Dịch giả: Vũ Anh Tuấn
Đêm thứ chín
Một kết cục đáng sợ

    
ả Slade và con trai ông ta đều không có mặt tại bàn ăn trong bữa sáng vào ngày hôm sau. Về phần mình, tôi đã ăn không được ngon miệng cho lắm. Dù điều này là do trạng thái tâm lý của tôi, hay do tình trạng của bữa ăn được bày ra trước mặt, tôi vẫn không ngừng thắc mắc, và rời bầu không khí ngột ngạt, khó chịu của phòng ăn chỉ sau chốc lát đi vào cái nơi vẫn thường hấp dẫn đối với một người đang trong cơn đói đó.
Vài người khách uống đến sớm đã có mặt trong phòng bar – những người đàn ông với những bộ mặt phờ phạc, tái nhợt, họ không thể bắt đầu công việc trong ngày mà không có sự kích thích của rượu brandy hoặc whisky. Họ lê bước đi vào, gọi rượu bằng giọng khẽ khàng, lặng lẽ uống, rồi ra đi. Một cảnh trông thật thê lương.
Khoảng chín giờ người chủ quán xuất hiện. Ông ta cũng lê bước vào phòng bar, và việc làm đầu tiên của ông ta là vơ lấy một bình cổ thon đựng rượu brandy, rót ra gần nửa pint thứ chất lỏng cay nồng ấy và uống cạn. Bàn tay ông ta run rẩy – run mạnh đến nỗi làm đổ rượu ra ngoài cả trong khi rót rượu và lúc đưa ly lên miệng. Ông ta mới thảm hại làm sao! Giờ đây trông ông ta thật sự tệ hại hơn cả ngày hôm trước, khi rượu đã cung cấp một cách giả tạo sinh lực cho cơ thể, sức mạnh cho cơ bắp và vẻ linh hoạt trên khuôn mặt ông ta. Người thợ xay của mười năm về trước và người chủ quán của ngày hôm nay, ai mà có thể nhận ra được họ chính là một?
Lúc Slade đang ra khỏi quầy bar thì một người đàn ông đi vào. Tôi nhậnty một sự biến đổi ngay lập tức xuất hiện trong vẻ mặt của người chủ quán. Ông ta giật mình, vẻ hốt hoảng. Người đàn ông rút từ trong túi ông ta ra một cái gói nhỏ, chọn lấy từ đó một tờ giấy, và đưa cho Slade, người đã nhận nó với một vẻ lo âu, miễn cưỡng, mở ra và đưa mắt đọc lướt qua những dòng chữ ở trong đó. Lúc đó tôi đang quan sát Slade khá gần, và thấy vẻ mặt ông ta đỏ ửng lên. Một vài giây sau, nó lại trở nên tái nhợt – tái nhợt hơn cả trước đó.
“Được thôi, tôi sẽ đến dự” người chủ quán nói, gắng gượng tự trấn tĩnh trong lúc đọc ngốn ngấu những câu trong tờ giấy.
Người đàn ông đó, không phải ai khác, là một nhân viên đại diện của cảnh sát trường, đã nhìn ông ta một cách nghiêm nghị, đúng tác phong nghề nghiệp, rồi đi ra, với những bước đi mạnh mẽ, và thái độ trang nghiêm. Khi ông ta đã ra khỏi cửa ngoài, Slade cũng rời phòng bar.
“Sắp rắc rối rồi đây” người phục vụ quầy bar nhận xét, vừa nói với chính ông ta, vừa nói với những người có mặt, thái độ cởi mở đó của phục vụ quầy bar khiến cho tôi muốn đặt vài câu hỏi với ông ta. Nhưng tôi không cảm thấy điều này là đúng mực cho lắm.
“Cuốicùng thì cảnh sát trường đã sờ đến ông ấy” người phục vụ quầy bar nói thêm.
