Dịch thuật: Nhạn Môn Quan và Tàng Thư viện
Hồi 18
Dị đoan tà thuyết

Hẻm Ô Y, Tạ phủ đông viện Vọng Hoài Các.
Tạ An và Chi Độn hai người sóng vai tựa lan can, nhìn xuống sông Tần Hoài chậm rãi rót vào Đại Giang. Dưới ánh dương quang đan giăng, nước sông loang loáng tươi tắn, hai bờ nhà cửa san sát, phong cảnh tuyệt đẹp.
Chi Độn vừa nghe xong chuyện Di Lặc giáo, vị cao tăng luôn luôn tiêu sái thoát tục trên mặt hiện thần sắc ngưng trọng chưa từng có, trầm mặc nghĩ ngợi một hồi rồi nói với Tạ An: “Tạ huynh có tính toán gì đối với chuyện này?”.
Tạ An cười khổ: “Tôi có thể tính gì chứ? Đạo Uẩn mật cáo chuyện này cho tôi biết, chính là hy vọng tôi có thể kịp thời ngăn trở. Hiện tại cách duy nhất có thể làm là cùng Thản Chi vào can gián hoàng thượng, lợi dụng người vẫn còn ỷ lại vào Tạ An tôi, khuyên người hủy bỏ chủ ý. Ông rành lai lịch đường lối của Di Lặc giáo hơn tôi nhiều, cho nên phải thỉnh giáo ông xem xem có thể từ trên kinh luận của Phật môn để bài xích sự sai trái của Di Lặc giáo”.
Chi Độn chầm chậm nói: “Phải phân làm hai phương diện mà nói, bản thân Di Lặc Phật và con người Trúc Pháp Khánh, người đầu thật sự có căn cứ kinh luận, vấn đề ở chỗ Trúc Pháp Khánh có phải là Phật mới giáng thế hay không”.
Tạ An cảm thấy đau đầu, dưới tình huống như vầy, chỉ cần Tư mã Diệu kiên trì nhìn nhận Trúc Pháp Khánh là Di Lặc tân Phật, ông ta không có cách nào từ góc độ bản thân Phật Môn mà phủ định.
Chi Độn thở dài nhè nhẹ, từ từ nói: “’Trường A Hàm kinh’ có nói: chín mươi mốt kiếp trước có Phật xuất thế, tên Tỳ Bà Thi, tám vạn tuổi người. Lại ba mươi mốt kiếp trước, có Phật xuất thế, tên là Thi Khí, bảy vạn tuổi người. Còn có Phật xuất thế tên là Tỳ Xá Tịnh, sáu vạn tuổi người. Rồi trong Hiền kiếp có Phật xuất thế, tên là Câu Lưu Tôn, năm vạn tuổi người. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế, tên là Câu Na Xá, bốn vạn tuổi người. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế, tên là Ca Diệp, hai vạn tuổi người. Sáu Phật đó có trước Thích Ca, Thích Ca theo vậy chỉ là Phật đời thứ bảy. Hiện tại Thích Ca đã vào độ giảm, Di Lặc tân Phật sẽ theo vận mà sinh ra, trong Phật môn cũng có rất nhiều người tin chắc không dời ý. Trên sự thật trong tiền điện của Phật tự có đặt tượng Thiên quan Di Lặc phật, hai bên có tứ đại thiên vương, cách bố trí đó hiển thị Di Lặc kế thừa
Thích Ca trị thế, cho nên Di Lặc giáo trong Phật điển kinh luân cũng có cơ sở và luận cứ vững chắc”.
Tạ An hỏi: “Còn Trúc Pháp Khánh là người ra sao?”.
Chi Độn đáp: “Y là người khởi đầu Di Lặc giáo, ở phương Bắc giương cao cờ xí ‘Tân Phật xuất thế, trừ khử cựu ma’, cái gọi là Tân Phật xuất thế tức là Di Lặc giáng thế, bản thân y là Di Lặc sống, hiệu triệu tín đồ Sa môn1, có dã tâm xưng bá Sa môn”.
Tạ An không buông tha: “Phật môn các người không những thông đạt thiền định, võ công còn cao cường gấp mười lần, sao lại chịu ngồi nhìn thế lực của người ta bành trướng như vậy, lẽ nào y thật là Di Lặc giáng thế, có năng lực thông thiên triệt địa?”.
