Dịch giả: Vũ Anh Tuấn
Đêm thứ tám
Gặt bão

    
ôi ở thành phố Washington trong tháng kế tiếp sau đó. Đây là thời gian đang diễn ra phiên họp kết thúc nhiệm kỳ của Quốc hội. Sự liên quan của thẩm phán Lyman trong vụ án mạng của Green và cậu Hammond đã làm cho ông ta bị mang tai tiếng ở Cedarville và trong khắp cả địa hạt mà ông ta đã được bầu ra, khiến đảng của ông ta cũng nhận thấy rằng cần phải khôn ngoan loại Lyman ra, và thay vào đó bằng một ứng cử viên ít có nguy cơ vấp phải làn sóng mạnh mẽ và rất có thể thành công của những người phản đối hơn. Bằng việc làm đó, thêm một lần nữa, họ hy vọng có thể giữ được an toàn trong cuộc bầu cử trước đảng có quan điểm hạn chế rượu, tuy nhiên, đảng này đã thành công trong việc đưa được một người có quan điểm ủng hộ Đạo luật Maine vào cơ quan lập pháp bang. Bởi thế, đây là mùa đông cuối cùng của thẩm phán Lyman ở thủ đô liên bang.
Khi đang ngồi trong phòng đọc của khách sạn Fuller vào khoảng buổi trưa một ngày sau khi đến Washington, tôi nhận thấy một người có khuôn mặt trông quen quen đi vào và nhìn quanh như đang tìm kiếm một ai đó. Trong khi còn đang thắc mắc chưa nhớ ra được ông ta là ai, thì tôi nghe có một người đàn ông lên tiếng nhận xét với người khác đang chuyện trò với ông ta:
“Lại một gã lang thang nữa bị loại khỏi ghế của ông ta trong Quốc hội”.
“Ai thế?” người kia hỏi.
“Còn ai nữa. Đó là thẩm phán Lyman” ông ta trả lời.
“Ô” người kia nói, vẻ lãnh đạm. “Điều đó chưa phải là hậu quả gì lớn. Người đàn ông khôn ngoan đó đã có thêm được bài học quý giá”.
“Ít ra thì ông ta đã giành được khá nhiều phiêu bầu khi à những vấn đề quan trọng còn chưa ngã ngũ”.
“Ông ta đã gặp phải chuyện gì thế?” câu hỏi được đưa ra lạnh lùng.
Người đối diện nhún vai, cặp lông mày nhướn lên, nhưng không đưa ra câu trả lời.
“Tôi rất muốn được biết điều đó” người vừa đưa ra câu hỏi nói tiếp.
“Ngài không nghe nói rằng Lyman sẽ chuỷên giao vị trí của ông ta trong cuộc bầu cử cho những ứng cử viên khác sao?”
“Điều đó có lẽ sẽ tuỳ thuộc vào việc ai là ứng cử viên. Họ chắc phải là những người có những mối liên hệ được và mất đối với vấn đề, không phải chỉ đứng nghe dư luận, và phục vụ lợi ích của mọi người dân, chứ không phải là lợi ích của đảng phái. Thẩm phán Lyman là người hay có quan hệ với những người vận động hành lang, và người ta thường thấy ông ta ngày ngày đi lại với một số người đó. Không còn nghi ngờ gì nữa. Sự vắng mặt của ông ta tại Quốc hội giờ này là nhằm mục đích gặp gỡ với những người đã trả tiền để có được những lá phiếu thông qua dự luật cho phép được sử dụng tiền công quỹ nhằm phục vụ lợi ích của tư nhân hoặc một nhóm người nào đó”.
“Chắc ngài không định nói rằng tất cả những điều vừa nhắc đến đều xác thực chứ?”
“Đúng, rất xác thực! Sự thoái hoá cả về đạo đức và chính trị của người đàn ông này thật là lớn, làm mất mặt cử tri, và làm ô danh cho khu vực của ông ta”.
“Sự có mặt của ông ta tại Washington cũng không được sự hoan nghênh rộng rãi của cộng đồng dân cư mà ông ta đại diện”.
“Không, dù vậy, chúng ta vẫn không thể nhận định về những giá trị đạo đức của một cộng đồng thông qua một người mà họ cử ra làm đại diện trong Quốc hộ. Những đại diện như vậy chỉ cho thấy sức mạnh của các đảng phái mà thôi. ứng cử viên được lựa chọn trong những cuộc họp nội bộ của một đảng không phải bởi vì ông ta là người tốt nhất mà họ có, và cũng không phải vì đó là người thích hợp nhất đối với cơ quan lập pháp trong những vấn đề của quốc gia, mà vì ông ta là người có được nhiều ban bè có thế lực trong số những lãnh dảo đảng, hoặc là người có khả năng giành được số phiếu cao nhất. Đó là lý do vì sao chúng ta thấy ở trong Quốc hội có nhiều người thuộc loại công dân hạng hai như vậy”.
“Một người đàn ông như thẩm phán Lyman có thể bán cả đất nước của ông ta đi, giống như Arnold vậy” (Arnold là vị tướng phản bội trong cuộc Cách mạng Mỹ. Năm 1780 Arnold âm mưu dâng nộp West Point cho quân Anh nhưng thất bại).
“Đúng thế, nếu ông ta có được cơ hội”.
“Ông ta có đánh bạc không?”
“Đánh bạc! Tôi có thể nói là một trong những nghề nghiệp của ông ta. Rất ít đêm tôi nghe kể vậy, mà không thấy ông ta xuất hiện bên bàn đánh bạc”.
Tôi không nghe thêm nữa. Tất cả những chuyện đó đã không hề làm cho tôi ngạc nhiên vì những điều đã biết được về người đàn ông nay khiến cho tôi đã hình dung ra được những điều tồi tệ như vậy.