“Có chuyện gì thế Bill?” một người đàn ông hỏo. Ông ta vừa bước vào, với vẻ lăng xăng, quan trọng, và tựa người một cách thân mật vào quầy. “Jenkins đang lần theo ai thế?”
“Ông già đó” người phục vụ quầy bar trả lời, với giọng hài lòng hơn là lấy làm tiếc.
“Không!”
“Đó là thực tế” Bill, người phục vụ quầy bar còn mỉm cười.
“Về chuyện gì?” người đàn ông hỏi.
“Tôi không biết, và không quan tâm lắm”.
“Ông ấy sẽ phải chấp hành trát hầu toà hay sự thi hành án?”
“Tôi không thể biết được”.
“Thẩm phán Lyman đang kiện ông ấy”.
“Như thế sao?”
“Đúng vậy, và tôi đã nghe thẩm phán Lyman thề rằng, nếu có cơ hội, ông ta sẽ trả đũa ông ấy. Và ông ta là người đã nói là làm”.
“Tôi không bao giờ có thể hình dung được” người phục vụ quầy bar nói “làm thế nào mà ông ấy trở nên mang nợ thẩm phán Lyman nhiều như vậy. Tôi chưa bao giờ biết đến bất cứ vụ giao dịch mua bán nào giữa họ cả”.
“Chẳng qua là chó lại ăn thịt chó thôi, tôi đoán vậy” người đàn ông nói.
“Ý ông định nói gì vậy?” người phục vụ quầy bar hỏi.
“Ông đã nghe về kiểu chó săn đôi chưa?”
“Ồ, có nghe”.
“Kể từ khi Harvey Green phải trả giá, trò kinh doanh lừa lọc đối với những chàng trai khờ khạo của chúng ta, những người bỗng nhiên có nhiều tiền hơn là sự khôn ngoan và thận trọng, đã bị sa vào bàn tay của thẩm phán Lyman và Slade. Họ đã cùng nhau săn mồi, Slade làm chủ xới, trong khi thẩm phán giữ vai trò kẻ hút máu. Nhưng cái trò đó đã bị gián đoạn cách đây gần một năm, và cuộc săn đã đi đến chỗ, như tôi dự đoán, chó đã bắt đầu ăn thịt chó. Và cuộc chơi đã đến hồi kết, nếu tôi không nhầm. Nào, hãy pha cho tôi một ly rượu toddy mạnh. Tôi muốn uống thêm một ly rượu nữa tại quán “Lưỡi liềm và bó lúa” trước khi mọi thứ được hạ màn”.
Và người đàn ông mỉm cười vì câu nói hóm hỉnh của ông ta.
Trong ngày hôm đó, tôi biết được rằng sự việc trên đang ở trong tình trạng không khác mấy so với những gì mà người đàn ông này đã dự đóan. Lyman đã khởi kiện Slade với những tờ giấy ghi nợ, dù không ai được biết bất cứ vụ giao dịch mua bán tài sản nào giữa ông ta và Slade. Về phía Slade, cũng đã không đưa ra được lời biện hộ nào, và vụ kiện đã được tiếp tục theo quy định khi người bị kiện vắng mặt. Và cuộc viếng thăm của người sĩ quan cảnh sát vừa qua là nhằm mục đích thi hành án.