Chi Độn để lộ thần tình khốn khổ bất lực, ngưng vọng nhìn một chiếc thuyền buồm lướt qua, điềm đạm đáp: “Sa môn không phải đoàn kết như trong tưởng tượng của ông, thí dụ như Nam Bắc Sa môn có khác biệt rất lớn, phương Nam trọng Nghĩa môn, phương Bắc trọng Thiền định, mỗi bên một cực đoan. Sa môn phương Nam bọn tôi giảng kinh, ở phương Bắc ‘không lý tới giảng kinh’ mà làm vậy thì sẽ bị nghiêm phạt. Cái gọi là Bắc trọng Thiền định, nhấn mạnh tu Chỉ, buộc tâm một ý ngăn cách tất cả cảnh giới; Nam trọng trí tuệ, tu Quán, dùng trí tuệ luôn luôn quán sát ảnh tượng của các pháp, phân biệt nhân duyên sinh diệt”.
Tạ An nghe nói chau mày hỏi: “Theo tôi thấy, hai bên đường lối tu hành đều không có chỗ xung đột, Định – Tuệ song khai, cùng mở rộng, Chỉ – Quán song vận, cùng hỗ trợ, người ta sao lại làm thành vấn đề nghiêm trọng vậy?”.
Chi Độn cười khổ: “Chuyện này người ngoài rất khó hiểu rõ, phương Bắc ghi trọng Thiền pháp, không lấy giảng kinh làm ý, khư khư tử thủ bổn nghĩa Phật kinh, thậm chí không hiển bổn nghĩa, chỉ biết ngồi thiền tụng kinh. Nếu như tôi giải thích ý nghĩa của phần Xiển thuật2 Bát Nhã Ba La Mật cho ông nghe, hoặc nói ai ai cũng có thể đốn ngộ thành Phật, ở phương Bắc liền bị đánh xuống mười tám tầng địa ngục. Cớ sự là tại phương Bắc tu Phật rất khốn khó, tất cả đều nương noi tử pháp và các giới luật phức tạp, làm cho người tu hành dần dần chán ghét Thích Ca, đem hy vọng ký thác vào tân Phật, làm cho phương Bắc trở thành cái giường ấm áp cho dị đoan tà thuyết”.
Tạ An giọng nặng tâm nề: “Phương Bắc cần có một Chi Độn khác”. Chi Độn thở dài: “Giới luật tiến thêm một bước ác pháp là chuyên chế và giai cấp phân minh, dưới quyền uy lâu đời, tuyệt không dung thứ cho lối nhìn tân tiến, càng không dung được hạng người như tôi. Tu Phật ở phương Bắc, đem người phân thành sơ căn, trung căn và thượng căn, sơ căn chỉ có thể tu tiểu thừa, trung căn tu trung thừa, thượng căn tu đại thừa. Cứ bằng vào phương pháp cố định như vậy mà đem người tu hành chia tách ra, bản thân là phân biệt giai cấp. Sa môn phổ thông bị đè vào hạ căn đương nhiên bất mãn, mà Trúc Pháp Khánh chính là một phản đồ từ Sa môn cấp thấp quật khởi, y được sự ủng hộ của số đông, lại có bản lãnh hơn người, cũng không phải là không có lý do”.
Tạ An thở dài thườn thượt: “Tôi chung quy đã minh bạch! Tôi còn có thể tưởng tượng tới lý do trên lợi ích, quyền lực và tài phú đều tập trung vào tay số ít tăng lữ cấp cao sinh hoạt hủ hóa mà lại ngày ngày dùng giới luật trấn áp môn hạ, giống như quan hệ giữa địa chủ và nông nô, Trúc Pháp Khánh là một người đoạt quyền thành công, cho nên có thể phất cao ngọn cờ, lợi dụng sự bất mãn của Sa môn hạ tầng, kiến lập Di Lặc giáo”.
Chi Độn gật đầu: “Tình huống đại khái là vậy, Trúc Pháp Khánh tự tôn Đại Thừa, tự xưng tân Phật, tuyên truyền chỉ có người đi theo tân Phật mới xứng đáng lên Đại Thừa. Thập giới pháp của Phật môn phương Bắc, y phá hết, bản thân còn cùng ni Huệ Huy kết làm phu phụ, phá trừ dâm giới. Lúc đó Phật môn phương Bắc tập kết cao tăng, tiến hành thanh trừ y, bị phu phụ y liên thủ giết hại thương vong thảm trọng, y liền mượn đó mà hủy diệt chùa chiền, giết sạch tăng ni, thiêu đốt kinh tượng, giương cờ Tân Phật xuất thế, trừ khử cựu ma. Hiện tại thế lực của y không ngờ đã khuếch triển đến phương Nam, Phật môn phương Nam e rằng khó tránh khỏi kiếp số”.
Lòng Tạ An chìm đắm hẳn.
Ông nghĩ đến Tư mã Diệu và Tư mã Đạo Tử hai người một mặt đắm mê tửu sắc, sinh hoạt cùng cực xa hoa, mặt khác hô hào lòng tin Phật giáo, hai phương diện mâu thuẫn lẫn nhau, người hữu đạo trong Phật môn đã sớm có lời xầm xì. Nay lại còn qua lại với Di Lặc giáo đã đả phá hết cấm quy giáo luật, khác gì là quăng bỏ hết những gì tốt đẹp còn lại đối với Phật môn, có ý uy hiếp Phật môn. Chỉ không biết ai là người trung gian làm mũi kim dẫn đường, chuyện này tất phải điều tra triệt để.
