứa phủ kín hai bên bờ sông, do đó món ăn độc nhất của toàn "trại thiếu nhi bác Hồ" là măng tươi.  Với người thành thị măng là món ăn hiếm đắt và bổ nhưng ở đây măng nhiều quá, thừa ứ nên có dư luận ngược lại: vì ăn măng nhiều mà sốt rét ngã nước! Thực vậy trại thiếu nhi bác Hồ gồm chừng năm trăm em thì trên bốn trăm em mắc bệnh sốt rét cách nhật, trong số có những em sốt rét nặng thành báng mà Đồng là một.
   Uy đã lẳng lặng một mình đến nhà bủ Tôn hỏi về cách chữa báng cho Đồng.  Bủ Tôn nói khó gì, bủ có cách châm cứu.  Thế là hôm sau Uy mang Đồng đến để bủ Tôn châm cứu cho.  Bủ lấy ra không biết là thứ ngải gì; bủ châm lửa, ngải bén như than hồng, bủ đặt lên khoảng gần rốn Đồng rồi bủ úp lên một chiếc sừng bò.  Thoạt Đồng run lẩy bẩy vì sợ, bỗng Đồng hét: "Nóng quá bủ ơi!"
   Bủ Tôn nắm chắc lấy hai cánh tay Đồng, nhưng giọng vẫn âu yếm:
   - Chịu khó một tí cháu, thế mới khỏi báng!
   Ba lần như thế để lại ba vết phỏng lớn đỏ ửng quanh rốn Đồng như ba nốt đậu mùa đang mưng.  Sau này, ba nốt đỏ đó thành ba cái sẹo xinh.
   Ở nhà bủ Tôn về, Đồng đi khom lưng.  Uy biết Đồng đau lắm.  Về tới trại khi Đồng nằm yên trên giường rồi, Uy khẽ nắm lấy tay Đồng êm đềm nói:
   - Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ?
   Uy đoán nhắc câu nói đó như gãi đúng chỗ ngứa cho Đồng, Đồng sẽ vui và chóng khỏi.  Quả nhiên đôi mắt Đồng sáng lên, Đồng khẽ rên để vừa tỏ ra đồng ý vừa cho quên đau.
   Báng không khỏi, nhưng Đồng, Uy không kịp để ý đến điều đó vì ngày tháng càng đen tối hơn.  Phi cơ địch bắt đầu oanh tạc dữ.  Một ngày biết bao nhiêu lần kẻng báo động và tiếng bom dội rung chuyển cả vùng.  Tiếng rú của những chiếc Spitfire kế tiếp nhào xuống và tiếng liên thanh 12-7 giữ lấy hơi thở của những người trú ẩn dưới hầm.  Trại thiếu nhi vội di chuyển vào sâu hơn nữa, thoạt tạm ở Phương Viên cách chỗ cũ chừng ba cây số.  Một tuần sau, trại tiến thẳng tới Hà Lương, cách chổ cũ đến mười cây, xung quanh toàn tre nứa và suối.  Đồi núi như bát úp.  Mất hẳn chân trời! Chỉ có buổi sáng sớm là mát đôi chút, kể từ lúc mặt trời cao bằng con sào không khí bắt đầu oi bức, tới trưa mùi tre, nứa, thân chuối mục xông lên đến nghẹt thở.
   Bệnh sốt rét chưa giết hại em nào, giờ đây, bệnh dịch tả xuất hiện.  Không có thuốc! Các em rụng như sung! Các em sống khiêng chôn các em chết.  Đêm hôm trước một bạn đồng đội còn nói chuyện với Uy, sớm hôm sau đã chết tự bao giờ, đôi môi thâm méo xệch, đôi mắt khẽ hé thấp thoáng màu trắng dã.
   Đồng, Uy chỉ còn da bọc xương.  Uy giờ đây cũng có báng như Đồng, cả hai tóc rụng gần hết chỉ còn lơ thơ.
   May sao lúc đó có người lạ đến gặp ban giám đốc xin cho Uy về với gia đình.
   Nguyên ba Uy trước đây bị bắt tình nghi, nay đã được thả về nhận công tác ở ngay ủy ban tỉnh PHú Thọ.  Ông phải tích cực làm việc để tự thanh minh.  Mẹ Uy trải qua một thời gian lo buồn quá đỗi, mắc chứng tê thấp nặng không thể đi xa được.  Bà hay trại thiếu nhi hiện ở Hà Lương bèn nhờ ông chủ nhà nơi bà tản cư, lên tìm đón Uy về giúp.  Mới lần đầu gặp ông ngồi chờ ở văn phòng ban giám đốc, Uy đã gọi luôn ông ta một cách thân mật là bủ.  Uy đã quen thân với bủ Tôn!
   - Bủ làm ơn - Uy nói - nhận giúp cháu anh Đồng cũng là người nhà, để anh Đồng cùng về với cháu.
   Ông ta nhận lời.  Lý lịch của Đồng đã mất, ban giám đốc còn nhớ đâu Đồng là con mồ côi vào cô nhi viện Hàng Bột từ ngày ẵm ngửa? Vả lại trông dạng Đồng, Uy khi đó mặt bủng da chì, bụng báng, tóc rụng, chân tay như cẳng que thì cũng gần đất xa giời lắm, giữ làm gì?
   Ban giám đốc cho cả hai ly khai trại về với gia đình.  Đôi bạn không quên tới chào từ biệt bủ Tôn.
   Về tới nơi mẹ Uy ôm Uy khóc rồi bà ôm cả Đồng khóc; bà vừa khóc vừa nói không ngờ có ngày cha mẹ con cái được đoàn tụ như thế này.  Ba Uy ngồi ngay đấy cùng với một cán bộ tỉnh đôi mắt quằm quặm xét nét; ông cố giữ vẻ mặt nghiêm lạnh để tỏ rằng mình đã làm chủ được tình cảm.
   Ba Uy có một người bạn thân làm y tá trưởng tại cơ quan tỉnh; Uy, Đồng được uống thuốc trừ sốt rét, tiêm thuốc trợ lực.  Hơn một tháng qua... cả hai khỏi sốt rét, khỏi báng, duy có Đồng còn giữ xung quanh rốn ba cái sẹo xinh, kỷ niệm châm cứu của bủ Tôn.