Trong khi đi quanh khắp Cedarville ngày hôm đó, tôi nhận thấy dường như toàn bộ diện mạo của nơi này đã biến đổi. Tôi đã nhiều lần tự hỏi mình xem liệu đó là sự thực hay chỉ là kếtquả của trí tưởng tượng. Sự biến đổi từ vẻ vui tươi, cần kiệm sang u ám và sao nhãng. Tôi thấy như có một sự tĩnh lặng trầm tư trong không khí, một khoảng lặng trong dòng chảy cuộc sống, một sự khoanh tay, hay những điều tương tự, vì trái tim đã bị thất vọng. Khu nhà của ông Harrison – người mà hai năm về trước đã bỗng nhiên bừng tỉnh trước sự xâu xa của việc bán rượu, vì phát hiện ra được chính những người con trai của ông đang gặp nguy hiểm – đã từng là một nơi đẹp đẽ nhất ở Cedarville, tôi đã thường dừng lại để ngắm khu vườn cây và những bông hoa quanh ngôi nhà, những lối đi dạo sạch sẽ với những luống cây xanh tươi và đều đặn ở hai bên, những chỗ ngồi chơi đẹp đẽ và hấp dẫn dưới lùm cây. Không có một nơi nào trong ngôi nhà được nhìn vào mà không thấy sự thể hiện của một bàn tay thẩm mỹ tinh tế. Giờ đây, khi đến đứng phía đối diện với ngôi nhà này, tôi đã không còn hồ nghi gì về một sự thay đổi trên thực tế. Không có dấu hiệu rõ ràng về sự sao nhãng, nhưng khu nhà đã thiếu đi những sự chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo. Những lối đi được quét dọn sạchsẽ, nhưng những luống cây hoàng dương không còn được xén tỉa cẩn thận. Những cây nho và đám cây trước kia vẫn được xén tỉa và buộc lại gọn gàng, thì nay trông như đã không được dao xén tỉa động đến từ nhiều tháng nay.
Lúc tôi dừng lại để nhận ra sự thay đổi, một người phụ nữ đã quá tuổi trung niên từ trong nhà đi ra. Tôi đã giật mình trước vẻ u ám nặng nề bao trùm khắp khuôn mặt bà ta. Chao ôi! Tôi tự nhủ trong lúc đi tiếp, chắc hẳn có biết bao nhiêu hy vọng, từng được ấp ủ trong trái tim người phụ nữ ấy, đã bị cuốn đi theo gió. Như tôi đoán, đó chính là bà Harrison, và, tôi vô tình được nghe sau đó vài giờ, rằng hai người con trai của bà đã bị sa vào nghiệ n rượu, và không chỉ vậy, đã bị lôi kéo vào nạn cờ bạc. Một người mẹ thật bất hạnh! Những đau khổ của cả một đời người đã được dồn nén lại nơi bà chỉ trong vài năm ngắn ngủi.
Tôi đi tiếp, gi nhận ở đây đó, những đổi thay, thậm chí còn rõ ràng hơn những gì được thấy ở khu nhà của ông Harrison. Ngôi nhà đẹp đẽ của Thẩm phán Lyman thể hiện sự sao nhãng hoàn toàn, và một vài ngôi nhà khác – đã quyến rũ tôi bởi cách bài trí, sự gọn gàng và cây cối được chăm sóc trong lần đến Cedarville đầu tiên – cũng vậy. Tại mỗi nơi, tôi tìm hiểu,và được biết rằng chủ nhân của những ngôi nhà này, hoặc một số thành viên trong gia đình họ, là hoặc đã từng là, những khách hàng hay lui tới quán “Lưỡi liềm và bó lúa”, và cảnh suy tàn đó, dù còn đang tiếp diễn hay đã hoàn tất, đã bắt đầu từ sau khi tụ điểm lôi cuốn trong làng được thành lập.
Một sự tò mò thiếu lành mạnh, gây ra bởi những gì tôi nhìn thấy, đã khiến tôi tiến đến khu nhà của thẩm phán Hammond để quan sát được gần hơn so với hôm trước. Điều đầu tiên mà tôi nhận thấy, khi đến gần ngôi nhà cũ đang suy tàn đó, là những tờ thông báo được dán lên cổng, lên cửa trước ngôi nhà và những cửa sổ. Nhìn gần hơn nữa, tôi đọc được nội dung của những thông báo đó: ngôi nhà đã bị tịch biên, và giờ đây đang được cảnh sát trường đứng ra rao bán.