Thanh âm của Chi Độn lại vang bên tai ông ta: “Do Trúc Pháp Khánh và Trúc Bất Quy có đại bộ phận Sa môn và dân chúng ủng hộ, Phù Kiên đối với bọn họ cũng không dám khinh cử vọng động, sợ kích khởi mâu thuẫn dân tộc giữa Hán Hồ, rất bất lợi đối với công cuộc Nam phạt, càng để cho bọn Trúc Pháp Khánh không sợ kỵ ngần ngại gì hết. Y cũng là người hiểu biết quyền mưu, vì sợ làm cho người đang cầm quyền nghi kỵ, chỉ dần dần ăn mòn thế lực và tài phú của Phật môn phương Bắc, vạch rõ giới tuyến với chính trị, đương nhiên dã tâm của y không chỉ có vậy”.
Tạ An hỏi: “Phật môn hiện thời đối với võ công của y so sánh ra sao?”.
Chi Độn đáp: “Nếu bất luận thiện ác, Trúc Pháp Khánh thật là một kỳ tài võ học hiếm thấy trong Phật môn, y không những tập thành võ học Phật môn phương Bắc, còn tự sáng tạo ra ‘Thập Trụ Đại Thừa Công’, chưa từng gặp địch thủ, cho nên đối với y mà đánh thẳng hay là ám sát, đều tơi tả quay về, có thể thấy võ công của y mạnh tới dường nào. Ngay cả Trúc Bất Quy, võ công gần sát Trúc Pháp Khánh, cùng tề danh với ni Huệ Huy”.
Tạ An ngửa mặt nhìn trời xanh, thở ra một hơi, bình tĩnh thốt: “Một khi Tạ An ta còn một hơi thở, nhất định không để cho Di Lặc giáo thắng thế, đại sư có thể yên tâm”. Di Lặc Giáo bắt nguồn từ Phật giáo, thái bình như nhau, Thiên Sư Đạo3 bắt nguồn từ Đạo môn, cần phải cấm chế.

o0o

An Ngọc Tình là người cuối cùng ngồi xuống, ba nam một nữ chen nhau ngồi chỗ thạch cấp bảy tám bậc ngắn, ai ai cũng hết hơi hết sức, chỉ biết thở hổn hển.
Trải qua cả canh giờ nỗ lực, cố hết tâm tư công sức, cuối cùng đã thành công khuân dỡ hết rượu trên giá gỗ xuống, đem đội đỡ tàn dư của ông lò đá, không để cho gạch đá rơi xuống địa đạo, nếu không sẽ để lộ đường ra, lại kinh động địch nhân. Tốn trọn nửa canh giờ, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ từ đầu đưa lưng và tay ra đỡ suốt mới có thể trước sau rụt về, cái khổ có động một chút cũng không thể động thật khó thể tả nổi.
An Ngọc Tình dựa bậc đá, liếc Yến Phi đang ngồi dưới mình một bậc, hổn hển nói nhỏ: “Đây là người tốt được đền ơn, chỉ bất quá không tưởng được lại mau ứng nghiệm như vậy”.
Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ nhìn nhau cười khổ, người khác có thể không hiểu được câu nói không đầu không não của An Ngọc Tình, hai người bọn họ lại thấu rõ An Ngọc Tình đang châm biếm ác tâm của bọn họ đối với nàng ta. Bọn họ có muốn cãi lại cũng không được, vì trên sự thật nếu không có Yến Phi một mực cản trở, để bọn họ thanh toán nàng ta, vậy còn ai sẽ đến để ra sức giúp bọn họ “thoát thân”?
Thác Bạt Khuê ngước lên nhìn chỗ ra, tránh ánh mắt đẹp của An Ngọc Tình, trông trái ngó phải nói: “Không tưởng được cố trụ giữ một chỗ ra vuông vức hai thước còn khốn khó hơn kiến tạo trường thành nữa”.
An Ngọc Tình rất muốn phủi sạch bụi bặm trên mình, lại biết làm vậy sẽ khiến cho ba người thưởng thức hết bụi đầy mình nàng, chỉ còn nước chịu khổ không động đậy, hừ lạnh: “Hay ghê! Ở đây hiện tại là nơi an toàn nhất trong Biên Hoang Tập, chỉ tiếc lối ra chỉ có thể ứng dụng một lần, các người có tính toán gì đây, Yến Phi ngươi nói đi, hai người bọn họ đều không thể tin cậy”.