   Mẹ Uy chợt bị một cơn đau nặng, mê sảng.  Ba ngày sau bà mất, trước khi chết một giờ, bà tỉnh hẳn, rất sáng suốt, khi chết còn giữ vẻ hỷ hả vì cha mẹ con cái được sống đoàn tụ.  Ba Uy vẫn như có linh tính báo cho biết là ông còn ở tình trạng bất an lắm, ông ưng cho Uy cùng Đồng đi nhận công tác xa.
   Thời này nhiều địa phương nỗi tiếng về những vụ thủ tiêu khủng khiếp do những hung thần khát máu gặp thời nắm được quyền sinh sát trong tay.
   Liên khu ba, tại quán Âm Hồn giữa cánh đồng chiêm mênh mông thuộc Phủ Lý, đêm đêm cán bộ ra xử án Việt gian.  Một tên ngồi giữa cầm quyển sổ ghi tên những người chúng cho là Việt gian, hai tên đứng hầu hai bên, một cầm thanh long đao, một cầm kiếm.  Cách bố trí ngồi và đứng như vậy là do chúng khiển hứng theo bức tranh Quan Công ngồi xem binh thư, Quan Bình và Châu Xương đứng hầu hai bên.
   Sau một tiếng cồng rùng rợn, "Việt gian" được điệu ra trước "ba tòa quan lớn".  Lẽ cố nhiên những người khốn nạn này chỉ được hỏi vài câu chiếu lệ, sau đó kiếm của "Quan Bình" hoặc thanh long đao của "Châu Xương" được uống máu.  Đau đớn thay, phần lớn nạn nhân thuộc thành phần trí thức ưu tú của dân tộc.
   Tại Liên khu Mười cũng vậy, khúc quành con sông Thao bên trên ga Thanh Ba một chút có khoảng nước xoáy sâu hoắm thành vực, bờ sông chỗ này cao vòi vọi và dựng đứng như bức tường, nhìn xuống thấy chóng mặt.  Cả một mảng rừng cổ thụ từ bờ sông ăn lấn vào chân đồi gần đấy; trên một cây đa cổ thụ giữa rừng có tổ quạ khoang.  Hễ đêm nào dân chúng xung quanh nghe tiếng quạ kêu bất thường ấy là đêm tên chủ tịch tỉnh cho đốt đuốc xử trảm "Việt gian" rồi quăng xác xuống khoảng vực sông.  Tên này chủ trương "phòng bệnh còn hơn chữa bệnh".  Phòng bệnh có nghĩa là xử trảm những người đương bị tình nghi hoặc trước đây đã bị tình nghi.
   Sau chiến thắng Sông Lô và Bông Lau của ta, quân Pháp mở chiến dịch càn quét miền đồng bằng Thái Bình, Nam Định, để trả thù, rồi lại có tin chúng sửa soạn vượt Việt Trì lên càn quét Phú Thọ.  Dân chúng hốt hoảng chuẩn bị tản cư.  Đồng, Uy đã về tới huyện Yên Thế (Bắc Giang) nhận công tác liên lạc viên cho Ủy ban huyện sở tại Uy vẫn hy vọng có ngày trở lại Phú Thọ gặp ba, Uy đâu có ngờ... dân chúng rục rịch tản cư... "Phòng bệnh còn hơn chữa bệnh"... Ánh đuốc bập bùng trong khu rừng cổ thụ... Có tiếng quạ khoang kêu bất thường... Và ba Uy, đêm đó, đã là một trong số mười nạn nhân bị quăng xác xuống vực.
V
   Cơ quan hành chính huyện Yên Thế ở ngay xóm nhà lá thuộc đồn điền bến Trăm, bên bờ sông Thương.  Thời Pháp thuộc, bến Trăm là nơi buôn gỗ khá sầm uất.  Gồ từ trong rừng đóng bè chở ra chất cao như núi ở bến Trăm.  Các thầy đội kiểm lâm từ ngoài đồn Bố Hạ vào đây kiểm soát, bổng lộc kiếm ra trò.  Đã có nhà tư bản trù tính đặt máy cưa ở đây để xẻ gỗ thành ván rồi vẫn theo đường thủy trở về Bắc Giang.  Dự định đó chưa thành thì tác chiến.
   Nếu thời bình, bến Trăm sầm uất về buôn gỗ thì thời chiến bến Trăm sầm uất về cá cơ quan hành chính.  Nguyên do vùng này đã bắt đầu chuyển mình vào miền rừng núi, lại thêm là đầu mối của các đường giao thông giữa Yên Thế thượng và Yên Thế hạ, giữa Yên Thế và Lạng Giang; có đường xuôi qua chợ Bằng đến ga Kép về Bắc Giang; có đường ngược qua chợ Phổng gặp quốc lộ số Một đi Lạng Sơn.  Đồng, Uy đến nhận công tác nơi đây khi đó đương vào mùa mưa, con sông Thương cuồn cuộn sóng, đêm ngày táp nước vào ven bờ phá hủy các bụi cây.  Những dòng suối đổ ra sông Thương thì thật là thất thường, những ngày nắng ráo nước lội đến bắp chân, nhưng sau một trận mưa lớn lập tức nước tự dãy núi bên trong chợ Phổng đổ ra ào ạt, suối sâu ngập nửa ngọn tre, nhiều khi cuốn phăng cả cầu giây.
   Đồng làm liên lạc viên giữa Ủy ban huyện với Ty Thông tin tỉnh Bắc Giang, trụ sở đặt ở Vi Sơn, tức là dãy đồi đất ngay cuối rặng Kai-Kinh, đường đi qua Đồi Hồng.
   Uy làm liên lạc viên giữa Ủy ban huyện với cấp hành chánh tỉnh, trụ sở đặt ở phía trong gần chợ Phổng, đường đi qua đồn điền Mai Chỉ Nam.  Ban ngày làm đầy đủ bổn phận, ban đêm Đồng, Uy ưa nhất những đêm mưa.  Thoạt tiếng mưa rơi hấp tấp lộn xộn trên mái lá như một khúc rạo vô tổ chức sau đó là âm thanh rào rào đều đặn, hơi ấm của Đồng, Uy cũng vừa kịp tỏa ra dưới làn chăn mỏng.  Những lúc đó Uy thường nói với Đồng:
   - Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ?
   Thâm tâm Uy nhắc vậy để riễu đùa bạn, nhưng Đồng thực thà cựa mình nhìn nghiêng Uy trong bóng tối, gật đầu làm lung lay gối rồi nhắc lại bằng một giọng thật là trịnh trọng:
   - Anh em mình khi vui buồn có nhau!