Trong tuần đó, tôi đã đến Federal Capital, và có nhiều dịp thấy thẩm phán Lyman cả ở bên trong và bên ngoài nhà quốc hội. Trong nhà Quốc hội chỉ là những ý kiến đồng ý và phản đối, kêu gọi về việc đưa ra một chính sách quan trọng, hay một cuộc bỏ phiếu về một dự luật đưa ra những trợ cấp ưu đãi đặc biệt. Trong cuộc bỏ phiếu về dự luật đó, lá phiếu của ông ta, như tôi nhận thấy, luôn nghiêng về phía những người ủng hộ thông qua. Nhiều khi tôi gặp ông ta đang ngất ngưởng đi trên đường, và một lần được dìu đi vào trong toà nhà quốc hội để bỏ phiếu, trong trạng thái say xỉn, khiến cho ông ta phải được hỗ trợ khi đến ghế ngồi. Và thậm chí còn tồi tệ hơn thế, lúc người ta gọi tên thì Lyman đang ngủ và ông ta đã bị lắc người đánh thức nhiều lần mới đủ tỉnh táo để mà bỏ phiếu.
Thật đáng mừng cho khu vực bầu cử của Lyman, vì đó là mùa đông cuối cùng của ông ta ở Washington.trong kỳ bầu cử sau đó, một nhân vật có tư cách xứng đáng hơn đã được thay thế vào vị trí của ông ta.
Hai năm kể từ sau chuyến đến thăm Cedarville, tôi lại đang trên đường đến với cái thị trấn yên tĩnh đó. Khi nhìn thấy chiếc tháp chuông của nhà thờ, và những ngôi nhà lần lượt hiện ra ở chỗ này chỗ nọ, nổi bật hài hoà trên nền màu xanh bát ngát của rừng cây và những cánh đồng cỏ, tất cả những sự kiện náo động đáng nhớ xảy ra trong chuyến đến thăm lần trước lại hiện ra thật rõ ràng trong đầu tôi. Tôi nghĩ về cái chết khủng khiếp của Willy Hammond, và người mẹ đau khổ của cậu, người mà cuộc sống cũng đã ra đi cùng với cuộc sống của Willy, khi chiếc xe trạm lăn bánh qua khu nhà của họ. Ôi, nơi đó đã có thật nhiều thay đổi! Nhìn vào đâu cũng thấy được những dấu hiệu của sự hoang phế, mục ruỗng và đổ nát. Những bờ rào bị đổ sập ở nhiều nơi, những bờ dậu, trước đây đã từng rất xanh tốt và được xén tỉa đẹp đẽ, giờ đây mọc hoang um tùm ở một vài chỗ, nhưng ở những chỗ khác thì còi cọc và xác xơ, tất cả những lối đi đẹp đẽ đầy cỏ dại, và những cây hoàng dương trồng ven lối đi đã bị chết. Khu vườn sặc sỡ, sinh động v vful những bông hoa đẹp,như tôi đã nhìn thấy lần đầu tiên, bây giờ đang ở trong tình trạng hoang tàn, một nơi kiêm ăn của những con lợn. Chỉ liếc nhìn qua ngôi nhà cũng đã thấy một chiếc ống khói bị vỡ, những viên gạch còn nằm nguyên tại nơi chúng bị rơi xuống đát. Mái nhà phủ đầy rêu với một cành cây to bị sét đánh đổ nằm ngang trên mái hiên nhà, và chỉ còn đợi có một trận gió lớn thổi qua để rơi xuống đất. Một nửa số cây nho leo lên mái cổng đã bị chết, và những cây còn lại không được chăm sóc nên nằm quấn lại với nhau một cách lộn xộn hoặc bị rơi xuống mặt đất. Một cây cột chống cổng đã bị vỡ, và hai trong số những bậcthềm cũng vậy. Những cửa sổ của ngôi nhà đều đóng kín, nhưng cửa ra vào thì vẫn mở, và khi chiếc xe trạm đi qua đó, mắt tôi đã nhìn thấy trong giấy lát một ông già đang ngồi trong căn phòng lớn của ngôi nhà. Ông ta không ngồi gần cửa để tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt, nhưng mái tóc bạc chảy dài đã khiến tôi nhận ra được ông ta không một chút nghi ngờ, đó chính là thẩm phán Hammond.
Quán trọ “Lưỡi liềm và bó lúa” vẫn là điểm dừng của xe trạm ở Cedarville, và chỉ vài phút sau tôi đã nhìn thấy nó. Những sự thay đổi cũng đã được thấy ở đây. Vật đầu tiên thu hút sự chú ý của tôi là cột biển hiệu của qúan, mà trong lần đến đây ban đầu, tám hoặc chín năm về trước, còn đứng đó thẳng như một dây dọi với nước sơn mới, hãnh diện phô ra trên đỉnh cao của nó hình bó lúa vàng và chiếc lưỡi liềm lấp lánh. Giờ đây, chiếc cột biển hiệu của quán đã trở nên dơ dáy, vỡ nát và mòn đi vì bị va quệt thường xuyên với bánh xe và những con ngựa, và bị xiêu vẹo hẳn khỏi vị trí thẳng đứng của nó, dường như là đang hổ thẹn vì sự tàn tạ, dãi dầu mưa nắng, hiện thân cho những gì nó đã trải qua trong ánh nắng mặt trời. Xung quanh chiếc cột là một vũng bùn bẩn thỉu, nơi mà một con lợn đang dầm minh và dũi bùn để tìm kiếm thức ăn. Vài chiếc thùng đựng rượu whisky cũ đã hết rượu nằm ngổn ngang trong mái hiên nhà bẩn thỉu, nơi một người đàn ông trông to lớn, béo húp và thô lỗ đang ngồi tựa vào tường – chiếc ghế của ông ta thì đang nằm lộn ngược – hé một mắt ra để nhìn tôi lúc tôi ra khỏi chiếc xe tram và đi về phía ngôi nhà.
