Dịch thuật: Nhạn Môn Quan và Tàng Thư viện
Hồi 21
Hoàn thành nhiệm vụ

Có các cao thủ thân cận là Tịch Kính và Hồ Khiếu Thiên đi kèm hai bên trái phải, Giang Hải Lưu bước vào Tần Hoài Lâu, mình vận áo dài màu xanh, dáng điệu ung dung, giữ đúng phong phạm đại thủ lãnh Long đầu của một bang hội lớn, hoàn toàn không nhiễm chất “Vong mệnh thương” danh chấn giang hồ.
 
Y xếp hạng ba trong hàng ngũ cửu phẩm cao thủ, sau Tạ Huyền và Tư Mã Đạo Tử, và cũng là người miền nam duy nhất. Giang Hải Lưu năm nay vừa qua tuổi bốn mươi, người rất dài, mặt gầy, ít cười. Y luôn búi gọn mớ tóc hoa râm ra sau gáy, thắt thêm một sợi dây dài thả thõng xuống lưng, vầng trán y cao, hơi gồ, bên trên cái mũi diều hâu là cặp mắt lóe tinh quang mỗi lần chớp chớp, khiến người ta có cảm giác công phu của y rất sâu sắc, không giận mà có uy, tinh minh mưu trí.
 
Sự thực thiên hạ này là do y tự tranh đấu để giành lấy, Đại Giang là mạch máu chính trị kinh tế ở phương nam, khắp nơi có bao nhiêu bang hội lớn nhỏ, bao nhiêu thế lực lục lâm kèn cựa, nếu y không có một chút vai trò, làm sao có thể một tay biến Đại Giang Gang trở thành đại bang hội độc bá giang hồ. Hiện tại ngoài Lưỡng Hồ Bang, những bang hội khác phải nhìn sắc mặt y mà hành sự. Phạm vi thế lực của Lưỡng Hồ Bang chủ yếu khoanh vùng ở hai hồ Động Đình và Bà Dương, đôi bên nước sông không phạm nước giếng.
 
Vì việc gì mà Tạ An đột ngột triệu kiến y, mãi đến lúc này y vẫn không hiểu.
 
Tống Bi Phong đã đợi rất lâu, trông thấy y bước qua ngạch cửa liền tiến lên đón: “An công đang ở trên Vũ Bình Đài đón chờ đại giá của Long đầu. Xin để Bi Phong dẫn đường”.
 
Giang Hải Lưu nhẹ nhàng đi theo Tống Bi Phong về hướng Vũ Bình Đài. Bọn đại hán bảo vệ Tần Hoài lâu đều nghiêm chỉnh cúi chào, không dám thở mạnh, đủ thấy uy thế của Giang Hải Lưu ở Kiến Khang.
 
Giang Hải Lưu thân mật nói: “Nghe đồn Bi Phong đêm qua đã đánh trọng thương thủ hạ của tên súc sinh Tư Mã Nguyên Hiển, đánh hay lắm, nếu vì việc này mà bị phiền toái gì thì đừng kinh động đến An công, cứ tìm ta là được rồi”.
 
Tống Bi Phong thầm kinh hãi nguồn tin nhạy bén của Giang Hải Lưu, nhưng không ngạc nhiên gì về sự thù địch của y với Tư Mã Nguyên Hiển. Nhà họ Hoàn từ xưa đến nay vẫn bất hòa với Tư Mã Đạo Tử, Giang Hải Lưu lại thuộc về một chi hệ của Hoàn gia, đương nhiên mong Tạ An và Tư Mã Đạo Tử thêm thù hằn.
Tống Bi Phong nói: “Nào dám phiền tới Giang Long đầu”.
Giang Hải Lưu cười lớn, dang tay ra rồi chắp lại sau lưng, vui vẻ nói: “Đều là người một nhà, Bi Phong đừng khách sáo”.
 
Bốn người bước trên lối đi uốn khúc vành khuyên, xuyên qua những lớp cảnh sắc xinh đẹp kiến tạo bên sông. Đến một sảnh nhỏ bên dưới Vũ Bình Đài, Giang Hải Lưu bảo Tịch Kính và Hồ Khiếu Thiên: “Các ngươi đợi ở đây”.
 