Thác Bạt Khuê mục quang không khỏi lạc trên người nàng ta, chừng như lần đầu phát giác sự mỹ lệ của nàng, đưa mắt nhìn lên nhìn xuống, hắn từng gặp nhiêu mỹ nữ, lại ít gặp phải người tàn nhẫn cứng cỏi như vậy: một cô gái giảo quyệt không chịu phục tòng, có lúc lại như thiên chân không tà ác.
An Ngọc Tình không lý gì tới hắn, mục quang vẫn ngưng chú nhìn Yến Phi gần kề nàng nhất.
Yến Phi ngửi thấy thân thể nàng vì quá mệt mỏi mà tản phát ra khí vị u hương kiện khang, điềm đạm thốt: “Trên mình cô nương còn có bao nhiêu Mê Yên đạn4 có thể dùng đến?”.
An Ngọc Tình đáp lời: “Chỉ còn lại hai viên, nếu muốn xông đại ra đột vây, chưa tới cửa Tập là phải dùng hết rồi. Ài! Bổn cô nương cả đời chưa từng gặp xui như vầy”.
Lưu Dụ ngồi ở bậc cấp dưới nhất cuối cùng đã phục hồi lại khí lực, gã do đã mang thương thế từ trước, cho nên đặc biệt cật lực, mỉm cười nói: “Cô nương có thỏa mãn về tấm địa đồ bọn ta vẽ ra không? Đối với cô nương có phải có giúp ích gì được không?”.
An Ngọc Tình nhíu nhíu cái mũi nhỏ khả ái, hướng về phía gã làm mặt quỷ, tức giận thốt: “Chuyện không liên quan tới ngươi nữa, ngươi tốt hơn hết là quên đồ tượng đó đi, nếu dám nói cho người thứ tư biết, ta có cơ hộiu như trước.
Tư mã Đạo Tử cười khổ: “Hoàng thượng tâm ý khó đoán, chuyện đó ai ai cũng không có cách”.
Cô Thiên Thu nói: “Nếu bọn ta có thể tìm được một tuyệt sắc mỹ nhân thiên kiều bá mị, lại biết cách thăm dò đưa đẩy tâm ý của hoàng thượng, thêm vào chịu nghe lời, phương diện đó cũng không phải hoàn toàn không có biện pháp”.
Tư mã Đạo Tử phấn chấn tinh thần: “Nghe Thiên Thu nói như vậy, chắc biết có hạng gái đó ở đâu chứ?”.
Cô Thiên Thu đi bằng đầu gối tới trước, thẳng đến kề sát Tư mã Đạo Tử, rù rì một cách thần bí cực kỳ bên tai y.
Tư mã Đạo Tử nghe nói trên mặt nét mừng càng lúc càng nồng đậm, cuối cùng vỗ đùi lớn tiếng: “Thiên Thu lập tức tiến hành chuyện này đi. Tạ An! Trận chiến này bất luận là thành hay là bại, ngươi đều không còn bao nhiêu ngày giờ nữa, để xem ngươi còn có thể đắc ý hoành hành được tới khi nào đây!”.

o0o

Tiếng rổn rảng chảo sắt quăng xuống đất từ bên trên truyền xuống, kinh tâm động phách, hiển thị binh Tần đang triển khai lục lọi triệt để trong Đệ nhất Lâu, cả ông lò cũng không bỏ qua.
Địch nhân mau chóng tìm đến đây như vậy, thật vượt ngoài ý liệu của bọn họ, chỉ khổ là bọn họ không còn cách nào. Nếu địch nhân kỹ càng không để lọt một tấc đất, truy tầm ra hầm ngầm, bọn họ không thể nào độn thổ giấu mình.
Yến Phi mục quang quay sang góc An Ngọc Tình đang thu lu ẩn tàng, nàng mỹ nữ đó cũng tựa hồ biết thân biết phận như bọn họ, không dám tạo ra tiếng động. Bên trên thình lình tĩnh lặng lại, tiếng la ó lắng đi.
Ba người đưa mắt nhìn nhau, tay Lưu Dụ nắm chặt cán đao, Thác Bạt Khuê từ từ tháo song kích trên lưng xuống, bất luận cơ hội nhỏ nhoi tới đâu, bọn họ cũng phải tận lực gồng mình đột vây.
Yến Phi lại sinh ra cảm giác mơ hồ không biết mình đang ở đây, một cảm giác kỳ dị vừa quen thuộc vừa xa lạ. Tất cả trước mắt tựa hồ không có bất cứ quan hệ gì với chàng, khơi khơi lại giống như có dính líu sâu đậm. Thứ tình huống là người tham dự mà cũng lại là khách bàng quan, như đang trải qua trong mộng cảnh, chuyện xảy ra xung quanh cứ lần quần giữa thật và không thật.