   May cho Đồng, Uy, trong thời gian công tác ở đây gặp được anh thư ký ủy ban là một sinh viên cũ trường Luật.  Hằng ngày khi thấy hai chú liên lạc đã về đủ, anh lên tiếng:
   - Chú Đồng, chú Uy đâu, ra học!
   Anh đã tuần tự dạy Đồng, Uy đủ các môn toán, khoa học, sinh ngữ... từ dễ đến khó để cuối năm Đồng, Uy có thể đi thi Trung học Phổ thông.
   Anh rất vui tính.  Đây là lời anh thường tuyên bố với Đồng, Uy:
   - Cuối niên khóa hai chú có thi trượt - mà chắc chắn lần đầu thế nào cũng trượt rồi - sang năm anh dạy lại y hệt như thế.  Càng trượt nhiều, sự học như cách mạng, càng chín mùi vì giàu kinh nghiệm.
   Hết mùa mưa, nước rút dần để lại ngấn bùn trên ngang lưng các bụi cây ven sông.  Rồi những trận mưa ngâu dìu dặt rửa sạch ngấn bùn đó.  Tạo hóa nhường như ra công lau chùi vạn vật bằng những trận mưa ngâu.
   Cuối thu, sông Thương chỉ còn là một dòng xanh êm chảy, nhiều nơi nước sông chưa đến đầu gối, có thể lội từ bên này sang bên kia.  Những ghềnh đá lòng sông được dịp phô lên màu nâu sẫm sạch bóng.  Cũng vào mùa này, sông Thương về đến gần Bắc Giang thì gặp một dòng suối đục đổ vào, ngấn nước hai dòng bên đục bên trong phân biệt rõ rệt ra đến một cây số xa, vì vậy mới có bài ca dao bất hủ:
 Sông Thương nước chảy đôi dòng
 Đèn khêu đôi ngọn anh trông ngọn nào
 Muốn tắm mát anh lên ngọn sông Đào
 Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh...
   Đồng, Uy cùng nghỉ giá cuối niên khóa đi thi mà gặp đề luận Việt văn: "Anh hãy tả dòng sông mà anh thích", Đồng, Uy sẽ tả dòng sông Thương, chắc chắn được nhiều điểm lắm.  Nhưng đề thi trung học phải khó hơn chứ, lẽ nào người ta chỉ đòi hỏi tả có một dòng sông ở tiểu học?
   Cuối niên khóa, Đồng, Uy đi thi và trượt thật, đúng như lời anh thư ký tiên đoán và anh dạy lại chương trình đúng như lời anh đã hứa.  Học lại, nhiều chỗ vở lẽ hiểu thêm, Đồng, Uy mới thấy đúng như lời anh nhận xét, sự học như cách mạng càng thất bại càng được dịp nghiền ngẫm cho chín mùi.
   Ai qua Việt Bắc vào những năm 1949-50 đều nhận thấy hồi đó đồng bào thanh niên thiểu số miền này đi đâu vãn hẳn. Tới bản nào cũng chỉ thấy ông già bà cả, phụ nữ và trẻ con.  Thanh niên đã gia nhập bộ đội để thường xuyên quấy phá, chặn đánh địch dọc theo đường số 4 ( chạy từ Móng Cáy theo biên thùy Hoa Việt qua các tỉnh Lạng Sơn Cao Bằng).  Quân đội kháng chiến đang lớn mạnh cần được tăng cường gấp.  Đồng, Uy thôi công tác liên lạc viên, gia nhập bộ đội vào dịp này.  Hai chú đã mười bẩy rồi!
   Hai chú cùng được huấn luyện ở Thái Nguyên cùng được vực đi đột kích địch ở mấy đường giao thông nhỏ miền trung du.  Trong một trận giáp lá cà, một bạn đồng đội của Đồng, Uy bò hớ hênh thế nào bị đạn địch bắn bay mất hạ bộ.  Được chở vào quân y băng bó anh bạn trẻ đó đã rên rỉ nói với y tá trưởng: "Thưa đồng chí, em còn thiết gì đời nữa"!
   Và sau này mỗi lần chuẩn bị đi đột kích, Đồng, Uy lại nhắc đùa nhau: "Có bò thì khép đùi cẩn thận nhé, kẻo mất chân lý hạnh phúc".  Rồi nhìn nhau cười phá.  Cả hai cùng đã lớn, vừa đến tuổi dậy thì!
   Vui nhất và cũng đáng tiếc nhất là trận đánh lấy đồn Đông Khê lần thứ nhất.  Đánh một đồn quan trọng như vậy ( giữa Lạng Sơn và Cao Bằng) mà bên nhà chỉ chết có hai người.  Có biết cơ man nào là chiến lợi phẩm! Lẽ ra chiếm đồn xong, lập tức phải thu dọn chiến trường mà rút lui mới phải; đằng này ban chỉ huy thấy trời bảng-lảng về chiều cho rằng địch không dám nhảy dù cứu viện nên để anh em đủng đỉnh nán lại.  Ai ngời địch nhảy dù thật, quân ta rút lui còn bị chúng truy kích đến mười mấy cây số, chiến lợi phẩm bỏ lại hết.  Rõ hoài! Rồi Hồng quân của họ Mao chiếm trọn Hoa Nam, lập đồn ở bên kia biên giới.  Vào dịp này bộ đội của Đồng, Uy có sang phối hợp tác chiến và một lần giải vây cho Hồng quân trong một trận đánh rất oanh liệt, quân Tưởng vừa chết vừa bị thương trên một ngàn.  Sau chiến thắng này các chiến sĩ Việt nam thấy có tự tôn mặc cảm và thấy mình thật xứng đáng là những con cháu của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.
   Khi Hồng quân của họ Mao với sự trợ lực của các chiến sĩ Việt đã chiếm trọn Hoa Nam lập đồn ở bên kia biên giới, Pháp phải tính chuyện rút gấp khỏi Cao Bằng.  Đồn Đông Khê bị quân ta chiếm lại lần thứ hai, lần này chiếm đứt.
 Bông Lau! Bông Lau!
 Rừng xanh pha máu.
 Bông Lau! Bông Lau!
 Ngàn đời lưu danh về sau.