Tống Bi Phong tránh sang một bên dãy bậc cấp bằng gỗ, đưa tay mời. Giang Hải Lưu cười tươi, ung dung bước lên, thầm nhủ không biết có được nhân tiện liếc qua nhan sắc tuyệt thế của Kỷ Thiên Thiên không. Tạ An đang đứng quay lưng về phía y, nhân vật trác việt nổi danh thiên hạ ấy đang đứng một mình chỗ sân lộ thiên, tựa vào lan can ngắm cảnh đẹp của sông Tần Hoài.
Tạ An không ngoảnh mặt lại, chỉ nhẹ nhàng nói: “Hải Lưu hãy đến bên ta đây”.
 
Giang Hải Lưu bước nhanh hơn, đến gần Tạ An, dừng lại ở một bên hơi chếch về mé sau, cung kính thi lễ: “An công có việc gì xin cứ dạy bảo, Giang Hải Lưu dù mất mạng cũng sẽ giải quyết ổn thỏa cho người”.
 
Khóe miệng Tạ An phớt một nụ cười, Giang Hải Lưu tuy nói với giọng điệu giang hồ nhưng ngụ ý thì hoàn toàn chân thật, bởi vận mệnh của y hiện tại đã gắn liền với Tạ An. Nếu Phù Kiên nhất thống Giang Nam thì thế lực lớn nhất ở phương bắc là Hoàng Hà Bang sẽ bành trướng đến Trường Giang, lúc đó, e rằng Giang Hải Lưu chẳng còn lấy một tấc đất cắm dùi. Vì vậy việc Phù Kiên xuống nam đã uy hiếp đến tất thảy lợi ích của các thế lực đương quyền và giang hồ ở đây, có điều, tình hình này chỉ là tạm thời, sau cơn mưa trời lại sang, một cục diện mới sẽ xuất hiện, sự thay đổi đó chẳng ai dự liệu nổi.
 
Luận về các bang hội và giáo phái, có ba bang và bốn giáo nổi danh nhất thiên hạ. Ba bang gồm Hoàng Hà Bang, Đại Giang Bang và Lưỡng Hồ Bang. Bốn giáo là Thái Ất Giáo, Thiên Sư Đạo, Di Lặc Giáo và một giáo phái cực kỳ bí mật là Tiêu Dao Giáo. Tam bang tứ giáo này đại diện cho bảy thế lực hùng mạnh nhất trong nhân gian, khuynh loát, tranh đoạt địa bàn, bành trướng ảnh hưởng lẫn nhau.
Tạ An điềm tĩnh hỏi: “Văn Thanh khỏe không?”.
 
Giang Hải Lưu lộ vẻ dịu dàng và vui tươi ít thấy, y hân hoan nói: “An công quan tâm thực quý hóa. Văn Thanh chỉ phải cái mỗi ngày một phóng túng, các mặt còn lại đều được”.
 
Giang Văn Thanh là con gái duy nhất của Giang Hải Lưu, năm nay mới mười chín tuổi, nhan sắc chim sa cá lặn, thông tuệ hơn người, võ công chân truyền của cha, được Giang Hải Lưu cưng hơn trứng mỏng.
 
Tạ An thở dài: “Hôm nay ta cho mời Hải Lưu tới, quả thực có một việc tối quan trọng muốn nhờ ông làm, nếu ông giải quyết ổn thỏa, ta sẽ không kỳ kèo gì nhiều vụ giao dịch mờ ám gần đây giữa ông với Tôn Ân. Tuy vậy từ tối nay ông phải đoạn tuyệt quan hệ với Tôn Ân”.
 
Giang Hải Lưu công phu hàm dưỡng rất cao mà cũng phải biến sắc khi nghe những lời ấy, một vì Tạ An nói thẳng vào vấn đề, không quanh co vòng vèo gì hết, hai vì y vốn cho rằng việc của y với Tôn Ân cực kỳ bí mật, chẳng ngờ đã đến tai Tạ An rồi. Tạ An nhắc đến con gái y là muốn lưu tâm y nên quý trọng những gì đang có, ngụ ý cảnh cáo uy hiếp y chứ không sai.
Giang Hải Lưu muốn nói nhưng khó mở lời, nhất thời chẳng biết làm thế nào.
 
Trên đời này chắc chỉ có Tạ An mới dám vỗ vào mặt Giang Hải Lưu như vậy. Ngay cả hạng Hoàn Xung còn phải khéo léo rào trước đón sau, huống hồ những người khác, phải chán sống rồi mới nghĩ đến chuyện làm thế.
 
