Chương 25
Ngôi mộ cô đơn

Bác Cồ Cộ cõng tôi bay một ngày một đêm thì vượt khỏi sa mạc khô cằn.
Tạm biệt sa mạc.
Tạm biệt chú chàng Kiến Vống lái buôn. Thế là tôi không cùng đi với chú tới kinh thành Nắng xa xôi để trả cho trọn món nợ lá cải cứu mạng. Giờ đây không biết chú có rủ được một chú Kiến nào làm bạn đồng hành, hay là lủi thủi một mình đẩy cỗ xe rơm trên vệt lộ trình vô định.
Tới một bìa rừng Dẻ xanh tốt thì trời cũng sập tối. Bác Cồ Cộ cũng đã mệt phờ râu. Chúng tôi quyết định đỗ xuống nghỉ qua đêm.
Tôi lăn ra cạnh một mô đất to ngủ luôn. Còn bác Cồ Cộ thì leo lên cành
Dẻ, rúc vào một khóm lá rậm rạp. Loài Cồ Cộ vốn thích ngủ trên cành cao.
Đêm đó cả hai chúng tôi ngủ như chết.
Mờ sáng hôm sau, một giọt sương không biết từ trên cành cao nào rơi
trúng vào cổ tôi, thế là tôi thức dậy.
Bác Cồ Cộ vẫn ngáy ồ ồ trên cành Dẻ. Tôi nhỏm dậy, vươn râu, ruỗi cẳng, dụi mắt. Và bây giờ tôi mới hay đêm qua tôi ngủ cạnh một ngôi mộ to, cỏ mọc xanh rì.
Mặt trời chưa lên.
Sương sớm đọng ướt sũng trên lá cỏ. Tôi tò mò dạo gót quanh ngôi mộ, âu cũng là để đợi bác Cồ Cộ dậy. Ngôi mộ đắp gối đầu về hướng Đông, nơi có con đường trắng mờ ngoằn nghoèo chạy hút vào khu rừng Dẻ xanh tốt. Một lữ khách? Một nhà du lịch? Một kẻ say đời phiêu bạt? Sau bao ngày xông pha trên sa mạc, nhịn đói, nhịn khát, cố bò tới đây thì gục xuống, hồn lìa khỏi xác. Nghĩ vậy, tôi bâng khuâng, khua râu trên cỏ ướt, chợt đụng vào một tấm mộ chí đổ nghiêng, vùi một nửa trong cát. Tôi vội vạch cỏ, chùi tấm mộ và đọc những dòng chữ khắc nguệch ngoạc như sau:
Nơi đây an nghỉ ông Chuồn Ngô đại nghĩa.
Quê ở hồ nước Bạc, chốn rừng Đen. Mùa nước cả.
Kiến Nâu lạc tổ khắc mộ chí
Tôi bàng hoàng, tý nữa ngã lăn quay ra đất.
Tại sao lại có chuyện tình cờ, run rủi thế này.
Tôi lặng lẽ vái ngôi mộ, lòng chạnh nhớ về một buổi sáng đầy nắng trong mùa nước lũ xa xưa, tôi và Kiến Nâu chiễm chệ trên lưng ông Chuồn Ngô hào hiệp. Rồi trận tử chiến trên trời với tên Chuồn Chuồn Ớt tàn ác. Thế mà lâu nay, mỗi khi nhớ tới những người bạn đường đó, tôi cứ chắc mẩm Kiến Nâu đã về tổ cũ, vui đời lao động cần cù sớm trưa. Còn ông Chuồn Ngô thì cũng đã về hồ nước Bạc trong chốn rừng Đen. Và ông lại chống đuôi đậu trên bông hoa Súng vàng, ngủ gà ngủ gật.
Tôi đứng lặng, rũ râu thẫn thờ.
Trời đã sáng bảnh.
Bác Cồ Cộ thức dậy, kêu váng tai, rồi bay xuống vui vẻ hỏi tôi:
- Đói hay sao mà chú Kiến Lửa ngây râu ra thế? Sửa soạn rồi ta lên đường chứ?
Tôi buồn bã kể cho bác Cồ Cộ nghe câu chuyên cũ, rồi chỉ cho bác tấm mộ chí. Nghe xong, bác Cồ Cộ vuốt ria, nghĩ ngợi hồi lâu, rồi hỏi tôi:
- Thế bây giờ chú tính sao, đi tìm chú Kiến Nâu hay trở về tổ cũ?
Tôi bùi ngùi bảo bác:
- Tôi lạc tổ đã lâu, lòng lúc nào cũng chỉ ước ao tìm đường trở về tổ cũ.
Nay được bác có lòng hào hiệp hứa trở tôi về tận tổ cũ gò Me yêu dấu. Cái duyên ấy cũng gặp một lần mà thôi. Nhưng giờ đây đọc tấm mộ chí kia thì tôi không đành lòng. Ông Chuồn Ngô tuy mất rồi, nhưng chú Kiến Nâu đắp ngôi mộ kia, khắc tấm mộ chí kia, có lẽ chú chàng vẫn còn lạc lõng quanh đây, không biết chừng lớ ngớ lại gặp tai họa gì chăng. Vì vậy tôi xin tạm biệt bác để dạo một vòng quanh đây, cố tìm chú Kiến Nâu, rồi cả hai cùng dảo bước trở về tổ cũ.
Bác Cồ Cộ phình bụng nghĩ ngợi hồi lâu, gật gù:
- Chú Kiến Lửa nghĩ như vậy là chí phải. Sống ở đời, đối với anh em bè
bạn phải như bát nước đầy chú ơi. Thôi, chú đã quyết vậy, ta chúc chú mau mau tìm thấy Kiến Nâu để ca khúc khải hoàn trở về quê hương.
Rồi bác dặn tôi:
- Tôi và chú gặp nhau trong cảnh tình cờ. Ơn chú cứu mạng tôi chưa trả được, lòng vẫn áy náy. Vì vội bay khỏi sa mạc khô cằn nên cũng chưa kịp xưng danh. Tên tôi là Cồ Cộ Xanh, tổ ở rừng Dừa ngọt ngào. Vạn nhất sau này chú có cần gì thì cứ tìm tới đó, hỏi thăm bác Cồ Cộ goá vợ, thích đi du lịch thì ai cũng biết.
Nói tới đây, bác Cồ Cộ lùi lại, chạm râu vào râu tôi, chào tạm biệt, rồi ù ù bay lên trời.