   Bài ca chiến thắng Bông Lau từ năm 1947 nay lại vang lên trong đoàn quân có Đồng và Uy.  Họ gôm hàng ngàn người tiến đến địa điểm trên.  Khi tới nơi, họ bí mật đào công sự đợi phục kích đoàn quân lê dương Pháp từ Cao Bằng sắp rút qua.
   Cảnh trí đèo Bông Lau - tiếng địa phương gọi là Đèo Lũng Vài - có một vẻ đặc biệt ngoài những chiến công lịch sử của nó:  một bên là khu đồi trùng điệp thuần một giống lau mọc san sát, một bên là sườn núi đứng dựng như một bức thành cổ đã bị thời gian tàn phá nhiều nhưng còn giữ được vẻ uy nghi của nó.  Bộ đội của Đồng, Uy nấp sau núi đó đã rót rất đúng những trái moóc-chê 8 ly vào khúc giữa con trăn khổng lồ là đoàn lê dương của Pháp.
   Đồng cười lớn:
   - Uy ơi, anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ!
   Uy nắm lấy tay Đồng cười theo.
   Hai chú bé ở trại thiếu nhi, hai chú liên lạc ủy ban ở bến Trăm nay đã là hai chiến sĩ, khuôn mặt có già dặn trước tuổi vì nắng gió nhưng tâm hồn còn trẻ thơ.
   Có tin hai đại tá địch bị bắt sống.  Vài ngày sau tiếp tin quân đồn trú địch tại Lạng Sơn cũng đã rút lui không kèn không trống.  Việt Bắc hoàn toàn được giải phóng! Tinh thần quân đội và nhân dân phấn khởi tới tối cao.  Đồng, Uy cùng được kết nạp là đảng viên vào dịp này để rồi cùng được cử sang Tàu theo học lục quân khóa bảy.
   Cũng kể từ đấy Đảng chuyển hướng hẳn.  Cho rằng mình đã tuyệt đối nắm vững ưu thế, thiên thời và nhân hòa, Đảng bắt đầu dời bỏ mảnh đất dân tộc nhảy sang mảnh đất giai cấp đấu tranh.
VI
Nhân danh dân tộc trong một cuộc chiến đấu vì chính nghĩa thì từng giải đất từng ngọn cỏ, từng thớ cây như có sự giao tình thắm thiết với người chiến đấu và trăm ngàn vạn mớ lệch lạc đem tình dân tộc ra kê cũng thành vừa.  Nhảy sang mảnh đất khô cằn của gia cấp đấu tranh, lũ người lãnh đạo kia như lũ chó thả mồi bắt bóng.  Rồi trong thế chơi vơi vỡ lở, một mặt chúng bám lấy những ưu thế dĩ vãng, một mặt chúng dùng đủ thủ đoạn mà củng cố lập trường.  Thực thể dân tộc là sự hiện diện mênh mông của lịch sử của thời gian, của không gian, cố tình bưng tai bịt mắt phủ nhận thực thể dân tộc, kìa, hãy trông chúng bơi trong ảo tưởng như bơi trong khoảng bọt ngầu trắng bập bềnh vì phải bội.
   Trở lại chuyện Đồng, Uy vừa được kết nạp thì sang Tàu ngay theo học Lục quân khóa bảy.  Lòng hăng hái của kẻ mới được kết nạp đặc biệt thổi bồng trí tưởng tượng lứa tuổi hai mươi của Đồng.  Được chứng kiến "các bậc đàn anh" tự giam mình trong phòng kín leo lét nog.n đèn dầu, viết phản tỉnh thư, Đồng nghĩ ngay đến việc "xây dựng" cho bạn, vì sau người điển hình, đến lượt Uy lên bàn mổ tam phản.  Kể từ thưở biết nhau tại trại thiếu nhi, rồi cùng đảm nhiệm công tác liên lạc ở bến Trăm, rồi vào sinh ra tử với quân đội, đôi bạn đã cùng nhau có biết bao kỷ niệm và kỷ niệm nào phân tích theo "biện chứng Mác-Lê" chẳng giúp Đồng tìm thấy được những uẩn khúc "phi cách mạng" cần được khách quan tố cáo để xây dựng "nhân sinh quan cách mạng" cho Uy?
   Đồng nghĩ: Việc Uy hằng nhắc đến ba ở Phú Thọ khi công tác ở bến Trăm há chẳng là triệu chứng của căn bệnh "gia đình chủ nghĩa"? Như vậy làm sao Uy có thể hoàn toàn quên mình khi Đảng cần tới? Việc uy trước đây từng luôn miệng ca ngợi vẻ đẹp của con sông Thương vào mùa mưa ngâu tháng bảy há chẳng là căn bệnh yếu hèn của tụi tiểu tư sản?  Trong chiến dịch Cao Bắc Lạng vừa qua, việc Uy reo vui khi tìm ra đôi giày da chiến lợi phẩm vừa chân như in, há chẳng tố cáo Uy còn nặng óc hưởng thụ, còn nô lệ cho cá nhân chủ nghĩa?
   Còn nhiều... nhiều nữa những kỷ niệm được Đồng phân tích thấy khía cạnh phi cách mạng của nó.  Nhưng đặc biệt phải kể đến cách Đồng phân tích một giấc mơ gần đây của Uy khi phong trào tam phản chư bắt đầu.  Uy mơ thấy cùng Đồng đi qua một cánh đỒng chiêm một đêm đông không trăng không sao.  Gió thổi mạnh lắm, như ở trên đỉnh núi trông xuống đèo Bông Lau.  Uy nắm lấy tay Đồng, cả hai nép vào nhau, lội bì bõm, cùng tiến đến ánh đèn của một căn nhà lá tít đằng xa.  Căn nhà lá đó được dựng trên một gò cao, trong căn nhà lá đó người ta đương xay bột và tráng bánh cuốn là thứ quà mà Uy rất thích và đã nhiều lần rủ Đồng cùng ăn.  Đi được nửa đường vừa bước lên quãng cao ráo thì có một đàn chó xô tới, Uy rút ra một con dao ngắn.  Mỗi lần Uy vung dao lên là một lần đàn chó lùi xa ra và một con gầm gừ chạy quanh sát bên Đồng nhưng không cắn mặc dầu tay Đồng không cầm gì.  Rồi một người to lớn xuất hiện, người đó cầm thanh kiếm dài, đứng chặn giữa đường ra lệnh cho Đồng, Uy phải trở xuống cánh đồng chiêm, không được tiến tới căn nhà lá có ánh sáng...