Một lúc rất lâu sau, y đành thừa nhận: “Cũng bởi Nhân tại giang hồ, thân bất do kỷ cả thôi. Giang Hải Lưu này mà không làm ăn với Tôn Ân nữa, nhất định Nhiếp Thiên sẽ thế chân tôi ngay. Hiện tại thế lực của Tôn Ân mỗi ngày một lớn, hào cường sống dựa vào dải duyên hải đông nam rất nhiều, mua bán muối hầu như do y khống chế. Ôi! Hải Lưu này chẳng có lựa chọn nào khác”.
 
Tạ An quay lại nhìn y, đôi mắt nhấp nháy tinh quang, giọng rất êm ái: “Ông đã chịu cung kính gọi ta một tiếng An công, ta làm sao chịu nổi khi nhìn thấy ông lún sâu thêm nữa. Tôn Ân nuôi ý tạo phản, ai mà chả nhận ra, ông cũng khó tránh khỏi liên đới. Dù y thành công hay thất bại, hậu quả sau này đều bất lợi cho ông. Nếu Đại Tư Mã biết được, người sẽ không bỏ qua cho ông đâu. Ta có thể che giấu giúp, nhưng Nhiếp Thiên có chịu làm thế không? Tôn Ân thì chỉ muốn thiên hạ đại loạn. Cái kim trong bọc lâu ngày cũng thò ra”.
Nhiếp Thiên là thủ lãnh của Lưỡng Hồ Bang, tính tình thô lỗ bá đạo nhưng rất được lòng bọn đại hào hắc đạo, thông thạo mưu lược, phát dương thanh thế ở hai hồ
 
Động Đình và Bà Dương. Hoàn Xung đã nhiều lần càn quét hang ổ, nhưng vẫn chưa thể làm hao tổn nguyên khí của y, cùng lắm là khiến y im ắng bớt đi thôi.
Giang Hải Lưu cười vẻ bứt rứt, cúi đầu thưa: “Đa tạ An công chỉ bảo, Hải Lưu hiểu nên làm thế nào rồi!”.
 
Tạ An vẫn giữ thái độ ung dung, lại đưa mắt ra sông Tần Hoài đang chảy dưới Vũ Bình Đài: “Trận chiến với Phù Kiên, nếu thua, tất nhiên chúng ta chẳng thể nhắc gì được đến những điều ấy nữa. Nhưng nếu may mắn thủ thắng, trong một thời gian dài vó ngựa Hồ sẽ không dám phạm xuống đất Nam, lúc đó nếu Tạ An này còn đủ ảnh hưởng, sẽ nhân cơ hội tốt ngàn năm có một, liên thủ với Đại Tư Mã chỉnh đốn toàn bộ miền nam, xử lý đầu tiên là Nhiếp Thiên và Tôn Ân. Ta xem Hải Lưu như người nhà nên tối nay mới mời ông đến đây để nói chuyện này. Hải Lưu đừng làm ta thất vọng”.
 
Giang Hải Lưu thầm khen lợi hại, bất giác thấy tâm phục khẩu phục. Tạ An xưa nay vẫn ưa dùng thủ đoạn ân uy kết hợp, vừa cứng vừa mềm. Ông ta rất ít khi giận dữ, nhưng ai cũng biết, người nào khiến ông ta nổi cơn lôi đình sẽ chẳng làm sao mà thoát được. Giang Hải Lưu thở dài, gật đầu: “Hải Lưu hiểu rồi, nhất định sẽ không để An công thất vọng, nhưng xin người gia ân cho ít thời gian”.
 
Tạ An tủm tỉm: “Làm thế nào, mức độ đến đâu, ông hãy tự quyết. Giang hồ có quy củ của giang hồ, ta hiểu điều đó”.
 
Nghe những lời ấy, dân anh chị như Giang Hải Lưu cũng phải cảm kích, y khẳng khái nói: “An công muốn tôi làm gì, xin cứ phân phó”.
 
Tạ An khoan thai nói: “Ta muốn ông theo dõi một người”.
 
Giang Hải Lưu ngạc nhiên: “Việc dễ dàng như vậy ư? Mong An công dạy rõ”.
 
Tạ An trầm giọng bảo: “Ta muốn ông theo dõi Trúc Lôi Âm, trụ trì chùa Minh Nhật, xem lão ta có rời Kiến Khang không”.
 