Từ sau khi mẹ chàng qua đời, chàng thỉnh thoảng có thứ cảm giác đó. Cái chết của mẫu thân khiến cho chàng nhận biết sự tuyệt đối và tàn nhẫn của tử vong, mà trên sự thật mỗi một người sau khi sinh ra đã liền chờ chực tử vong tới, chỉ có thể chọn quên nó đi, cứ như tử vong không tồn tại. Nhưng cuối cùng cũng có một ngày mình cũng khó tránh khỏi phải đối diện nó, cho dù tử vong có thể là sự khởi đầu của một cuộc sống khác!
“Bình! Bình!”.
Hai tiếng động gạch đá vỡ tan vang lên, từ bên trên truyền xuống, Yến Phi còn chưa hoàn toàn tỉnh táo lại, Thác Bạt Khuê đã búng người lên trước mặt chàng, chạy lên bậc đá, tiếp theo đó là Lưu Dụ.
Thời gian chừng như đột nhiên chậm lại, chàng có thể nhìn rõ ràng mỗi một động tác của bọn họ, có thể nhất thời không biết mục đích của hành động của bọn họ, càng không rõ chuyện gì đã xảy ra.
Đang lúc hai người trước sau phóng lên bậc thang đá, lại “oành!” một tiếng như sấm sét sát mang tai, bộc phát tại đầu trên thạch cấp, vọng hưởng gấp bội lần hồi nãy, đất đá rơi xuống rào rào.
Yến Phi sực tỉnh lại, hồn vía quay về nhân thế nắm bắt tình hình xảy ra trước mắt.
Địch nhân đang dùng một loại thiết chùy phá ông lò trong nhà bếp của Đệ nhất Lâu bên trên, bao gồm cả cái lò cửa vào địa đạo, nếu lò bị hủy, đường vào tự nhiên sẽ lộ ra, bọn họ không còn may mắn nữa.
Yến Phi ngước mắt nhìn, thấy Thác Bạt Khuê dùng binh khí và tấm lưng xoay tay đội cửa vào, Lưu Dụ cũng lấn tới bên cạnh hắn, bộ dạng cũng y hệt, hai người gồng lưng đỡ gạch đá lớn có nhỏ có đang rãi rơi từ cửa vào. Yến Phi thấy vậy, liền phóng lên bậc cấp, giơ hai tay ra, che chắn đất đá, ba người hợp lại thành một đội.
Đó là kế duy nhất có thể làm trong khi không còn biện pháp, không để gạch đá rơi xuống bậc cấp, để lộ ra cửa vào, có tám chín cái lò, địch nhân có khi sơ hốt để lỡ.
Gạch đá bể vỡ không ngừng rơi đập trên lưng và lòng bàn tay ba người, rớt lăn xuống thạch cấp, thanh âm thiết chùy oanh kích mặt đá không ngừng đinh tai nhức óc, mỗi một tiếng đều vang vọng tận sâu trong tâm khảm ba người, khiến cho bọn họ như chìm mình trong một trường ác mộng không bờ bến. Chuyện duy nhất có thể làm là tận lực ngăn cản không để đáy lò vỡ nát, nhưng tiếng người và tiếng chùy đập bên trên lại càng lúc càng ép sát rõ rệt, làm cho bọn họ càng lúc càng cảm thấy được sự tiếp cận và áp lực của địch nhân.
“Oành!”.
Ba người đầu cổ mặt mày dính đầy tro bụi, lúc đất đá chui luồn luôn vào cổ, tiếng oanh kích cuối cùng đã đình chỉ. Bọn họ có thể tưởng tượng đáy lò đã biến thành bụi, chỉ còn một khoảnh còn nguyên nhờ vào máu thịt của bọn họ chống đỡ, nếu không cửa vào hầm rượu đã bộc lộ dưới mắt địch nhân rồi.
Thanh âm của Khất Phục Quốc Nhân từ bên trên truyền xuống: “Bọn chúng thật ra đang trốn ở đâu? Không ngờ không phải trong Đệ nhất Lâu, bọn ta đã lục tìm mỗi một tấc đất, thật kỳ quái!”.
Một thanh âm thô bạo khác nói: “Ta đã nói chi bằng hỏa thiêu trọn tòa quỷ lâu này đi, xem xem bọn chúng còn có thể trốn ở đâu nữa?”.
Lại một người khác: “Theo Mông Tốn thấy, trong Tập có khi còn có địa đạo khác đưa ra khỏi tập, hoặc có khi có mật thất dưới đất gì đó, nhưng khẳng định là không phải trong Đệ nhất Lâu”.
Bên trên lại im lặng trở lại.