   Ngày đó khi được Uy kể lại cho nghe giấc mơ, Đồng cảm động cho tình bạn thắm thiết, nhưng giờ đây dưới "ánh sáng lý luận Mác-Lê", Đồng đã giải thích với chính trị viên đại đội là Uy có tiềm ẩn tư tưởng đầu hàng địch.  Uy muốn kéo bạn dời khỏi cánh đồng chiêm - tượng trưng cho cuộc kháng chiến gian khổ - về đất địch có căn nhà ánh sáng để được ăn sung mặc sướng theo sở thích...
   Vì Uy và Đồng ở hai tiểu đội riêng biệt nên mỗi lời tố cáo của Đồng đều được chính trị viên đại đội ghi lại rồi đem chất vấn Uy, bắt Uy phải bổ khuyết thêm vào phản tỉnh thư.
   Thoạt Uy không nhận vì không ngờ do Đồng tố cáo.  Uy cho rằng trong lúc vui câu chuyện Uy đã kể những kỷ niệm đó ra, rồi kẻ nào trong đại đội nghe được bèn nhân dịp này đem tố cáo và giải thích xuyên tạc.  Uy là người đầu tiên trong số bị ngâm nước lạnh nửa giờ rồi cứ khỏa thân vậy đo bảng "phản cách mạng" mà đi riễu trước toàn thể anh em.  Tới tối kiễm thảo kia khi nghe chất vấn về tư tưởng đầu hàng địch trong giấc mơ, Uy mới rõ người tố cáo mình chính là Đồng.  Uy cảm thấy gì? Giận hờn chăng? Tủi hổ chăng?  Không rõ, nhưng chắc chắn Uy vẫn thương mến Đồng và tất cả những kỷ niệm chung sống với Đồng vẫn không hề vẩn đục.  Thêm một điều: khi khám phá ra chính Đồng tố cáo mình, Uy nhận hết những tội lỗi tưởng tượng cũ mà cho tới ngày đó Uy vẫn cương quyết bác bỏ.  Về phía Đồng, sau lần tố cáo cuối cùng (về giấc mơ) vào buổi trưa với chính trị viên đại đội, rồi chứng kiến cảnh Uy khỏa thân đeo biển "Phản cách mạng" (sau khi đã ngâm nước lạnh nửa giờ) ngay chiều hôm ấy, thì Đồng tưởng như chính mình bị ngâm nước lạnh và có pha cả cường toan nữa.  Sự hối hận của Đồng cũng thật là kỳ quặc.  Đồng không oán Đảng đã xui mình tố cáo bạn, nhưng Đồng cũng không còn chấp nhận lý luận: hành hạ bạn là xây dựng cho bạn! Chỉ biết Đồng đau đớn lắm.  Nếu trí tưởng tượng hồn hậu của Đồng trước đây cho rằng tố cáo bạn là xây dựng cho bạn thì giờ đây vẫn trí tưởng tượng trong trắng và đáng quí đó giữ nguyên mãnh lực mà trở ngược chiều.  Cái nhìn thất lạc tinh thần vì xấu hổ của Uy như làm sụt khoảng đất đứng của Đồng.
   Đồng lủi ra về nằm vật xuống giường, chuẩn bị sẵn câu nói dối là mình bị sốt nếu có ai đến hỏi.  Mà Đồng sốt thật rồi còn việc gì phải nói dối nữa.  Bệnh sốt rét cách nhật kinh niên vẫn thỉnh thoảng "đột kích" Đồng cũng như Uy.  Thoạt là rét, rét từ trong ruột rét ra, bao nhiêu chăn của bạn đắp lên chỉ có tác dụng chắc gió chứ không làm cho người bệnh thấy ấm lên chút nào.  Sau cơn rét là cơn sốt nóng, nóng đến mê sảng, mồ hôi vã ra như tắm, chân tay bại hoại, miệng đắng, lòng chán ngắt...
   Khi bắt đầu sang sốt nóng, Đồng nhớ lại cảm giác đất sụt dưới chân khi Uy khỏa thân riễu qua... Đồng ngã xuống sông, Uy nhảy theo nắm kịp cánh tay... Trời ơi, hổ thọt, Uy! Uy nhảy bổ xuống với Đồng.  Nguy biến đã hút đôi bạn nhỏ làm một - A... hổ thọt... hổ thọt có ta đây! Tiếng bủ Tôn vang lên giữa rừng mía, rừng tre nứa ngút ngàn... Những ngày ở Phú Thọ khỏi sốt rét, khỏi bán nhờ cha mẹ Uy săn sóc... Những ngấn bùn trên ngang lưng các bụi cây ven sông Thương... Những trận mưa đêm ào ạt phũ phàng.. Những trận mưa ngâu dìu dặt... - Có bò thì khép đùi lại, ha ha!
   Hơi thở dồn dập miệng khô đắng, chán chường.  Đồng nghển cổ với chiếc bi đông ở đầu giường uống ừng ực, nước chè ngọt thỉu như nước luộc ngô.  Đồng rên khe khẽ... lẫn trong tiếng rên như có tiếng nói của Uy "Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ"  Ngày nay chỉ còn buồn... một người buồn... và đau đớn thay, lại do người kia làm nên câu chuyện!
   Có tiếng ồn ào... cánh cửa mở toang.
   - Đồng chí Đồng đâu? Đồng chí Đồng đâu? Trời ơi đồng chí sốt à, thảo nào giờ ăn không thấy!
   Chính trị viên đại đội ngồi xuống giường sát bên Đồng hỏi tiếp:
   - Đồng chí về lúc nào? Có kịp chứng kiến lúc đồng chí Uy đi riễu trước hiệu bộ và toàn thể anh em không?
   Đồng khẽ gật đầu.
   Chính trị viên đại đội đứng dậy, nắm tay Đồng dặn:
   - Đồng chí cứ nằm nghỉ nhé, để tôi đi lấy thuốc cho.
   Nửa đêm hôm đó khi anh em ở lớp học tập về, Đồng được biết thêm tin Uy đã thú nhận cả tội lỗi ( Vì đêm đó mới kiểm thảo đến giấc mơ và đêm đó Uy mới biết rõ Đồng tố cáo mình).
   Hôm sau chính trị viên đại đội đến thăm Đồng rất sớm.  Ba viên thuốc ký ninh vàng y gởi đến hôm qua vẫn còn lăn lóc trên đầu giường.  y nói:
   - Trời ơi sao đồng chí chưa uống thuốc?  Chết, phải uống chặn ngay đi chứ không có mai đến ngày lên cơn rồi.  Đây còn ba viên nữa cho ngày nay!