Giang Hải Lưu giật mình, Trúc Lôi Âm không phải là một cao tăng đức hạnh gì, lão ta tiếng xấu đồn xa, bên cạnh có nữ đồ đệ Diệu Âm mới thực là dâm loàn hết chỗ nói. Nhưng luận về võ công, Trúc Lôi Âm là cao thủ thuộc hạng nhất nhì trong Sa môn ở đô thành Kiến Khang, ngoài ra còn qua lại rất thân thiết với huynh đệ Tư Mã Đạo Tử, cùng một phường mèo mả gà đồng, giới Phật tử tuy luôn ngứa mắt vì lão ta nhưng vẫn bó tay bất lực, giận mà không dám nói. Giang Hải Lưu hiểu Tạ An muốn y đứng ra làm là để tránh bên nhà Tư Mã Đạo Tử biết có bàn tay ông ta can thiệp trong đó. Thêm nữa, Đại Giang Bang là bang hội có thế lực nhất ở Kiến Khang, tai mắt rải khắp các trạm gác bến bãi lớn nhỏ, Trúc Lôi Âm muốn che giấu hành tung với họ, kể còn khó hơn lên trời.
 
Giang Hải Lưu gật đầu: “Cứ giao việc này cho Hải Lưu”.
 
Tạ An nói: “Tạm thời chắc lão ta cũng chẳng có động thái gì khác lạ đâu, nhưng khi chúng ta quyết thắng bại với Phù Kiên, Trúc Lôi Âm sẽ không đứng xem đâu, mà sẽ đi Lạc Dương đón Nhị đương gia của Di Lặc giáo là Trúc Bất Quy trở về Kiến Khang, ta muốn ông báo cáo từng li từng tí hành động của lão ấy cho ta biết, kể từ hôm nay”.
 
Giang Hải Lưu chấn động, hiểu ra rằng người Tạ An muốn đối phó là bọn tà giáo Di Lặc mà ai nghe đến tên cũng phải biến sắc, thầm nhủ nếu Di Lặc giáo mà gây dựng cơ đồ ở Kiến Khang thì Đại Giang Bang nhất định sẽ là một trong những đối tượng bị ảnh hưởng, y vội gật đầu: “Không vấn đề gì, nếu lão tới Lạc Dương, nhất định sẽ đi qua Biên Hoang. Ở Biên Hoang có Hán bang, Chúc Lão đại của Hán bang là chỗ bạn bè sống chết với tôi, nhất định sẽ thu xếp ổn thỏa cho An công”.
 
Rồi không nhịn được, y hỏi: “Về cuộc chiến với Phù Kiên, An công có bao nhiêu phần chắc thắng?”.
 
Đông Môn Đại Nhai được đèn đuốc bên đường chiếu sáng rỡ như ban ngày, ở các cao điểm của nhà quán hai bên đường đều đặt trạm tiễn, nơi cửa tập còn có canh gác dày đặc, muốn xông ra thực chẳng khác nào mộng tưởng.
 
Trên Đông Môn Đại Nhai chỉ có mình ba người họ, lập tức đã thu hút sự chú ý của các bốt gác. Họ đành giảm bớt tốc độ, tránh khuấy động đến Phù Kiên lúc đó có lẽ đang nghỉ ngơi.
 
Lúc này chỉ còn cách cửa ra khoảng hai trăm bộ, lính gác cũng là người mình, phục sức thân binh của Phù Kiên, vì vậy hoàn toàn không có vẻ giới bị hay giám sát gì, tưởng chừng thành công đã nắm chắc trong tay, đúng thời khắc quan yếu đó, từ đằng sau trên cao tiếng tay áo phất gió bất chợt vang lên, giọng Khất Phục Quốc Nhân cũng đồng thời vẳng tới, ầm ĩ: “Chặn chúng lại, ba đứa đó là gian tế!”.
 
Yến Phi lúc này không kịp ngoảnh đầu nhìn Khất Phục Quốc Nhân, nhưng từ tiếng tay áo xé gió đã nhận ra ngoài Khất Phục Quốc Nhân lướt đi trên mái ngói Đệ Nhất Lâu còn có một cao thủ khác võ công không kém y là mấy, đồng thời từ tiếng động soạt soạt phất động kỳ lạ từ tấm áo khoác đỏ của Khất Phục Quốc Nhân, chàng cũng đã phân biệt được hai người. Chỉ có điều hai người này đã đủ để giữ họ lại rồi.
 
Nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời khắc đó mà chàng phải làm là quyết định sách lược chạy trốn, vì chàng còn thông thạo tình hình Biên Hoang Tập hơn Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê nhiều, mà hai người thì càng vì chàng mà trở nên chiến hữu, vì vậy điều này quan hệ đến chuyện sinh tử tồn vong, nhất định phải do chàng quyết định.
 