Mười năm trước, thẩm phán Hammond được coi là người giàu có nhất ở Cedarville, và giờ đây, khu dinh cơ mà ông ta đã từng rất yêu quý và ra sức tô điểm – nơi mà tất cả những người thân yêu nhất trong cuộc đời ông ta đã từng sống ở đó – đang trở nên bị hư hại, biến dạng đổ nát, và sắp bị giật ra khỏi tay ông ta. Tôi dừng lại ở cổng, cúi người nhìn vào và cảm thấy buồn rười rượi trước cảnh hoang phế thê lương ở bên trong. Không nhìn thấy dấu hiệu nào của cuộc sống. Cánh cửa ra vào đã bị đóng lại, những cửa sổ cũng khép, không một luồng khói yếu ớt nào được thấy ở phía trên ống khói màu đen. Hãy thử hình dung về sự phồn thịnh của cuộc sống, vẻ đẹp và niềm vui mới chỉ vài năm trước còn tràn ngập trong ngôi nhà đó của họ, với người mẹ, và cậu con trai đáng quý của bà, người được trông đợi với rất nhiều hy vọng, và người cha, tự hào vì gia sản của ông ta, nhưng không phải là một người bảo vệ khôn ngoan và dáng tự hào của họ.
Chao ôi! Chính bàn tay của ông ta đã tháo then cửa và mở toang nó ra để cho con sói xông vào được nơi ở của một đàn cừu quý giá! Tôi đã thấy tất cả họ đều đang có một cuộc sống đầy tươi sáng, ngay cả khi tôi nhìn thấy họ thì bầu trời đang bắt đầu chuyển sang u ám. Tôi đã nghe được những tiếng ì ầm của một cơn bão từ xa, và cơn bão có sức tàn phá ấy đã nhanh chóng ập đến, huỷ hoại họ một cách thật kinh hoàng. Tôi rùng mình khi nhìn thấy sự hoang tàn, đổ nát còn lại ở những nơi mà cơn bão đi qua. Sự biến đổi thật là lớn!
“Và bao trùm tất cả” tôi tự nhủ “là một người đàn ông, từ bỏ một công việc mang lại nhiều lợi ích và háo hức làm giàu, để kiếm được những đồng tiền đáng nguyền rủa!”
Đẩy cánh cổng mở ra, tôi tiến vào trong sân, và đi quanh ngôi nhà, tiếng những bước chân của tôi vang lên trong bầu không khí cô liêu, tĩnh mịch của một nơi hoang vắng. Hãy lắng nghe! Có tiếng người thì phải?
Tôi dừng lại dỏng tai nghe ngóng.
Âm thanh đó lại vang lên lần nữa, nghe rất rõ, tôi nhìn xung quanh, nhìn lên phía trên, và nhìn khắp nơi, nhưng không nhận ra được dấu hiệu có người ở nào. Tôi đứng yên trong gần một phút. Đúng, lại có tiếng người – một giọng nói yếu ớt, than vãn, như của một người đang trong cơn đau đớn, khổ sở. Tôi tiến đến vài bước, và giờ thì đã phát hỉện được một trong những cánh cửa chỉ đang khép hờ. Lúc tôi đẩy cánh cửa đó mở rộng ra, tiếng than vãn lại vang lên. Lần theo hướng mà tiếng kêu phát ra, tôi đi vào một trong những căn phòng khách rộng rãi. Không khí trong phòng đó ngột ngạt, và tất cả đều tối đen chẳng khác gì đang lúc nửa đêm. Dò dẫm đi tới một chiếc cửa sổ, tôi rút được chốt cửa và đẩy mở toang cánh cửa chớp ra. Ánh sáng chiếu khắp sàn căn phòng đầy bụi bặm, không được trải thảm, và chiếu vào những đồ đạc cáu bẩn trong phòng. Trong lúc đó, tiếng than vãn mà tôi đang lần theo lai vang lên to hơn trong không khí, và lúc này tôi đã nhìn thấy nằm trên một chiếc ghế sofa cũ là thân hình của một người đàn ông. Không phải nhìn đến lần thứ hai, tôi đã nhận ra đó là thẩm phán Hammond. Tôi đặt bàn tay lên người ông ta và gọi tên, nhưng không thấy ông ta trả lời. Tôi gọi lớn hơn, và lay nhẹ ông, nhưng đáp lạ ichỉ là một tiếng than vãn đáng thương.