“À, ngài đó phải không?” ông ta hỏi, với giọng nặng nề, khi thấy tôi đến gần, và đứng dậy với vẻ khó nhọc. Giờ tôi đã nhận ra con người đã thay đổi của Simon Slade. Khi nhin ông ta gân hơn, tôi thấy rằng bên mắt mà tôi ngỡ như chỉ đang nhắm lại, đã bị hỏng hoàn toàn. Những cảnh sat mà tôi đã được chứng kiến trong cái đêm gần đây nhất ở trong phòng bar của ông ta giờ đây trỗi dậy sống động trong tâm trí tôi, cái đêm mà một đám đông hung dữ trong hơi men do ông ta cung cấp đã suýt nữa thì giết chết ông ta.
“Rất vui được gặp lại ngài lần nữa, người bạn tri kỷ của tôi. Rất vui được gặp ngài! Tôi… tôi không…như ngài thấy đấy. Ngài có khoẻ không? Ngài khoẻ không?” và ông ta bắt tay tôi với sự thân mật có xen lẫn hơi rượu.
Tôi cảm thấy bị sốc và bực mình. Một con người đáng thương! Ông ta đang sa xuống miệng của chính cái hố đen tối mà ông ta đã đào cho những người khác, chính ông ta đang sa xuống đó, trong khi thậm chí không còn đủ sức mạnh để đấu tranh với số phận nữa.
Tôi gắng gượng nói chuyện với Slade trong vài phút, nhưng đầu óc ông ta đã như bị những đám mây u ám che phủ, những câu hỏi và trả lời của oota chẳng ăn nhập gì với nhau, nên tôi để lại ông ta và đi vào phòng bar.
“Tôi có thể đặt một chỗ ăn nghỉ ở đây trong vài ngày được không?” tôi hỏi một người đàn ông trông có vẻ đần độn và ngái ngủ, đang ngồi trong một chiếc ghế phía sau quầy.
“Tôi nghĩ là được” ông ta trả lời, nhưng không đứng dậy.
Tôi quay người, và đi vài bước về phía cửa, rồi quay trở lại.
“Tôi cần đặt một phòng” tôi nói.
Người đàn ông từ từ đứng lên và đi tới một chiếc bàn,lần mò một lúc. Cuối cùng ông ta lôi ra một cuốn sổ cũ kỹ, nhàu nát, và ném nó mở ra trên mặt quầy, với một thái độ lạnh nhạt, yêu cầu tôi ghi tên vào đó.
“Tôi cần một chiếc bút, xin ông cho mượn”.
“Ồ được!” và ông ta lại lục lọi trong ngăn bàn, sau một lát, ông ta lôi ra một mẩu bút lông ngỗng và đẩy nó qua mặt quầy về phía tôi.
“Mực đâu?” tôi nói và chăm chú nhìn ông ta vẻ khó chịu.
“Tôi không tin là còn một chút nào” ông ta càu nhàu. “Frank!” ông ta đi tới cửa sau quầy bar để gọi con trai người chủ qúan.
“Ông muốn gì?” một giọng nói thô lỗ, cáu bẳn, trả lời.
“Mực ở đâu?”
“Tôi không biết gì về cái đó”.
“Cậu là người cuối cùng đã dùng nó. Cậu đã viết gì vậy?”
“Chẳng viết gì cả!” tiếng càu nhàu vặc lại.
“Tôi muốn cậu tìm ra nó”.
“Ông hãy tự đi mà tim lấy, và …” tôi không thể nhắc lại câu chửi thề của cậu ta.
“Không sao” tôi nói. “Tôi dùng bút chì cũng được”. Và tôi rút từ trong túi ra một chiếc bút chì. Những chữ được tôi viết ra trong cuốn sổ lem luốc và dính mỡ đó đã không được rõ ràng cho lắm. Chắc hẳn người ta sẽ lúng túng khi muốn đọc được tên tôi. Theo ngày mà những tên khách hàng được ghi trong sổ, tôi nhận thấy rằng mình là người khách đặt phòng đầu tiên trong vòng hơn một tuần qua.
Khi tôi đã ghi xong tên thì Frank khệnh khạng đi vào cùng với một điếu cigar trên miệng và đám khói thuốc quanh đầu cậu ta. Frank đã trở thành một người đàn ông to lớn – mặc dù khuôn mặt cậu ta không thể hiện nhiều nét đàn ông như theo đúng nghĩa của từ đó. Cậu ta có những nét hưởng lạc ghê tởm. Khi nhìn thấy tôi, gò má cậu ta thoáng ửng lên.
“Ngài có khoẻ không?” cậu ta hỏi thăm và đưa tay cho tôi bắt. “Peter” cậu ta quay sang phía người phục vụ quầy bar lười nhác “bảo Jane sắp xếp ngay phòng số 11 cho quý ông đây ngay, và nhắc cô ấy thay vải trải giường nhé”.
“Mọi thứ ở đây có vẻ u ám” tôi nhận xét, khi người phục vụ quầy bar đi ra để thực hiện những công việc đã được giao.
“Quả vậy, một nơi u ám, dù sao đi nữa”.
“Mẹ của cậu có khoẻ không?” tôi hỏi thăm.
Một vẻ lo lắng thoáng hiện ra trên khuôn mặt khi cậu ta trả lời.
“Không có gì khá hơn”.
“Bà ấy vẫn bị ốm sao?”
“Vâng, bà ấy bị ốm khá lâu rồi, và tôi rất tiếc là sẽ không bao giờ khá lên hơn được”. Thái độ của Frank không hoàn toàn là lạnh lùng và lãnh đạm, nhưng trong giọng nói không có mấy cảm xúc.