Yến Phi vừa thét lớn: “Chạy theo ta”, vừa bật khỏi lưng ngựa, lăng không lộn một cái trên cao, Điệp Luyến Hoa rời vỏ, hóa thành muôn điểm hàn tinh, kiếm tới đâu người theo tới đó, nghênh đón Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh. Chính là tư thế ngạnh đấu chính diện.
 
Dựa vào một câu nói, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đã đồng thời nắm được tâm ý liên thủ đột phá vòng vây của Yến Phi, hiểu rõ địch nhân thế mạnh đến mức hoàn toàn không thể so sánh, cho dù chia ngả tháo chạy, vẫn không thể kéo giãn lực lượng ngăn chặn vây hãm của địch. Hai người Yến Phi tấn công lúc này là hai kẻ mạnh nhất, đúng là thăm bệnh bốc thuốc, một mặt tránh được tên bắn, mặt khác tạo được tình hình hỗn loạn.
 
Nghĩ tới đây, Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê không dám nghi ngờ gì nữa, cũng bắt chước Yến Phi bật lên khỏi lưng ngựa, song kích nhất đao, lao lên giáp công hai bên trái phải Khất Phục Quốc Nhân lúc đó đang lăng không phóng tới.
 
Gần ba mươi cây kình tiễn từ các điểm tựa bắn xuống, nhưng người đã đi chỉ còn ngựa không, tai họa đổ ập xuống những con ngựa vô tội.
 
Lính gác ở Đông Môn ước chừng một trăm người, như sói như hổ ào ào đổ đến con phố dài đang biến thành bãi chiến trường này.
 
Lúc ấy, đám cao thủ thân tùy đang trực ở hành cung Phù Kiên cũng đến mười mấy người, vẫn chưa hiểu rõ tình hình địch ta thế nào. “Đang” một tiếng, Khất Phục Quốc Nhân đã như một ráng mây đỏ lướt về phía toà lầu ở mặt bắc con đường.
 
Khất Phục Quốc Nhân phải lui lại, một vì vẫn chưa phục hồi sau trận chiến với tên quái nhân mặt quỷ, trong mình vẫn mang nội thương, hai vì không ngờ Yến Phi gan dạ dám quay lại phản kích, lại thêm Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ liên thủ, bất kể y có tự phụ thế nào, có thống hận Yến Phi đến đâu, nhưng rốt cục tính mệnh vẫn là trọng, đành tá lực giãn ra.
 
Thảm nhất là Mộ Dung Vĩnh, Khất Phục Quốc Nhân vừa đi, cục diện đã trở thành y một mình đấu chính diện với ba đại cao thủ, cây đao răng cưa trên tay hữu lực nhưng khó thi triển, khó ứng phó, nhưng dẫu sao y cũng là nhất đẳng cao thủ, lâm nguy bất loạn, buộc ba người không dám truy kích, vụt một cái trầm khí sử Thiên cân trụy, thay đổi được tình thế, lún xuống đất.
 
Yến Phi và hai người lướt qua trên đầu y, nhảy lên mái ngói Đệ Nhất Lâu.
 
Lúc này trên nóc Đệ Nhất Lâu đã có bốn tên lính Tần, ai nấy giương cung lắp tên, nhưng chưa dám bắn, vì sợ ngộ thương Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh, điều này có thể tuy thấy lại không có gì trở ngại, lại vì con đường dài đầy những người mình ào ào chạy tới, chỉ cần một mũi tên bắn chệch, kình tiễn lại bắn vào nhân mã của mình,
 
đang còn do dự, ba người đã lăng không đến gần, kiếm quang đao ảnh kích khí đổ ào xuống, giữa những tiếng kêu thảm, bốn tên Tần binh máu tươi bắn tung toé lăn xuống dốc bên kia của mái ngói, rơi thẳng xuống hậu viện.
 
Yến Phi là người đầu tiên đáp xuống mái ngói, quét mắt nhìn quanh, thấy quân Tần chen nhung nhúc khắp các đường lớn ngõ nhỏ, chỉ cần nhóm của chàng dừng lại hít thở một chút, nhất định sẽ rơi vào giữa muôn trùng vây, đừng nghĩ đến việc toàn mạng trở ra.
 