   Đồng liếm môi khô rồi nói:
   - Em muốn xin đồng chí cho được gặp mặt Uy.
   Chính trị viên vừa quan sát Đồng vừa đáp:
   - Chết, như vậy sao được, đồng chí quên kỷ luậ học tập rồi sao?  Hai đồng chí ở hai tiểu đội hác nhau!
   - Nhưng em cần được gặp Uy, gặp ngay! - giọng Đồng sắc gọn hầu như không phải là lời yêu cầu nữa mà là một ý chí đòi thực hiện bất chấp hoàn cảnh.
   Chính trị viên đứng dậy giữ nguyên nụ cười, nhưng nhìn Đồng e dè hơn, một giây sau mới nói:
   - Việc đó tôi sẽ quyết định và trả lời đồng chí vào trưa nay.
   Chính trị viên đã ra tới cửa phòng còn ngoái lại:
   - Đồng chí nhớ uống thuốc nhé, kẻo mai lên cơn nữa.
IV
   Chính trị viên trở về hiệu bộ đem lời yêu câu của Đồng ra hội ý hội báo.  Ban lãnh đạo học tập thấy cần chìu theo ý muốn của Đồng để còn khai thác thêm tài liệu về những căn bệnh điển hình của Uy.  Buổi trưa, chính trị viên giữ đúng hẹn đến gặp Đồng báo cho hay là Uy còn tiếp tục lên bàn mổ tam phản nốt tối hôm đó nữa, sớm hôm sau Đồng sẽ gặp Uy với điều kiện hai người đứng cách xa nhau sáu thước, ở giữa là chính trị viên.
   Chính trị viên bỗng la lớn:
   - Trời ơi, đồng chí vẫn chưa uống thuốc, đồng chí đãng trí quá.
   Đồng vội vã vớ lấy ba viên ký ninh vàng, nói giọng tuân phục:
   - Vâng em uống ngay đây, uống liền ba viên để chặn cơn.
   Chính trị viên gật đầu tỏ vẻ hài lòng, nhưng khi y vừa ra khuất, Đồng đã giận dữ ném cả sáu viên ra khỏi cửa sổ.
   Mãi đến trưa hôm sau, sau bữa cơm, đôi bạn mới được gặp nhau y như điều kiện:  đứng cách xa sáu thước giữa là chính trị viên đại đội.  Cả hai cùng im lặng, khuôn mặt cùng hốc hác tiều tụy.  Uy nhìn Đồng dịu dàng thành thực, nhìn rất lâu và không chớp như thể mở rộng cửa linh hồn cho Đồng nhìn vào.  Rõ ràng đôi mắt của Uy muốn nói: "Uy không giận Đồng đâu, không giận mảy may, dù việc làm của Đồng trái hay phải".  Đồng hơi mỉm cười để tỏ ra hiểu ý Uy thì Uy đã mĩm cười ngay, có thể nói là Uy mỉm cười trước Đồng nữa, tựa một người lanh tay giơ vội một cái gì để vừa kịp hứng một cái gì.  Thế là ngay từ phút đầu gặp nhau, sự hòa đồng đã hoàn toàn thể hiện trong một thứ yên lặng thần thánh vươn lên cao, rất cao.  Sự hiện diện của chính trị viên đại đội, cả Đồng lẫn Uy đều coi như không có.
   Chợt Đồng cúi mặt xuống... Trở về thực tại của riêng mình, đôi mắt Đồng thoáng một vẻ gì cương quyết.  Vẫn cúi xuống như vậy, Đồng nói:
   - Hôm nay tôi... (Đồng ngừng lại nuốt nước bọt) tôi gặp Uy lần cuối cùng.
   Chính trị viên tuyên bố cắt đứt câu chuyện.  Nhưng hình như chính trị viên đã làm một việc thừa.  Đồng đã quay đi, Đồng chỉ muốn nói có thế.  Trên đường đưa Uy về tiểu đội, chính trị viên khuyên Uy hãy nghĩ đến tình bạn thiêng liêng của Đồng tỏ gương mẫu sau đợt kiểm thảo đầu tiên này và viết bản phản tỉnh thư thực đầy đủ.
   Ngược đường trở lại để gặp Đồng, chính trị viên nhẩm tìm lời phê bình thái độ thiếu "cách mạng tính" vừa qua của Đồng.  Tới nơi không thấy Đồng trong phòng.
   - Đồng chí có gặp đồng chí Đồng? - chính trị viên hỏi một học viên vừa đi qua.
   - Thưa đồng chí không ạ - lời đáp.
   Chính trị viên thốt tiếng kêu khẽ: "Ô hay!" rồi tiến thẳng về phía bếp.  Bếp vắng tanh.  Có tiếng người lao xao dưới suối.  Chính trị viên theo đường dốc xuống suối, ban cấp dưỡng rửa nồi, xanh, chảo...
   - Các đồng chí có gặp đồng chí Đồng vừa qua đây không?
   - Dạ không ạ.
   Chính trị viên đi ngược lại, tiến về phía cầu tiêu công cộng, khi tới nơi, cất tiếng gọi:
   - Đồng chí Đồng!
   Im lặng!
   Có tiêng còi xé không khí, tiếng còi tập hợp! Chính trị viên chạy về hiệu bộ.  Tin lan ra, truyền đi từ các cửa miệng rất nhanh chóng.  Đồng đã vào bốt gác lấy đi một khẩu mút-cơ-tông có nạp đạn! (trong thời gian học tập tam phản, tất cả súng đạn đều tịch thâu vào kho, trừ bốt gác).  Thoạt Đồng tới như thể một người ốm không có công tác, nhân lúc buổi trưa nhàn rỗi đến nói chuyện với mấy người bạn quen.  Nhưng rồi Đồng bất chợt ra về lúc nào, trên giá súng một khoảng trống toang ngoảng: khẩu mút-cơ-tông có nạp đạn đã mất mà người lấy không thể ngoài ai khác là Đồng.
   Được tin dữ, Uy đã băng mình vào khu rừng thông phía Tây Phụng Minh Thôn.  Tiếng Uy vang lên ảm đạm như gió và mây buổi tàn đông ngày ấy:
   - Đồng ơi i i i...