Sau một hồi, một thanh âm bình tĩnh thốt: “Nếu có bí đạo mật thất, vậy thì thật là đau đầu. Thiêu hủy Đệ nhất Lâu căn bản trở thành chuyện vô bổ, Thiên Vương hiện tại đã đến ngoài Tập, lúc nào cũng có thể vào Tập, càng không thể thiêu đốt phừng phừng ngút trời, khói lửa ngùn ngụt. Chỉ cần bọn ta tăng cường thủ vệ tuần phòng canh gác, đồng thời tiếp tục tiến hành truy tìm. Địch nhân cực nhọc tiềm nhập Biên Hoang Tập, mục đích chỉ có một, là không tự lượng sức mình định hành thích Thiên Vương, bọn ta cứ nghiêm ngặt bố trí vây bọc chu đáo, bọn chúng còn có thể làm gì được nữa chứ?”.
Ba người tuy không nhận ra thanh âm của y, bất quá nghe giọng điệu ra lệnh của y, có thể khẳng định chính là Phù Dung.
Ngưng một chút, Phù Dung lại tiếp tục nói: “Hành động truy bắt địch nhân giao cho Quốc Nhân toàn quyền xử lý, tất cả những người tạp nhạp, đặc biệt là người của tứ bang, dứt khoát không cho phép vào Tập. Bọn ta đồng thời cải biến khẩu lệnh, phàm là người không biết khẩu lệnh, cứ coi là địch nhân. Ta hiện tại phải ra Tập nghênh tiếp Thiên Vương, mọi việc cứ y theo kế hoạch đã định mà tiến hành”.
Khất Phục Quốc Nhân nói: “Thỉnh Phù nguyên soái ban cho khẩu lệnh”. Khẩu lệnh là thủ pháp quen dùng để bảo an trong quân doanh, dùng phân biện địch ta, tránh có người trà trộn vàn bản doanh.
Phù Dung thốt: “Hễ là người Tấn tất bất tài, không kham nổi một chiêu!”.
Câu nói đó y hạ thấp giọng nói ra, khiến cho ba người nãy giờ bên dưới không dám động đậy hiểu rõ khi Phù Kiên tiến vào Biên Hoang Tập, lưu lại bên mình toàn là quan binh cội rễ Để tộc.
Tiếp đó, thanh âm của địch nhân rời xa.
Trong bóng tối dưới địa đạo, ba người sáu con mắt nhìn nhau, ngấm ngầm mừng hên, tưởng gặp họa lại được phúc, còn biết được cả khẩu lệnh bí mật của địch nhân. Thác Bạt Khuê thấp giọng: “Giá gỗ!”.
Yến Phi đương nhiên hiểu ý tứ của hắn, chỉ có điều hai tay không rảnh, đang đỡ hai góc gạch đá bể vỡ, cười khổ: “Chỉ còn nước thỉnh An đại tiểu thư của bọn ta đến giúp”.

o0o

Tạ Huyền đi lên tường thành Thọ Dương, có Hồ Bân và Lưu Lao Chi theo hầu, quan sát hình thế.
Phì Thủy từ phương Bắc chảy đến, nhập vào Hoài Thủy, lại về hướng Nam vòng qua rìa Đông Bắc của Thọ Dương thành, nằm giữa Bát Công Sơn và Thọ Dương, duỗi về phía Nam, Hoài Thủy vạch ngang hỗ trợ nửa dặm thành Bắc. Dĩnh Thủy một đoạn sông từ Biên Hoang Tập đến Hoài Thủy, chảy song song với Phì Thủy, hai con sông cách nhau mười mấy dặm, chỗ Dĩnh Thủy nhập vào Hoài Thủy kêu là Dĩnh khẩu, Phì Thủy nhập vào Hoài Thủy kêu là Hạp Thạch, một thượng du một hạ du, cách nhau chưa đến mười dặm.
Hồ Bân thăm dò: “Thọ Dương ôm sát chỗ trọng yếu Dĩnh khẩu, Hạp Thạch nơi ba con sông giao nối, chỉ cần Thọ Dương ngày nào còn giữ được, địch nhân đừng hòng nam hạ”.
Mục quang của Tạ Huyền đang đưa dọc theo đoạn sông Phì Thủy, hình thế Hạp Thạch hiểm yếu, hầu như ven sông toàn là loạn thạch, dòng nước sau khi ra khỏi Hạp Thạch chảy chậm, đặc biệt là đoạn sông phía Đông Bắc Thọ Dương và Bát Công Sơn, nước nông mà rộng, thấy rõ đáy, không cần bắt cầu nhân mã cũng có thể lội qua sông, chỉ cần ông trời đừng cho mưa lớn, quân Phù Tần có thể mau mắn vượt sông. Phải biết Phù Tần chờ thời tiết sơ đông này xâm lấn là đã trải qua toan tính thâm sâu. Nếu không, chờ đến mùa xuân hạ mưa nhiều, khó tránh khỏi biến họa.