“Bà ấy đang ở nhà à?”
“Không, thưa ngài”.
Vì cậu ta có vẻ không muốn nói thêm về đề tài đó, tôi đã không hỏi thêm gì nữa. Và Frank cũng mau chóng tìm được lý do để rời tôi và đi ra chỗ khác.
Mọi thứ trong phòng bar không có gì thay đổi, đồ đạc và cách bày biện vẫn như cũ, nhưng tình trạng của chúng thì rõ ràng là đã có những biến đổi lớn. Thanh đồng viền quanh quầy bar, mà trong lần tôi đến đây lần trước còn được đánh sáng bóng, giờ đây đã chuyển thành màu đen ngả xanh lục, và từ đó toả ra mùi gỉ đồng rất khó chịu. Những bức tường bám đầy bụi, khói và những vết ố bẩn, còn những cửa sổ thì để cho ánh sáng chiếu qua một cách yếu ớt, vì kính cửa đã bị phủ một lớp bẩn. Nền nhà dơ dáy. Phía sau quầy bar, trên những chiếc giá vốn được thiết kế để bày rượu, là một đám lộn xộn những chiếc bình cổ thon đựng rượu đã hết hoặc còn một nửa, những hộp cigar, quả chanh và vỏ chanh, những tờ báo cũ, những chiếc ly, một vò rượu bị vỡ, một cái mũ, một chiếc áo gilê bẩn, hai chiếc bàn chải, và những thứ linh tinh không thích hợp khác mà giơ đây tôi không còn nhớ nữa. Không khí của căn phòng xộc lên mùi ẩm thấp.
Ghê người trước những gì thấy ở trong phòng, tôi đi sang phòng khách. Ở đó, những đồ đạc cáu bẩn được sắp xếp có phần gọn gàng hơn, nhưng ta có thể viết được tên mình lên tấm guơng và mặt chiếc bàn phủ đầy bụi. Không khí ở đó thậm chí còn tù đọng hơn cả ở trong phòng bar. Bởi thế, tôi đã không nán lại nơi đây lâu, mà đi sang phòng lớn, và đi ra ngoài hiên nhà để hít thở không khí trong lành.
Slade vẫn dang ngồi dựa vào tường.
“Thời tiết hôm nay thật đẹp” ông ta nói, giọng lẩm bẩm.
“Rất đẹp” tôi trả lời.
“Vâng, rất đẹp”.
“Việc làm ăn có vẻ không thuận lợi đối với ông như vài năm trước” tôi nói.
“Không, ngài thấy đấy…đó là do những người hạn chế rượu đang làm hỏng tất cả”.
“À! Ra vậy sao?”
“Đúng. Cedarville không còn giống như lần đầu ngài đến quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Tôi.. Tg… ngài thấy đấy. Nguyền rủa cái bọn hạn chế rượu! Chúng đã làm hỏng mọi thứ, ngài thấy đấy! Tất cả mọi thứ! Hỏng cả…”
Và Slade cằn nhằn, rồi nói to lên vẫn theo kiểu đó, mà tôi chỉ có thể hiểu được chút ít những gì ông ta nói ra, và trong những điều hiểu được ấy cũng hiếm những câu được mạch lạc. Bởi vậy, tôi để ông ta ngồi lại đó, trong lòng cảm thấy đáng thương cho sự suy sụp của ông ta, rồi đi vào thị trấn để gặp một vài người mà tôi có công việc với họ.
Đến buổi trưa hôm đó, tôi biết được rằng bà Slade đang ở trong một trại tâm thần, nằm cách Cedarville chừng năm dặm. Những sự kiện kinh hoàng xảy ra vào ngày cậu Hammond bị sát hại đã hoàn tất cái việc huỷ hoại tinh thần của bà, vốn đã được bắt đầu từ khi người chồng của bà từ bỏ công việc giản dị, nhưng đáng trân trọng của một người thợ xay để chuyển sang làm chủ quán trọ. Tinh thần bà đã bi.hoàn toàn sụp đổ. Khi biết tin rằng cả Willy và mẹ cậu ta đều đã bị chết, bà Slade đã thét lên một tiếng điên dại, ngã ra và ngất đi. Kể từ đó, sự thăng bằng về tâm thần của bà Slade đã bị huỷ hoại. Trước đó từ lâu, những người quen bà Slade đã nhận thấy rằng tâm thần của bà có sự bất ổn. Frank đã từng được bà yêu quý và coi như là một thiên thần. Cậu ta vốn là một đứa trẻ trong sáng, thông minh, đầy tình cảm, khi cùng với bà chuyển từ ngôi nhà nông thôn đầm ấm của họ, nơi mà mọi ảnh hưởng từ xung quanh đều tốt lành, để đến một quán trọ, nơi ngay cả một thiên thần cũng khó có thể tránh khỏi sự sa ngã. Kể từ sự thay đổi được quyết định bởi người chồng bà kể trên, lòng bà lúc nào cũng u ám. Bà đã nhìn thấy được, ở phía trước chồng bà, đứa con của bà, và chính bà, một cái miệng hố đang mở ra, và linh cảm rằng, chỉ trong ít năm nữa, tất cả trong số họ sẽ bị lao xuống cái hố đen ngòm đáng sợ đó.