Yến Phi thét lớn: “Chạy lối này!”, rồi hai chân phát lực, phóng về một mé khác của nóc nhà, liên tục tăng tốc độ trong vòng hai trượng ngắn ngủi. Đến khi mũi chân điểm lên mút cuối của mái, lực thăng bằng dồn tích đến mức cao, y toàn lực bay lên, thẳng lên khoảng không cách mặt đất đến mười mấy trượng, hầu như đã chìm lấp vào trời đêm.
 
Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đều không hiểu Yến Phi đang nung nấu cái gì trong đầu, bắt bọn họ từ Đệ Nhất Lâu nhảy xuống thì đương nhiên không thành vấn đề, nhưng từ độ cao hơn mười trượng ngã xuống đất thì không phải là chuyện đùa nữa, nhất định sẽ vỡ đầu gãy xương, táng mạng quy tiên luôn.
 
Nhưng hai người họ tuyệt đối tin tưởng Yến Phi, biết nhắc chắn có kết quả tốt hóa nguy thành an, còn lần chần ở đây thì chắc chết không nghi ngờ gì nữa, mà điều quan trọng nhất là nhìn Yến Phi có vẻ như dốc hết sức, sự thực vẫn còn dư lực, vì vậy điểm rơi có lẽ sẽ là một mục tiêu cố định.
 
Hai người một trước một sau bay theo hướng Yến Phi, giữa những tiếng la hét. Những mũi tên bắn về chỗ ba người vừa đứng đều hụt vào khoảng không.
 
Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh nóng lòng tấn công, dẫn một đám Tần binh hỗn loạn từ mặt đất đuổi theo ba người. Khất Phục Quốc Nhân lờ mờ cảm thấy sự vây bủa ở đây có một lỗ hổng rất lớn, chính là do ba người đã dễ dàng trà trộn vào trong đội ngũ đang vây bắt, mà do bên Tần nhân số quá đông, lại đang đêm khuya, đối phương có thể dễ dàng lộng giả thành chân, có điều cái lỗ hổng này đã không thể nào vá víu được nữa, nếu sớm một bước có thể khiến tất cả mọi người không được rời khỏi vị trí, ai nấy cố thủ tác chiến, ba người dù mọc cánh cũng khó thoát, hiện tại hối thì đã muộn, chỉ mong có thể chính mình chặn được ba người, đó là cơ hội duy nhất của y.
 
o0o
 
Kỷ Thiên Thiên bước đến sau lưng Tạ An, nhíu đôi mày thanh tú, khẽ hỏi: “Hình như tất cả mọi chuyện đều phát sinh vào thời gian này, tại sao lại thế?”.
 
Tạ An chăm chú nhìn lửa đèn lấp lánh bên bờ kia sông Tần Hoài, vẳng nghe tiếng đàn ca sáo nhị từ thuyền thanh lâu vọng tới, điềm tĩnh nói: “Đơn giản mà, nghĩa phụ đây thời gian không còn nhiều, phải thay đổi sách lược thỏa hiệp trấn chi dĩ tĩnh, phải nhân thời cơ này, dốc hết tâm lực vì bá tánh Giang Nam”.
 
Kỷ Thiên Thiên tiến lên, đặt bàn tay nhỏ nhắn lên đầu vai Tạ An, trách khẽ: “Nghĩa phụ đừng nói không nhiều thời cơ gì đó nữa có được không? Nghe thế Thiên Thiên cũng thấy phiền muộn lắm, cũng cảm thấy quả thực không còn nhiều thời gian nữa. Nghĩa phụ nhất định sẽ sống lâu trăm tuổi, dẫn dắt người Hán chúng ta lấy lại những dải non sông đã mất”.
 
Tạ An than: “Mình biết chuyện nhà mình thôi, từ năm bốn mươi bảy tuổi vì xao nhãng luyện đan, suýt chút nữa là tẩu hỏa nhập ma, sau đó tuy được Đan Vương An Thế Thanh ra tay cứu giúp, giữ lại được tính mạng, song di hại rất sâu, mãi đến nay vẫn còn nhức nhối. Gần đây có cơ tái phát, khiến ta biết thọ nguyên sắp tận, có thể kéo dài được hai, ba năm nữa cũng là kỳ tích rồi”.
 
Kỷ Thiên Thiên lần đầu tiên nghe nói đến chuyện đó, cũng là lần đầu tiên biết Tạ An cũng đã từng say mê Đan thuật đến nỗi suýt mang họa, nàng hết sức ngạc nhiên.
 