Lưu Lao Chi tuy không nói gì, Tạ Huyền có thể đoán ra hắn trên sự thật đồng ý với cách nhìn của Hồ Bân, thành trì nằm ở chỗ cốt yếu then chốt như vầy, buông bỏ không không thì thật đáng tiếc.
Tạ Huyền điềm đạm thốt: “Phù Kiên lên tiếng quân binh điều động có cả trăm vạn, Hồ tướng quân có nắm chắc giữ được Thọ Dương không?”.
Hồ Bân mặt hiện thần sắc hiên ngang, đáp: “Thuộc hạ quyết đánh tới một binh một tốt cuối cùng cũng phải vì nguyên soái mà tử thủ Thọ Dương, không để Tần quân nam hạ”.
Tạ Huyền gật đầu: “Hay! Bất quá lần này ta phải thắng một trận đẹp mắt, hơn nữa phải tốc chiến tốc quyết, không thể cùng địch nhân tiến hành một trận đánh bên công bên thủ lâu dài. Một khi Thọ Dương biến thành Cô Thành, có thể kéo dài mười ngày chứ không ít, bọn ta biến thành hoàn toàn bị động, còn phải đoán xem địch nhân theo con đường nào nam hạ. Bằng vào binh lực bạc nhược của bọn ta, dưới tình huống như vầy, căn bản không có cách nào ngăn trở Phù Kiên, cho nên Thọ Dương không thể không buông bỏ”.
Tiếp đó ông để lộ nụ cười, giọng nói khẳng định tràn đầy lòng tin: “Mình có thể buông Thọ Dương rơi vào tay địch nhân, địch nhân từ không dấu biến thành có dấu, còn mất cả thế chủ động, lúc đó chỉ cần bọn ta đặt quân trong Bát Công Sơn, Phù Kiên làm sao dám qua Phì Thủy nửa bước?”.
Hồ Bân ngẫm nghĩ: “Phù Kiên là người biết cầm binh, chủ lực đại quân tuy lần theo Dĩnh Thủy để vượt Hoài Thủy đánh Thọ Dương, lại chắc sẽ chia một cánh quân khác lên trên Dĩnh Khẩu xuôi xuống vượt sông Hoài, hỗ tương hô ứng, đến lúc đó bọn ta biến thành trước sau đều đụng địch, tình thế không hay”.
Lưu Lao Chi gật đầu: “Nếu tôi là Phù Kiên, tối thiểu cũng chia làm hai cánh quân, một cánh ở Dĩnh Thủy thượng du vượt sông Hoài, ép thẳng Đại Giang, làm cho Hoàn đại tư mã không dám vọng động. Một cánh khác ở Thọ Dương hạ du vượt sông Hoài, tiến tới giữ Lạc Khẩu, kiến thiết doanh lũy phòng ngự chắc chắn, hỗ tương hô ứng cùng chủ lực đại quân đang chiếm lĩnh Thọ Dương”.
Nụ cười của Tạ Huyền nở rộng, hân hoan thốt: “Đó chính là then chốt thắng bại, địch nhân mệt nhọc viễn chinh mà đến, thêm vào tự thị binh lực gấp mười ta, sinh ra ý khinh địch, càng không nghĩ đến bọn ta sẽ chủ động tiến kích, tựa như thoái mà thật ra là tiến, cho nên chỉ cần bọn ta dùng kỳ binh đúng lúc đúng chỗ, trận này mức thắng cực cao”.
Hồ Bân và Lưu Lao Chi còn chưa hiểu Tạ Huyền đang có ý niệm gì trong lòng, đồng thanh: “Xin nguyên soái chỉ dạy!”.
Tạ Huyền hai mắt bừng sáng, ngưng vọng nhìn vùng đồng hoang bờ đông Phì Thủy, trầm giọng: “Bọn ta cần mười hai canh gipx;'>
Lưu Dụ trầm mặc.
Yến Phi nói: “Hai người các ngươi giả làm thân binh của Phù Kiên, kiếm cách tìm Chu Tự. Còn ta quen thuộc tình hình Biên Hoang Tập, dễ tránh khỏi tai mắt của địch nhân hơn các ngươi, một khi các ngươi thành sự đi ra đến ngoài Tập, lại kiếm cách làm cho hỗn loạn một chút, dẫn dụ sự chú ý của quân Tần, ta và An đại tiểu thư liền có thể thừa cơ mượn đạn khói thoát thân”.
Lưu Dụ nói: “Bọn ta cũng có thể đoạt lấy hai bộ quân phục đem về”.
Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Ngươi không nên làm vậy. Quy định của quân binh Tần đi tuần và canh gác chia thành ít nhất cũng mười người một tổ, cho dù ngươi có bản lãnh đồng thời chế ngự mười người, chưa đầy một khắc là bị người ta phát giác, lúc đó các ngươi càng khó lòng trở bước”.