“Thẩm phán Hammond!” giờ thì tôi gọi to, và với một chút vẻ ra lệnh.
Nhưng điều đó cũng không có tác dụng. Ông già đáng thương vẫn không thức tỉnh khỏi trạng thái ngơ ngẩn, cả tinh thần và thể xác đều đờ đẫn.
“Ông ta đang chết dần!” tôi chợt hiểu. Và lập tức rời ngôi nhà để đi tìm vài người bạn bè để đảm nhiệm việc chăm sóc ông ta trong những giờ phút cuối. Người đầu tiên được tôi thông báo sự việc đã nhún vai, và nói rằng đấy không phải là việc của mình và rằng tôi phải tìm một ai đó có trách nhiệm chăm sóc ông ta. Lời đề nghị với người tiếp theocũng gặp phải câu trả lời tương tự, và ý kiến của tôi với người thứ ba cũng chẳng thành công hơn. Không một người nào được tôi thông báo tỏ ra thông cảm với ông già đã bị suy sụp đó. Cảm thấy bị sốc trước sự vô tâm, tgdn gặp một trong những quan chức của địa hạt, người,sau khi biết được tình trạng của thẩm phán Hammond, đã khẩn trương tiến hành đưa ông ta đến nhà tế bần ở cách đó mấy dặm.
“Nhưng sao lại đến nhà tế bần?” tôi hỏi, để tìm hiểu mục đích của ông ta. “Ông ấy vẫn còn tài sản mà?”
“Tất cả đều đã bị tịch biên để trả nợ” ông ta trả lời.
“Không còn gì sót lại sau khi những chủ nợ của ông ấy đã được hài lòng hay sao?”
“Có rất ít, nếu có, chủ nợ được hài lòng” ông ta trả lời. “Tài sản đó sẽ không đủ để trả một nửa số tiền theo phán quyết của toà án đối với ông ấy”.
“Và không có người nào đón nhận ông ấy, không có ai trong số những người đã từng vây quanh ông ấy trong những ngày thịnh vượng – dành ra được vài giờ để che chở và an ủi ông ấy trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời bất hạnh đó sao?”
“Sao ông nêu vấn đề đó ở đây?” vị quan chức của địa hạt hỏi tôi một cách ý nghĩa.
Tôi im lặng.
“Những lời thỉnh cầu thiết tha của ông về ông già đáng thương ấy đã không nhận được lời đồng cảm nào ư?”
“Không”.
“Ông ấy, quả thực, đã mất tất cả. Trong những ngày còn sung túc, ông ấy đã có nhiều người được gọi là bạn bè. Hoàn cảnh không may đã khiến tất cả họ rời bỏ ông ấy giống như những chiếc lá rụng khỏi cành cây đã hết nhựa sống vậy”.
“Nhưng vì sao vậy? điều đó quả khác thường”.
“Thẩm phán Hammond là một người ích kỷ, thực dụng. Mọi người chưa bao giờ thực sự quy mến ông ta. Những sở thích quan trọng của ông ấy, là qúan trọ của Slade và quản lý xưởng chưng cất rượu, đã khiến cho ông ấy mất đi một số những người bạn tốt nhất. Sự sa ngã và cái chết kinh khủng của con trai ông ấy – cùng căn bệnh mất trí và cái chết của người vợ - đều được mọi người coi là do lỗi của ông ta, và từ sau khi xảy ra thảm kịch kinh hoàng đó, mọi người dường như trở nên xa lánh ông ấy một cách bản năng. Hàng xóm láng giềng xa lánh ông ấy như xa lánh một kẻ tội phạm. Và đây, kết cục cuối cùng đã đến. Ông ấy sẽ được đưa đến nhà tế bần để qua đời tại đó, một người nghèo được hưởng cứu tế theo luật!”