Tạ An nhìn nàng, đôi mắt hiền từ, dịu dàng nói: “Nghĩa phụ không coi trọng chuyện sống chết, chẳng bao giờ đặt nặng vấn đề ấy, mà vốn dĩ cũng không phải việc mình quyết định được. Vừa may trải qua bao nhiêu năm nỗ lực, cuối cùng cũng bồi dưỡng cho Tiểu Huyền thành tài, thiên hạ sau này phải trông nhờ vào bản lĩnh của y. Hiện tại nghĩa phụ vẫn còn có chút ảnh hưởng, nên giúp y giảm bớt trọng trách mà thôi!”.
 
Ông ta lại đưa mắt ra sông Tần Hoài, chậm rãi nói giữa những tiếng dạt dào vô hạn: “Hiện tại Trúc Pháp Khánh cuối cùng cũng thọc Ma trảo vào miền nam rồi, còn thông qua Trúc Lôi Âm và Quốc Bảo để thiết lập quan hệ với huynh đệ hoàng thượng, việc này nếu thành công, còn tai họa hơn cả Thiên Sư Đạo của Tôn Ân. Hừ, Tạ An ta đâu thể ngồi nhìn việc ấy diễn ra trước mắt, ngày Trúc Bất Quy đến nam sẽ là ngày mệnh chung của y luôn. Với cái loại tà giáo tàn nhẫn đáng sợ đó thì chẳng phải nói đạo lý gì hết”.
 
Kỷ Thiên Thiên lộ vẻ lo âu: “Nghĩa phụ không ngại chọc giận hoàng thượng ư? Tại sao không liên kết với đại thần trong triều, hết lòng can gián hoàng thượng, khuyên giải người thu hồi thánh lệnh”.
 
Tạ An cười buồn: “Hoàng thượng là người như thế nào, ta rõ hơn ai hết. Đã không thể lấy lý để xử, thì phải dùng uy để trấn. Đương nhiên, tất cả vẫn còn phụ thuộc vào việc thắng bại của Tiểu Huyền!”.
 
Kỷ Thiên Thiên thấy lòng trào lên cảm giác tin cậy và sùng mộ đối với Tạ An. Nàng tin rằng Tạ Huyền sẽ không phụ sự kỳ vọng ấy, sẽ đánh lui đại quân Phù Kiên kéo đến xâm phạm miền nam này, nghĩa phụ của nàng, không những là đệ nhất danh sĩ được ngưỡng vọng nhất hiện nay, mà còn là nhân vật lưu danh thiên cổ.
o0o
 
Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ nhìn Yến Phi đang hạ xuống một rừng trúc, thầm khen diệu, nhuyễn lực của trúc có thể hóa giải được kình lực đáp xuống, vốn dĩ họ muốn đáp xuống một nơi như ao hồ hay đầm nước, vậy cũng có thể khiến họ an toàn không bị thương, có điều sẽ ướt sũng hết, thành ra địch nhân sẽ biết rõ dấu vết và truy đuổi đích xác. Rừng trúc khác ao hồ một trời một vực, thực lý tưởng.
 
Trúc lay động, kêu xoàn xoạt. Yến Phi nhờ phản kình liên tục giảm tốc độ, sau đó chạy về hướng nam, biến mất trong một ngõ nhỏ, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ không dám chậm trễ, vội vàng theo sau.
 
Ba người gặp lại nhau trong ngõ, rồi băng mình đi ra theo đầu ngõ kia. Tiếng tù và từ hướng Đông Môn Đại Nhai vẳng lại, báo cho vệ binh trên cả Biên Hoang Tập rằng có địch đến xâm phạm.
 
Ba người không ngạc nhiên mà lại mừng, vì điều ấy sẽ khiến tình hình càng thêm hỗn loạn, chỉ nghe thấy tiếng tù và lại không hiểu được số gian tế là bao nhiêu, càng không thể biết được địch nhân đã hóa trang thành người mình.
 
Lao ra khỏi con ngõ dài, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ phát giác là đã theo Yến Phi đi vào Nam Môn Đại Nhai, một đội Tần binh hơn năm mươi người đang từ cửa nam chạy ra, trông tư thế có lẽ là đang chạy đến Đông Môn Đại Nhai, hai bên va vào nhau.
 
Yến Phi tiên phát chế nhân, quát to bằng tiếng Đê: “Bọn Tấn vô dụng!”.
 