Yến Phi cười cười nói: “Lưu huynh an tâm, ta sẽ có cách tự bảo vệ”. Lưu Dụ thở dài: “Đã là có quy định mười người lập thành một tổ, bọn ta hai người nếu ngang nhiên đi ra, có phải sẽ lập tức bị người ta nhận ra là mạo xưng không?”. Thác Bạt Khuê nói: “Chỉ cần bọn ta mạo xưng là lính truyền tin của Phù Kiên, lại biết khẩu lệnh, chắc có cơ hội trà trộn ra, lần này không thể không mạo hiểm”.
Ngưng một chút, nháy mắt với Lưu Dụ: “Lưu huynh tính toán cẩn mật, không hổ là nhân tài xuất sắc trong Bắc Phủ binh tướng, nếu chịu hợp tác với ta, có thể giành lấy một vùng đất trời Bắc phương”.
Lưu Dụ ngạc nhiên: “Ngươi không ngờ lại chiêu nhận ta? Khà khà, hiện thời ngươi còn chưa làm được chuyện gì ở phương Bắc, nếu bọn ta trận này đại bại dưới tay Phù Kiên, khả năng Bắc phạt xa vời, ngươi nói ta chọn lựa làm sao?”.
Yến Phi nghe vậy ráng nhịn cười, trong lòng nghĩ nếu không có tình huống thật đặc biệt như vầy, đừng hòng hai người hợp tác với nhau.
Thác Bạt Khuê vẫn bình tĩnh thư thái nói: “Bắc phạt? Ài! Chuyện Bắc phạt của các người căn bản không có hy vọng. Trước hết quân mã Giang Nam của các người thiếu thốn hỗn tạp, quân vận chỉ duy nhất có đường thủy, nếu đường thủy không lọt, chỉ có đường ‘nhân lương vu địch’5, hai đường thủy vận và ‘nhân lương vu địch’ có một làm không được thì khó lòng nói tới Bắc phạt. Kế đó là Bắc phương bất luận có chia năm xẻ bảy tới mức nào, thủy chung hình thế vẫn là Bắc cường Nam nhược, trên phương diện hộ khẩu và tài nguyên, quân Bắc phương chiếm ưu thế áp đảo”.
Lưu Dụ không phục: “Lời nói của Thác Bạt huynh khiến người ta khó đồng ý, nói gì thì Nam triều cũng là Trung Nguyên chính thống, là nơi lúc nào cũng nằm trong lòng người Hán tộc ở phương Bắc, cũng chỉ có phía mà lòng người hướng tới mới có thể thống nhất thiên hạ”.
Thác Bạt Khuê chọc lại: “Lưu huynh quá là không rõ tình hình phương Bắc, từ lúc Phù Kiên đăng vị, hết sức thúc đẩy chính sách Hán hóa và dung hợp dân tộc, sự phân biệt Hồ Hán đã dần dần trở thành mơ hồ. Hán nhân phương Bắc đâu còn khao khát trông mong gì Nam Tấn đã thối nát đến tật chót đỉnh, có quan niệm nhận miếu chứ không nhận thần, ai có thể bình định đất Trung Nguyên núi Tung sông Lạc, người đó liền trở thành chính thống. Nếu không bộ quân của Phù Kiên không thể có đại bộ phận là người Hán. Hiện tại cái sót của Phù Kiên là chưa thể triệt để giải quyết vấn đề dân tộc, một khi giải quyết xong, Bắc phương không còn vấn đề xung đột dân tộc nữa. Nền kinh tế và lực lượng vũ bị mạnh mẽ tiềm tàng của Bắc phương một khi tận lực phát huy, chính quyền Giang Tả làm sao có thể ngăn trở được?”.
Lưu Dụ đang định phản bác, chỗ cửa ra có tiếng động lạ truyền vào, tiếp đó là thanh âm cát đá rơi xuống bậc cấp, ba người lập tức hồn phi phách tán.

o0o

Chú thích:
1 Sa môn: giới thầy tu.
2 Xiển thuật: chỉ nêu đề tài, chưa giải nghĩa.
3 Thiên Sư Đạo: Ngũ Đấu Mễ Đạo (nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), cũng gọi Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34-156) sáng lập. Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo.
Xem thêm về các cuộc khởi nghĩa của Thiên Sư Đạo vào thời Tấn:
4 Mê yên đạn: đạn khói mù.
5 Nhân lương vu địch: Thiên thứ nhì trong “Tôn Tử Binh Pháp” là “Tác Chiến Thiên” đề xuất một tư tưởng trọng yếu --- “Nhân lương vu địch”, ý tứ của bốn chữ này là nói: lúc thống lãnh quân đội tiến vào đất địch tác chiến, phải rành chuyện giải quyết lương thực của nước địch mà bổ cấp, do vậy giảm bớt tiêu hao cho kinh tế nước nhà.