Than ôi! Những nỗi lo sợ nhất về sự sa ngã của đứa trai mà bà yêu quý cũng đã xảy đến thật nhanh! Và bà thấy mình bất lực trong mọi cố gắng nhằm cưỡng lại và tìm kiếm cách bảo vệ đứa con cũng như người cha của cậu. Từ ngày quán trọ được mở ra, Frank phải hấp thụ một bâu không khí đã hoàn toàn thay đổi quanh cậu ta, và quá trình suy thoái về nhân cách của cậu cũng bắt đầu. Mùi rượu đã khiến cho Frank cảm thấy phấn chấn một cách khác thường, cùng những đề tài trong các cuộc trò chuyện tại phòng bar có nhiều điều thật mới lạ và mau chóng chi phối những suy nghĩ của cậu, loại trừ dần những suy nghĩ và ấn tượng trẻ thơ, nhân ái, dịu dàng và thánh thiện, đã được người mẹ ra sức truyền thụ và khơi dậy lên trong tâm hồn cậu. Ôi! Sức cám dỗ ma quái của rượu mới ghê gớm làm sao! Và cũng tuyệt vọng làm sao khi một cậu bé như Frank phải sống giữa những cảnh tượng đồi bại, tha hoá trong một phòng bar! Người cha của Frank cũng đã phải suy nghĩ về sự sa ngã của cậu, nhưng ông ta đã không thể làm được gì hơn trước một hậu quả tất yếu đã rõ, và ông ta đã gặt hái được những gì mà mình đã gieo. Với một sự ham muốn làm giàu một cách ích kỷ, ông ta đã lao vào cái công việc kinh doanh sự sa ngã, đồi bại và cái chết, mặc dù không mấy tin rằng ông ta và người thân có thể vượt qua được lò lửa đó một cách bình yên. Những hậu quả từ sai lầm của ông ta tồi tệ đến mức nào trong vài năm qua thi chúng ta đã được chứng kiến.
Flora, tôi được biết, đang ở cùng mẹ cô, và dành cả cuộc đời cho bà. Cái chết của Willy Hammond, người mà cô đã có mối quan hệ tình cảm thắm thiết, cũng đã gần làm cô hoá dại. Kể từ ngày xảy ra thảm kịch kinh hoàng đó, Flora thậm chí chưa bao giờ nhìn lại ngôi nhà cũ của mình. Cô đi cùng với người mẹ bất tỉnh của mình, và từ đó vẫn ở bên cạnh bà, dành cả cuộc đời để chăm sóc bà. Từ trước đó khá lâu, mọi ảnh hưởng của cả Flora và mẹ co đối với người em trai cô đã không còn tác dụng gì. Mặc dù Flora đã tìm mọi cách để níu chân cậu ta, vốn đang trượt nhanh trên con đường sa ngã, nhưng những lời cầu xin nhẹ nhàng, sự trách móc tha thiết, hoặc những giọt nước mắt, đã đều chỉ làm cho cô thêm đau lòng vì thấy rằng không gì giữ được bước chân cậu ta dù chỉ trong giây lát. Dường như định mệnh đã hối hả lôi cuốn cậu vào sự sa ngã. Những thay đổi của người cha cô – vốn đã từng rất âu yếm, hay đùa vui, yêu quý và tự hào về cô con gái của ông ta – là một nỗi đau khổ lớn nữa trong tâm hồn trong sáng của cô gái trẻ. Những ảnh hưởng của cô đối với ông ta, cũng như đối với người em trai, chẳng còn ý nghĩa gì nữa, và ông ta thậm chí còn lảnh tránh cô, cứ như sự có mặt của cô là một sự xúc phạm ông ta vậy. Và, bởi thế, khi Flora rời ngôi nhà không lấy gì làm vui vẻ đó, cô không còn muốn quay trở lại nữa. Thậm chí, khi trí tưởng tượng đưa cô trở về quán “Lưỡi liềm và bó lúa”, cô cảm thấy kinh tởm đối với cái nơi mà cô đã lân đầu cảm nhận được những mũi tên tẩm thuốc độc trong đời, và ở tận đáy sâu trong tâm hồn, Flora đã cầu mong rằng mắt cô không bao giờ còn phải nhìn thấy nó nữa. Ở nơi mà có cuộc sống biệt lập gần như trong tu viện hiện nay của mình, cô muốn tìm kiếm được một sự quên lãng ở trong lòng mình.
Tình trạng bệnh tật của mẹ cô đã làm cho nhiệm vụ của Flora không chỉ mang tính bổn phận đơn thuần, nếu không, bản chất tốt đẹp, không ngĩh đến bản thân trong cô hẳn đã khiến Flora trở lại với ngôi nhà ô uế mà từ đó cô đã ra đi, ở đó, cô sẽ lại sống trong tình trạng khắc khoải để ra sức chăm sóc cho người cha và người em trai cô. Thế nhưng cô vẫn còn chưa phải làm điều đó – một sự hy sinh vô ích.
Buổi tối, tôi lại có mặt trong phòng bar của quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Người phục vụ quầy bar ngái ngủ và thờ ơ giờ đây trông hoạt bát và nhanh nhẹn hơn. Slade, người giờ đây đã phần ra khỏi cơn u mê bởi ảnh hưởng của những ngụm rượu lớn mà ông ta đã uống trong bữa chiều, cũng tỉnh táo hơn, dù tỏ ra không mấy hào hứng chuyện trò. Ông ta đang ngồi một mình bên một chiếc bàn, mắt lơ đãng nhìn quanh phòng. Slade cảm thấy thoải mái hay khó chịu, thì khó ai có thể xác định được. Frank đang là trung tâm của một nhóm đàn ông thô lỗ, những nó nmà trong các câu chuyện khắp quanh phòng đều có thể nghe thấy được họ luôn đầy những lời lẽ thôi bỉ, tục tĩu. Người gây ồn ào nhất, thôi bỉ và tụctĩu nhất trong số đó là Frank Slade. Những lời nói dung tục không ngừng được tuôn ra từ miệng của cậu ta đã không một chút mảy may tác động đến người cha của cậu.