“Và tất cả” tôi nói một phần là với chính mình “ là do một người, đã lười nhác với một nghề nghiệp lương thiện, chuyển sang nghề bán rượu vì muốn kiếm được thật nhiều tiền “.
“Đúng vậy, hoàn toàn đúng, và không còn nghi ngờ gì nữa” vị quan chức nhận xét với sự nhấn mạnh, và ông ta rời tôi để quay sang chỉ huy công việc chuỷên ông Hammond đến nhà tế bần vừa được bắt đầu.
Trong chuyến đi thơ thẩn quanh Cedarville ngày hôm đó, tôi bắt gặp một ngôi nhà tranh nhỏ, nhưng rất gọn gàng, nằm cách không xa trung tâm thị trấn. Không có thật nhiều hoa và những cây cối ở xung quanh ngôi nhà, nhưng vài cây nho, mấy bông hoa và đám cây mọcxanh tốt quanh cửa ra vào, và dọc theo những lối đi sạch sẽ, tôn thêm cái không khí đáng yêu và dễ chịu riêng của ngôi nhà.
“Ai sống trong ngôi nhà nhỏ dễ mến ấy thế?” tôi hỏi một người đàn ông, mà tôi thường gặp tại phòng bar của Slade. Ông ta tình cờ đi ngang qua ngôi nhà đúng lúc đó.
“Joe Morgan” ông ta trả lời.
“Vậy ư?” tôi hỏi, ngạc nhiên đôi chút. “Và Morgan ra sao rồi? ông ấy sống như thế nào?”
“Rất tốt”.
“Ông ấy không uống rượu nữa chứ?”
“Không. Từ sau khi đứa con gái của ông ấy bị chết, Joe Morgan không bao giờ uống một giọt rượu nào nữa. Sự việc đó làm cho ông ấy tỉnh ngộ, và ông ấy đã không còn uống rượu kể từ đó.”
“Ông ấy đang làm nghề gì?”
“Vẫn làm nghê trước đây của ông ấy”.
“Làm thợ xay?”
“Đúng. Sau khi thẩm phán Hammond bị phá sản, những thiết bị của xưởng chưng cất rượu và máy xe sợi đều đã được bán và đưa ra khỏi Cedarville. Người mua lại xưởng vốn là người có được trái tim biết kính Chúa và yêu quý con người, đã quyết tâm khôi phục lại công việc làm ăn trước đây, và chỉ sau một tiếng chiếc bánh xe cối xay đã được lắp đặt vào vị trí cũ và làm công việc xay ngô và lúa mì để làm bánh mì. Hai người đàn ông duy nhất ở Cedarville có đủ năng lực điều hành cối xay là Simon Slade và Joe Morgan. Người thứ nhất không thể được giao, và người thứ hai đã đứng ra nhận công việc đó như một lẽ đương nhiên”.
“Và ông ấy vẫn không uống rượu và vẫn làm việc chăm chỉ chứ?”
“Như bất cứ người đàn ông nào trong thị trấn này” ông ta trả lời.
Ngày hôm đó, tôi ít khi nhìn thấy Slade hoặc con trai ông ta. Nhưng cả hai người đều cómc trong phòng bar vào buổi tối, và trông cả hai đều có vẻ buồn bã. Sự cùng xuất hiện của họ trong phòng, cả hai đều đã có hơi men, dường như đã làm sống dậy cơn giận đáng buồn của buổi tối hôm trước, tươi mới tưởng chừng như một ngày vẫn chưa hề trôi qua vậy.
Trong phần đầu buổi tối đó, phòng bar có khá đông khách, với những loại người khác nhau. Một phần lớn là những người đàn ông trẻ. Hầu hết trong số họ đã được biết tin Slade đang bị cảnh sát trường sờ tới, và theo những cuộc đối thoại tình cờ mà tôi đã nghe được, thì những thói quen ăn không ngồi rồi và tiêu tiền hoang phí của Frank đã thúcđẩy thêm cuộc khủng hoảng hiện nay của cha cậu ta. Bản thân Frank cũng mang nợ thẩm phán Lyman, còn về khoản gì, thì chẳng khó khăn gì ta cũng có thể suy ra được.