Người dẫn đầu tức thì đáp lại “Không chịu nổi một cú!”, nhìn rõ là thân binh của Phù Kiên, thái độ của y trở nên cung kính hẳn, y quát bảo ngừng lại hỏi: “Đã xảy ra việc gì vậy?”.
 
Yến Phi đáp: “Có thích khách trà trộn vào Tập, bọn ta phụng mệnh Thiên Vương đi bảo vệ đại môn ngoài trại, mau theo chúng ta đi”. Nói rồi chạy trước về phía cửa nam. Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ thầm tán thưởng sự cơ trí của Yến Phi, vì không có cách thoát hiểm nào vẹn toàn hơn, bèn theo bọn lính chạy ào đi, thẳng về phía Nam Môn. Tên lính Tần giữ cửa Nam nhìn thấy người mình liền chạy lại, ai nấy có vẻ hoang mang, Yến Phi thét to: “Chuẩn bị ngựa!”.
 
Tên dẫn đầu nhóm cũng hét theo: “Còn không chuẩn bị ngựa mau?”. Tên lính gác cửa không dám chậm trễ, dắt ngựa ngoài cửa Tập vào. Yến Phi và hai người kia nào khách khí, lập tức phi thân lên ngựa.
 
Ở giữa ngoài cửa nam và bức tường ngoài trại, có hai nhóm quân doanh, không đèn đuốc gì hết, chỉ có một số ít người thức dậy, ra khỏi doanh trại ngó nghiêng, đủ thấy Tần binh thực đã quá mệt, cho dù tù và giục giã vẫn không thể đánh thức họ.
 
Nhưng ở ngoại trại vẫn thắp sáng tưng bừng, mỗi vọng bắn treo một ngọn đèn gió, Đại Trại Môn cửa khép kín, càng sáng rỡ ràng, canh gác dày đặc.
 
Yến Phi thúc ngựa ngoái đầu nhìn, một số lượng lớn Tần binh đang men theo Nam Môn Đại Nhai đổ tới như nước triều, do cự ly gần một ngàn bộ, chưa nhìn thấy rõ có bóng áo đỏ của Khất Phục Quốc Nhân trong đó không, không dám chần chừ, hắn kẹp hai bên lườn ngựa, phi đầu tiên lao về Nam Trại Môn, hai người kia cũng phi nhanh theo. Đằng sau là một đội kỵ binh Đê Tần dài lẵng nhẵng bị họ xỏ mũi.
 
Ra khỏi cửa Tập, cơ hội chạy thoát của ba người tăng lên, như mãnh hổ về rừng, giao long về biển, toàn thân kình lực sung mãn, đợi đến thời khắc quan trọng nhất là tới Trại Môn.
 
Ba người liên tục tăng tốc phi ngựa, hướng về phía Trại Môn.
 
Đám Tần binh bảo vệ Trại Môn tuy chưa lắp tiễn, song ai nấy đều lộ vẻ cảnh giác, tiểu tướng phụ trách hô to: “Dừng lại!”.
 
Thác Bạt Khuê hét lớn: “Chúng ta có thủ lệnh của Thiên Vương, lập tức xuất trại lùng bắt địch nhân. Mau mở cửa!”.
 
Yến Phi giảm tốc, thò tay vào trong ngực áo, như thể lấy thủ lệnh ra thật.
 
Đội quân đằng sau láng máng cảm thấy có điều gì không ổn, bởi bọn Yến Phi nói năng tiền hậu bất nhất, nhưng vì khoảng cách quá xa, lại chỉ mới là nghi ngờ, nhất thời không kịp cảnh báo. Gió bỗng rít lên, Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Phục vút qua hai bên trái phải chúng.
 
Lúc này ba người đã đến trước Trại Môn, dũng sĩ canh gác tiến lên muốn nắm lấy cương ngựa.
 
Yến Phi biết đã đến lúc, thét lớn: “Thủ lệnh đây!” Vừa nói vừa cùng Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ bật mình khỏi lưng ngựa, lăng không mà đi, chân điểm lên đầu cửa, tá lực bắn ra xa ngoài Trại.
 
Lúc này Khất Phục Quốc Nhân và Mộ Dung Vĩnh tuy chân không chạm đất nhưng như đã dồn hết tốc độ để đuổi tới, nhưng nhìn thấy rõ ba người đã vượt khỏi Trại Môn, biến mất ngoài trại, biết rằng đã muộn một bước rồi, thõng tay nhìn ba người cao chạy xa bay, chẳng biết làm thế nào nữa.