Cuối cùng, cảm thấy bị xúc phạm trước không khí ghê tởm – mà thậm chí không có một nguyên nhân gây kích động nào – đó, tôi đang chuẩn bị rời phòng bar, thì nghe thấy ai đó nói với một người đàn ông trẻ vừa đi vào phòng.
“Gì thế này! Lại cậu đấy à, Nerd? Cậu không sợ ông già cậu sẽ theo dõi như thường lệ sao?”
“Không” người đàn ông đó trả lời, lặng lẽ mỉm cười “ông ấy đã đi dự lễ cầu nguyện rồi”.
“Ít ra thì những lời cầu nguyện của ông ấy sẽ có ích cho cậu” một câu nhận xét nhẹ nhàng.
Tôi quay sang nhìn gần hơn người đàn ông trẻ. Tôi vẫn nhớ được mặt anh ta,dù ban đầu đã không thể nhận ra. Ngay sau khi tôi nghe có người gọi tên anh là Ned Hargrove, ký ức sống động về một biến cố nhỏ đã xảy ra vài năm trước, và đã gây cho tôi ấn tượng mạnh khi đó, lại trở lại trong tôi. Bạn đọc hẳn chưa quên cuộc thăm viếng của ông già Hargrove đến phòng bar của quán “Lưỡi liềm và bó lúa”, và câu chuyện giữa vài người gân gũi với người con trai của ông khi đó do sự rút lui của cậu ta tạo ra. Sự canh chừng của nó ncha đối với cậu con trai ông ta và những nỗ lực ccoo nhằm cậu ta ra khỏi sức lôi cuốn và cám dỗ của một phòng bar được thấy là đã trở thành vô ích. Người con trai đã nhiều tuổi hơn, nhưng một điều đáng buồn rõ ràng, như trên nét mắt Ned đã thể hiện, sự sa ngã của cậu ta còn nhanh hơn cả tuổi tác.
Những lời trao đổi giữa người đàn ông trẻ này và một người bạn trong phòng mà tôi vừa nói đến đã khiến tôi từ cửa quay trở lại phòng và ngồi xuống một chiếc ghế gần nơi Hargrove đang ngồi. Trong lúc tôi làm việc đó, mắt của Simon Slade chăm chú nhìn Hargrove.
“Ned Hargrove!” ông ta nói,vẻ cộc cằn “nếu cậu muốn uống, thì hãy tự nhiên, và hãy biến đi nhé!”
“Không phải việc của ông!” người đàn ông trẻ vặc lại ‘ông sẽ được trả tiền rượu một cách tươm tất”.
Phản ứng trên làm cho người chủ quán tức giận, ông ta chửi rủa Hargrove thậm tệ, và nói một câu gì đó, rằng ông ta không muốn nhìn thấy những thằng con trái cứ động ra khỏi nhà là lại phải có “ông bô, bà bô đi theo”.
“Đừng lo!” người đã gọi tên Hargroce đầu tiên kêu lên “ông già cậu ấy đã đi dự lễ cầu nguyện rồi. Tối nay chúng ta sẽ không phải nhìn thấy bộ mặt cao đạo của ông ta ở đây đâu”.
Tôi chăm chú nhìn người đàn ông trẻ để xem những lời nói thô lỗ và bất nhã đối với người cha tác động đến anh ta như thế nào. Một thoáng hổ thẹn xuất hiện trên nét mặt anhta, nhưng tôi nhận thấy sự xúc phạm đối với người cha đã không đủ khơi dậy trong anh ta sự bất bình có thể dẫn đến một phản ứng nào đó. Có thể thế nào khác được, khi anh ta chính là người đầu tiên đã không tôn trọng cha mình?
“Nếu như ông ta có ở dưới địa ngục sâu đến bốn mươi sải,” Slade trả lời “thì ông ta cũng sẽ biết được rằng Nerd đang ở đây, và vắng mặt nửa giờ để đi theo cậu ta. Thực ra, tôi đã mệt mỏi vì đêm nào cùng phải thấy bộ mặt nghiêm nghị, mộ đạo của ông ta lắm rồi. Nếu anh chàng này không có đủ dũng khí để nói với ông ta rằng hãy để tâm vào chính công việc của mình đi, giống như tôi đã làm tới hơn năm chục lần rồi, thì hãy để chính cậu ta tránhxa nơi đây”.
“Vì sao ông không dùng những lời thậm tệ để tống khứ ông ấy đi, Nerd?” một người đàn ông trẻ trong đám họ, trạc tuổi Nerd, nói. “Ông già tôi cũng đã thử làm cái trò đó đối với tôi, nhưng ông ta đã phải nhận thấy ngay rằng tôi mới là người nắm chủ bài trong tay”.
“Đó chính là điều mà tôi sẽ làm ngay trong lần sau, khi ông ấy đi theo tôi”.
“Ồ đúng! Vậy là cậu đã nói điều đó tới hai mươi lần rồi” Frank Slade nhận xét với vẻ chế nhạo, xấc xược.
Edward Hargrove không dám phản ứng lại, mà chỉ trả lời “Chỉ cần ông ấy xuất hiện ở đây tối nay, mọi người sẽ thấy”.
“Không, chúng tôi sẽ lại chẳng thấy gì cho mà xem”, Frank giễu cợt.
“Chẳng phải là trò đùa!” một người kêu lên. “Tôi hy vọng điều đó sẽ được thực hiện, nên giải quyết cho dứt khoát đi”.
“Cậu ấy sợ chết khiếp lão già ấy rồi” một người đàn ông trông có vẻ đang say bí tỉ cười to, ông ta trạc tuổi đáng để Hargrove dành cho một sự tôn trọng như một người cha chú bề trên, và không nghi ngờ gi, mới uống rượu và tham gia vào câu chuyện của nhóm đàn ông thô lỗ, khiến cho ông ta đánh mất đi tư cách của mình, chưa lâu.