Đã hơn chín giờ, và chỉ có không quá nửa tá người đang ở trong phòng bar vào lúc tôi nhận thấy Frank Slade đi vào phía sau quầy bar lần thứ ba hoặc thứ tư trong tối đó. Cậu ta đang nhấc một bình rượu brandy lên, thì người bố, đã trong trạng thái chuyếnh choáng vì rượu, xông đến và giữ bàn tay con trai ông ta lại. Lập tức, một cái nhìn dữ tợn loé lên trong ánh mắt của gã đàn ông trẻ.
“Buông tay tôi ra!” cậu ta kêu lên.
Không! Tao sẽ không buông ra. Cất ngay chai brandy đi, mày say rồi”.
“Đừng có can thiệp vào chuyện của tôi, ông già!” Frank giận dữ vặc lại. “Tôi sẽ không chịu được thêm bất cứ điều gì từ phía ông nữa đâu”.
“Maỳ đã say như một thằng hề rồi” Slade đáp, giật lấy bình rượu. “Bỏ chai này ra”.
Gã đàn ông trẻ chỉ thoáng ngập ngừng trong giây lát. Rồi đã dùng tay xô mạnh vào ngực người cha khiến ông ta bị lảo đảo mấy bước lùi ra xa khỏi mặt quầy. Trấn tĩnh trở lại, và giờ đây cơn giận dữ đã bốc lên, người chủ quán lao đến người con trai, giơ tay lên để tấn công gã.
“Tránh ra!” Frank gào lên. “Tránh ra! Nếu ông đụng đến tôi, tôi sẽ đánh gụ ông!” đồng thời gã giơ một chiếcchai đã vơi một nửa lên, vẻ đe doạ.
Nhưng người cha của gã đã quá giận dữ nên không còn lo ngại về những hậu quả có thể xảy ra, và xông về phía con trai của mình, đánh vào mặt gã.
Lập tức, gã đàn ông trẻ, điên tiết vì rượu và sự kích động, đã giáng cái chai vào trán của người cha. Vật hung khí nguy hiểm đó đậpvào thái dương của ông ta, tan vỡ thành trăm nghìn mảnh. Ông ta nặng nề đổ vật ra, cho thấy những dấu hiệu đáng sợ của cú đánh. Lúc chúng tôi xúm lại chỗ ông ta và đỡ ông dậy, thì một cái rùng mình ghê sợ lan khắp trái tim của những người có mặt. Một màu tái nhợt chết chóc đã hiện ra trên khuôn mặt mang thương tích của Slade, và từ cổ họng ông ta phát ra những tiếng ằng ặc của một người dang dãy chết! Ba phút sau cú đánh đó, linh hồn Slade đã ở trên trời cao vì vết thương trên cơ thể ông ta.
“Frank Slade! Cậu đã giết chết cha mình rồi!”
Những lời nói nghiệt ngã được thốt lên một cách lạnh lùng. Phải mất một lúc gã đàn ông mới dường như hiểu được ý nghĩa của chúng. Lúc nhận thức ra được sự thật khủng khiếp đó, gã bật ra một tiếng thét kinh hoàng. Gần như ngay lậ p tức sau đó, co ‘tiếng một phát súng lục vang lên. Nhưng ý định tự sát đó không thành. Mục tiêu đã bị làm trệch hướng, và phát đạn đã trúng vào trần nhà mà không gây được thương tích cho ai.
Nửa giờ sau đó, Frank Slade đã bị nhốt trong một nhà giam của địa phương.
Bạn đọc có cần một lời bình luận về kết cục đáng sợ này không? Chắc hẳn là không. Và chúng tôi cũng sẽ không đưa ra một lời bình luận nào như vậy.
 

Xem Tiếp: ----