   Những con sóc đuôi sòe như bông lau hốt hoảng chạy trốn trên những cành cao.  Uy băng theo đường mòn, lội qua dòng xuối không lưu ý nước suối lạnh như băng.  Sang tới bờ bên kia, xét thấy bờ cỏ không một chỗ nào rập nát tố cáo có người vừa đi qua, Uy đành quay trở lại.  Thoắt thôi đã thấy bóng Uy chạy miết trên con đường phía Bắc, rồi dáng điệu lật đật hơn dừng bước trước từng căn nhà gianh:
   - Đồng ơi i i i... Đồng!
   Tiếng gọi bồi hồi thổn thức.  Một vài người dân áo chàm nhô ra... Uy hỏi, người dân lắc đầu... Uy lại chạy miết.
   - Đồng ơi i i i... Đồng!
   Tiếng gọi từ đầu đường đất đỏ vọng lại chứng tỏ Uy đã bắt đầu theo đường bờ ruộng lên từng bực thung lũng để đi vào khu rừng núi phía Đông có loài sài cứu.
   Trong khi Uy đi tìm Đồng thì một số học viên được cắt cử đi tìm Uy.
   Mùa đông - dù là cuối đông - tại Phụng Minh Thôn vẫn có những ngày như ngày hôm đó, hoảng bốn giờ chiều gió thổi mạnh, mây đen từ phương Đông ùn tới sà xuống thung lũng khiến vạn vật chìm trong một màu xám u ẩn tưởng như chiều xuống đã từ lâu, người đãng trí có thể ngửng nhìn trời mong thấy ngôi sao hôm quen thuộc.
   - Đồng ơi i i i... Đồng!
   Tiếng gọi từ ba bề vọng lại xa lắm... xa lắm... Nhiêu khi như lạc giọng đi để biến thành tiếng khóc nức nở của rừng núi và không ai có thể phân biệt được là Uy hiện ở khoảng rừng phía Đông hay khoảng rừng phía Nam.
   Cho đến khi tối hẳn... Cuộc tìm kiếm không có kết quả! Người ta rủ nhau đến mai sẽ tìm kiếm kỹ hơn.  Nhưng với những người còn nhớ là Đồng ra đi mang theo khẩu mút-cơ-tông có nạp đạn thì họ lo lắng... họ nghe ngóng... họ chờ đợi.. và nếu có tiếng nổ trong đêm tối thì dù sao khi họ tìm được tới nơi cũng đã muộn.
   Buổi học tập ban tối tạm ngừng.  Sự chờ đợi căng thẳng đến nửa đêm, không thấy động tĩnh gì, nhưng khi mọi người, kể cả những người lo lắng nhất chợp ngủ - lúc đó vào khoảng ba giờ sáng - chợt một luồng tiếng xôn xao chuyển đi rất nhanh từ tiểu đội này sang tiểu đội khác, từ trại này sang trại khác, những ánh đuốc bừng lên, những bước đi xao xuyến...
   - Tại một nhà chứa chuốc lá của dân....
   - Ừa sao?
   - Có tiếng thổn thức, người dân đến báo ngay.
   - Có chắc là Đồng không?
   - Chưa rõ, nhưng chắc! Còn ai khác nữa?
   - Quái, sao giờ này mới biết!
   - Có thể là Đồng vừa ở rừng về, vì tiếng chó cắn đánh thức chủ nhà dậy.
   Uy cầm đuốc cùng người dân (người chủ nhà) đi trước, chính trị viên dẫn tiểu đội thường trực theo sau.  Nhà chứa thuốc ở ngay xóm đầu tiên, sát bên đường đất đỏ cách bốt gác chừng năm trăm thước.  Vừa tới nơi, Uy trao bó đuốc cho người chủ nhà, một mình leo lên cầu thang gỗ.  Cửa  đóng.  Bên trong im lặng.  Sáu bó đuốc dàn ra bên dưới.  Con chó đen không sủa nữa, ve vẫy đuôi ngẩng nhìn những bó đuốc như ngạc nhiên, thỉnh thoảng cúi xuống liếm chân chủ.
   - Đồng! Uy đây Đồng ạ.  Mở cửa cho Uy!
   Tiếng Uy vừa đủ nghe, rất êm như muốn vỗ về, ngầm chứa một sức mạnh khẩn cầu tha thiết.
   Uy khẽ gõ cửa hit dài một hơi thở vừa toan cất lời khẽ gọi lần nữa, thì bên trong, tít bên trong, tận phía cuối nhà, bỗng bật ra một tiếng khóc nức.  Rõ ràng Đồng đã phải bậm môi kìm giữ tiếng đó từ lâu lắm.  Đôi mắt Uy sáng lên, nụ cười nở rộng tràn ngập hy vọng.  Đôi môi Uy tròn lại, yết hầu hơi đẩy lên... nhưng tiếng "Đồng" sau cùng Uy vừa thốt ra chính Uy cũng không nghe thấy vì nó lẫn vào tiếng nổ, một tiếng nổ rùng rợn trong đêm khuya mà tiếng vang từ ba bề đáp lại như để chứng tỏ rằng rừng núi cũng vừa choàng thức dậy kinh hoàng cùng ánh đuốc lao đao.  Cánh cửa mở toang dưới sức xô của Uy, đồng thời Uy mất thăng bằng ngã chúi vào.  Những bước chân dồn dập lên thang.  Một bó đuốc qua cửa soi cho bốn người dẹp vội những bồ thuốc (đã thái) và những đống lá thuốc (chưa thái) sang một bên để lấy lối đi.  Ánh đuốc tiến vội về cuối nhà.  Uy đã quỳ xuống ôm lấy xác Đồng.  Đồng chết dựa lưng vào tường, chân trái duỗi thẳng, chân phải hơi co, ngón cái còn lồng vào cò súng, mặc dầu, vì sức giật, chiếc mút-cơ-tông đã lật nghiêng sang bên.  Một mảng mặt vỡ toang nhưng vì Đồng vừa chết nên sự kiện đó chưa đến nỗi ghê rợn, thoạt trông chỉ như một người bị thương ngồi chờ băng bó.  Dưới ánh đuốc, Uy chú ý thấy môi dưới Đồng còn vết răng bậm sâu trước khi bật thành tiếng khóc nức hai phút trước đây, chân tay còn nóng.
IX
   Đó là vụ tự sát mở màn cho cả một chiến dịch tự sát sau này. Vì là vụ đầu tiên nên ban chỉ huy học tập nương nhẹ tay.  Học tập ngừng lại một ngày - ngày chôn Đồng.