“Nào, giờ hãy thể hiện đi!” tôi nghe thấy một giọng nói phấn khích, khẩn trương kêu lên. “Giờ là lúc vui vẻ đây! Giương vây lên với ông ta đi chứ, Ned! Đừng mất tinh thần!”
Tôi quay về phía cửa, và thấy người cha của Edward Hargrove đang đứng đó. Tôi vẫn nhớ rõ vầng trán rộng, sáng sủa, đôi mắt điềm tĩnh, dịu dàng, cặp môi rắn rỏi, tác phong toát lên vẻ cao thượng của ông mà tôi đã một lần được nhìn thấy trước đây, cũng ở chỗ đó, và mục đích chuyến viếng thăm cũng giống như hôm nay. Thân hình ông giờ đã còng xuống thêm một chút, tóc của ông đã bạc thêm, cặp mắt sâu hơn, khuôn mặt ông gầy hơn và những nếp nhăn đã sâu thêm, toàn bộ vẻ mặt ông toát lên một nỗi buồn đến cảm động. Mặc dù dấu ấn khá đậm nét của thời gian và sự chịu đựng, một vẻ kiên định, không nao núng vẫn được thấy rõ trên nét mặt của ông, tao cho khuôn mặt sự trang nghiêm và giành được sự kính trọng một cách mặc nhiên của mọi người. Ông dừng lại, sau khi đã đi vào mấy bước, và cặp mắt kiếm tìm của ông đã nhận ra con trai mình, ông lên tiếng, giọng nhẹ nhàng, nhưng vẫn kiên quyết và đầy sức mạnh tình yêu của một người cha, nghe khó có thể cưỡng lại được.
“Edward! Edward! Lại đây con!”
“Đừng đi” một câu nói hạ giọng được phát ra, và người nói đã quay mặt đi để ông Hargrove không nhìn thấy được môi mình đang nói. Mới chỉ một lát trước, người đàn ông đó đã hùng hồn chỉ trích người cha của Edward, còn lúc này, ông ta còn không đứng lên được trước sự xuất hiện của ông Hargrove.
Tôi nhìn Edward. Anh ta đã ngồi yên không hề nhúc nhích, và tôi biết rằng để có thể phản đối người cha, anh ta sẽ phải trải qua một cuộc đấu tranh không nhỏ với bản thân.
“Edward” không một chút cưỡng ép, không cứng rắn, cũng không hề có một chút ra lệnh nào trong giọng nói của người cha, nhưng sức mạnh to lớn của câu nói,được thể hiện trong niềm tin của người cha rằng con ông sẽ lập tức rời nơi đó là hầu như không thể cưỡng lại được. Và sức mạnh này đã chế ngự được sự phản kháng. Edward đã đứng dậy, và với cặp mắt nhìn xuống nền nhà, anh ta đang rời đám bạn để di ra thì Frank Slade kêu lên:
“Thằng hèn ngu xuẩn!”
Một luồng sáng giận dữ, hơn là một cái nhìn do mắt người phát ra, được ông Hargrove lập tức hướng về phía Frank khi cái thân hình to lớn của cậu ta đứng bật dậy. Ông không nói một lời, nhưng chỉ cái nhìn của ông cũng đủ làm cho cậu ta sững lại. Frank im bặt, không dám đáp lại cái nhìn khinh bỉ của ông già.
“Giờ hãy nhìn đây!” Simon Slade nói, vẻ tức giận, “như vậy là quá đủ. Tôi đã mệt mỏi vì chuyện này lắm rồi. Tại sao ông không giữ Ned ở nhà? Không ai muốn thấy cậu ta ở đây cả”.
“Ông hãy từ chối bán rượu cho nó” ông Hargrove trả lời.
“Bán rượu là nghề của tôi” Simon đáp một cách trơ trẽn.
“Mong sao ông ăn nói có tư cách hơn” ông Hargrove nói, vẻ buồn rầu.
“Nếu như ông sỉ nhục bố tôi, tôi sẽ cho ông biết tay!” Frank Slade kêu lên và đứng dậy vẻ đe doạ.
“Tôi tôn trọng sự phản ứng theo bổn phận làm con, nhưng hãy hiểu ý tôi “ ông Hargrove bình tĩnh trả lời, “tôi chỉ mong muốn có một nền tảng ý thức tốt hơn trong chuyện này. Tôi chỉ mong sao người làm cha hãy hành xử cho xứng đáng”.
Tôi sẽ không thuật lại lời chửi rủa ghê gớm của Frank Slade để khỏi làm vấy bẩn trang giấy này, cùng với câu chửi được hét lên hơn là bật ra đó, cậu ta lao vào ông Hargrove cùng với nắm đấm. Nhưng trước lúc Frank chạm đến được ông già không nao núng đó, người đứng nhìn cậu ta giống như một người đang nhìn vào mắt của một con thú hung dữ và tự tin rằng con vật không thể chịu đựng được cái nhìn đó – một bàn tay rắn chắc đã chộp lấy cánh tay cậu ta, và một giọng nói dữ dằn vang lên:
“Dừng lại, anh bạn! Nếu động đến sợi tóc nào trên mái đầu bạc đó, thì ta sẽ vặn gãy cổ cậu!”
“Lyon!” cùng lúc Frank kêu tên người đàn ông, cậu ta giơ nắm đấm lên định đánh ông ta. Nắm đấm được giơ lên dừng trong không khí giây lát, rồi lại từ từ hạ xuống bên sườn Frank, và cậu ta đành tự thoả mãn bằng một lời chửi thề và một câu nguyền rủa người đàn ông đó.
“Cậu có thể chửi rủa những gì ở trong tim cậu. Điều đó sẽ không làm tổn thương ai cả, ngoài chính cậu” ông Lyon – người mà giờ đây tôi đã nhận ra là mình đã mấy lần cùng trò chuyện với ông ta trong những lần đến quán trọ trước đây – lạnh lùng trả lời.
“Cám ơn ngài Lyon” ông Hargrove nói “ về sự can thiệp can đảm này. Tôi không dám mong đợi điều gì hơn thế nữa từ phía ngài”.
“Tôi không biết chịu được cảnh một người đàn ông trẻ đánh một người già” Lyon nói, vẻ cương quyết. “Ngoài ra, thưa ngài Hargrove, còn những lý do khác, vì con người ngài là thứ mà vũ lực không được phép động đến ở nơi mà tôi có mặt”.
“Đây là một nơi tồi tệ đối với ngài, Lyon” ông Hargrove nói “ và tôi đã nói như vậy với ngài khá nhiều lần rồi”. Ông nói, vẻ trách móc, giọng thấp xuống. “Vì sao ngài vẫn đến đây?”
“Một nơi tồi tệ, tôi biết chứ” Lyon trả lời, giọng miễn cưỡng, “và tất cả chúng ta đều biết vậy. Nhưng thói quen, thưa ngài Hargrove – còn thói quen. Điều đó thật đáng nguyền rủa! Nếu như những phòng bar đều bị đóng cửa thì mọi chuyện lại khác. Hãy để cho chúng ta được áp dụng đạo luật Maine, và chúng ta sẽ có những cơ hội thay dổi”.
“Vì sao ngài không bỏ phiếu cho những người có quan điểm hạn chế rượu?” ông Hargrove hỏi.
“Tốt hơn là ngài nên hỏi vì sao tôi đã bỏ phiếu cho những người hạn chế rượu “ Lyon nói.
“Tôi ngỡ là ngài đã bỏ phiếu chống lại chúng tôi”.
“Tôi không làm thế. Tôi đâu có mù loà trước lợi ích của chính mình như vậy. Và, nếu như sự thật được biết tới, tôi sẽ không hê ngạc nhiên chút nào nếu mọi người ở trong phòng bar này, trừ Slade và con trai ông ta, đều bỏ phiếu ủng hộ phe của ngài trong quốc hội”.
“Đáng ngạc nhiên” ông Hargrove nói “là với sự ủng hộ của những người uống rượu, chúng tôi đã không đảm bảo được thắng lợi trong cuộc bầu cử”.
“Ngài nên trách điều đó với những người có quan điểm ôn hoà, những người không thấy được những mối nguy và ủng hộ đảng của họ một cách mù quáng” Lyon trả lời. “Chúng tôi đã thấy rõ mặt xấu, và biết được bản chất đáng sợ của nó”.
“Nào, đi! Tôi muốn nói chuyện với ngài, thưa ngài Lyon”.
Ông Hargrove, con trai ông và ông Lyon cùng nhau rời phòng bar. Khi họ đã ra về, Frank Slade lên tiếng.
“Thật là một kẻ nói dối và đạo đức giả đáng nguyền rủa!”
“Ai vậy?”
“Lyon chứ ai!” Frank trả lời, vẻ trơ tráo.
“Tốt hơn là cậu hãy nói thẳng vào mặt ông ấy”.
“Điều đó sẽ là không tốt cho cậu ta” một người trong đám đông nhận xét.
Lúc này, Frank đứng dậy, đi lại nghênh ngang quanh phòng, và lên mặt trong hơi men trông rất đáng ghét. Ngay cả người bố cũng đã nhận ra sự lố bịch của cậu ta và càu nhàu;
‘Đó, Frank, lại thế rồi. Đừng có biến mình trở thành một thằng ngốc đáng thương như vậy!”
Câu nói đó đã bị Frank vặc lại một cách xấc láo, khiến cho bố cậu ta nổi đóa, và lên tiếng đuổi cậu ra khỏi phòng.
“Bố có thể đi ra nếu bố không thích những người ở đây. Còn tôi, thì rất hài lòng” Frank trả lời.
“Ra khỏi phòng này! Mày là thằng vô lại hỗn xược!”
“Tôi không thể, thưa ông bạn tử tế” Frank nói, với một vẻ trịch thượng, lạnh lùng làm cho ông bố cậu ta điên tiết, lập tức đứng dậy, và băng qua quầy bar đến chỗ cậu ta đang đứng.
“Cút ngay! Tao đã bảo!” Slade nói một cách kiên quyết.
“Rất vui lòng được trái lệnh ông”, Frank nói, giọng châm chọc “chỉ là, xin thứ lỗi, điều đó không tiện chút nào”.
Trong hơi men và trong cơn giận dữ gần như mù quáng, Slade giơ tay lên tát vào mặt con trai. Và cái tát đó đã được thực hiện nếu không có một người giữ cánh tay lại, v vngăn ông ta khỏi một cuộc xung đột trái với luân thường đạo lý. Ngay cả những người khách đã tha hoá có mặt trong phòng kh iaa cũng không thể bàng quan đứng nhìn cảnh tượng đau lòng của một cuộc xung đột đổ máu giữa cha và con, vì từ vẻ mặt của Frank khi đó, người ta có thể lập tức đoán trước được sự phản ứng của cậu ta, rằng nếu bàn tay của người cha động vào con trai ông ta, cậu ta sẽ đánh trả.
Tôi không thể ở lại để nghe tiếp những lời xỉ vả ghê tởm mà người cha và người con trai, trong cơn thịnh nộ bất lực của họ, ra sức đổ xuống đầu nhau. Đó là cảnh tượng tha hoá bản chất con người kinh khủng nhất mà tôi từng được chứng kiến. Và bởi vậy, tôi rời phòng bar, lòng vui mừng vì đã thoát khỏi được cái bầu không khí ngột ngạt và những cảnh tượng ghê tởm đó.