   Buổi tối câm lặng và âm thầm, Uy ngồi trước bàn viết dưới ánh đèn leo lét, những trang phản tỉnh thư kín đặc.  Có tiếng hát từ trại xa vọng lại bài "Mẹ nuôi chiến sĩ" lời ca mang máng như sau:
   Bà... bà mẹ ơi,
   Bà đến cho đời thêm tươi
   Bà... bà mẹ ơi,
   Lòng chúng tôi luôn nhớ người.
   Nhìn về miền xa,
   Nụ cười nở hoa...
Thoáng nghe câu đầu của bài hát, đôi mắt Uy đương thẫn thờ bỗng nhìn vào bóng tối để tìm một cái gì. Một kỷ niệm âm thanh đã gợi lên những kỷ niệm hình bóng Uy nói khẽ: "Bài hát của Đồng",rồi gục xuống mặt bàn.
   Đồng không bao giờ thuộc hết một bài hát nào. Trong những buổi sinh hoạt, mỗi khi đồng ca, Uy thường mỉm cười nhìn miệng Đồng "a... a..." một cách ngượng ngập để nương theo giọng của các bạn.  Nhưng đặc biệt bài "Bà mẹ nuôi chiến sĩ" thì Đồng thuộc cả điệu lẫn lời từ đầu đến cuối và hát luôn miệng nghe thật nhẹ nhàng thanh thoát, lột được hết cả sự rung động thành kính. Nếu ai chưa biết Đồng, lần đầu tiên nghe Đồng hát bài này, chắc chắn người đó sẽ không nghi ngờ gì mà liệt Đồng vào hạng danh ca quân đội.  Uy hiểu rằng âm điệu bài đó buồn buồn, ý nghĩa bài đó gợi lên mối tình mẫu tử xa xôi, chính là những điều mà Đồng hằng khao khát trong tiềm thức.
Uy vẫn gục mặt trên bàn, hai bàn tay để sau gáy tự vít cổ xuống cho tê dại khoảng mũi và trán.  Như thế lâu lắm!  Bỗng Uy cảm thấy bàn tay ai đặt tên vai mình.  Ngửng lên, Uy nhận thấy một người lạ mặt bằng tuổi anh trưởng mình ( mặc dầu Uy không có anh trưởng), người đó quắc thước đôi mắt nhin thẳng khỏe mạnh và chân thật.  Uy thấy yên lòng.  Đã cúi xuống nhìn trang giấy, (vì lúc đó Uy luống cuống không biết làm gì hơn) Uy lại chợt ngửng lên chăm chú nhìn người "anh trưởng" một lần nữa: 
- Hình như em đã gặp anh ở đâu.
   - Ở đèo Bông Lau!
   - A, em nhớ ra rồi, anh ở ban địch vận.
   "Người anh trưởng" mỉm cười.  Uy hỏi:
   - Anh ở đại đội nào? Sao anh lại đến đây, trái quy tắc học tập?
   "Người anh trưởng thong thả ngồi xuống bên Uy đáp:
   -Ban chỉ huy học tập ưng tôi đến thăm đồng chí.  Tôi ở đại đội ba bên kia đồi. Tôi là Hãng, đồng chí gọi tôi là Hãng.
Câu chuyện đầm ấm ngay từ đầu.  Hãng và Uy ôn lại cái chết của Đồng.  Uy kể lại cho Hãng nghe tình bạn của Uy với Đồng từ ngày gặp gỡ.  Câu chuyện kéo dài đến một tiếng đồng hồ.  Cả hai cùng không tự đặt câu hỏi xem vì sao trong hoàn cảnh "sa mạc" của học tập tam phản ấy, ủy ban lãnh đạo lại làm ngơ cho phép hai người dừng chân khá lâu ở "ốc đảo tình cảm" để được hưởng những phút giây mát rợi của bóng cây, của dòng nước tâm tình như vậy?
Thấy Hãng đứng dậy Uy nói:
   - Đồng chí hãy ngồi với em.
   Ngay từ phút đầu gặp gỡ cho tới giờ, Uy xưng em với Hãng một cách tin cẩn tự nhiên như vậy.
   Hãng đáp:
   - Thôi, giờ này tôi phải về họp tiểu tổ.
   Bỗng sực nhớ ra điều gì Hãng hỏi:
   - Đồng chí có biết hiện giờ ở bốt gác chỉ để một khẩu súng trường?
   Uy chợt buồn, trở về với tang bạn.  Đôi mắt xa xôi Uy đáp:
   - Em không muốn tự tử như Đồng, em phải làm một việc gì đích đáng.
Yên lặng một phút, hai người bắt tay nhau và Hãng về.
Nghỉ một ngày học tập, Đồng được chôn cất mồ yên mả đẹp và Hãng gặp Uy. Nhưng rồi ngay sau đó phong trào học tập tiếp tục gay gắt hơn, hầu như ban chỉ huy cố tình gây một bầu không khí gay gắt như vậy để một mặt xóa kỷ niệm đầu tiên đó trong trí mọi người, một mặt chứng tỏ guồng máy chỉ đạo của Đảng một khi đã chuyển động thì không một sức phản động tình cảm nào có thể ngăn chặn nổi.
Một ngày là một thế kỷ nặng nề những hủy diệt, trong thâm tâm, thực tình chưa ai - kể cả những cán bộ trong ban chỉ đạo học tập - thấy một tia sáng tái sinh, nhưng Đảng đã chủ trương (Đảng là tất cả nhưng lại không là một ai) thì phải đúng chứ!
Guồng máy chỉ đạo tiếp tục quay tiến... nghiền nát...
   - Ừ tao phản cách mạng!
   - Ừ tao là bí thư của Vũ Hông K.
   - Ừ tao làm phản giánn điệp cho Pháp!
   - Ừ tao chiến đấu vì cá nhân chủ nghĩa, vì anh hùng chủ nghĩa!
   Tự tử bằng giây thừng
   Tự tử bằng lưỡi dao cạo bẻ vụn hòa nước.
   Chó rừng đã tha xác chàng thanh niên Việt xấu số bị quẳng trên đồi qua đi một đêm...
   Để bế mạc cho tấn thảm kịch vô tiền tuyệt hậu Phụng Minh Thôn là một bi hài kịch cũng vô tiền tuyệt hậu trong lịch sử học tập của Đảng.