Dịch giả: Vũ Anh Tuấn
Đêm thứ hai
Những biến đổi sau một năm

    
ột cái bắt tay thân mật và mấy lời chào mừng nồng nhiệt đón tôi tại quán "Lưỡi liềm và bó lúa" khi tôi bước xuống từ chiếc xe trạm trong lần thứ hai tôi đến Cedarville. Thoáng nhìn qua, tôi không thấy có sự thay đổi nào trong vẻ mặt, thái độ hay tác phong nói chung của Simon Slade, người chủ quán trọ. Dường như, đối với ông ta, một năm vừa rồi đã trôi qua giống như một ngày hè vui vẻ vậy. Khuôn mặt ông tròn, đầy đặn, hồng hào và cặp mắt ông vẫn ánh lên cái vẻ khôi hài được bắt nguồn từ sự tự mãn tràn đầy. Mọi thứ xung quanh ông ta dường như đang nói lên rằng "Tôi và thế giới đều tốt đẹp cả".
Tôi khá ngỡ ngàng trước điều này. Từ những gì tôi đã được chứng kiến trong lần lưu lại quán "Lưỡi liềm và bó lúa" ngắn ngủi trước, suy ra một cách đương nhiên, các yếu tố đó đã báo trước những điều sẽ diễn ra, mà chắc hẳn đã gây ra những sự thay đổi khác với trạng thái tâm lý vui vẻ hầu như thường trực làm rạng rỡ trên khắp cả gương mặt của người chủ quán. Đã hàng trăm lần tôi nghĩ đến Tom Morgan và Willy Hammond, đến Frank, và những cám dỗ mà quán bar bày ra trước cậu bé. Trái tim của Slade chắc hẳn đã qủa thực rắn như một trong những hòn đá cối xay cũ của ông ta, nếu ông ta vẫn có thể tiếp tục là người chứng kiến một cách thản nhiên sự sa ngã và thoái hoá của những con người này.
"Những lo ngại của mình đã đi quá xa so với thực tế" tôi tự nhủ với một cảm giác nhẹ nhõm khi một mình trầm tư trong căn phòng khách, vẫn được thu xếp gọn gàng, sau khi ông chủ quán đã ngồi chuyện trò trong ít phút rồi để tôi lại đó. "Có một sự thiện tâm – tôi sẵn sàng tin vậy – trong tính cách người đàn ông này, đã dẫn ông ta đến việc loại bỏ đi, càng xa càng tốt, những tai ương hiển hiện đã từng bám lấy một ngôi nhà làm nơi giải trí cho mọi người. Nhưng ông ta bắt đầu công việc từ năm ngoái. Có nhiều điều cần được học hỏi, suy xét và sửa đổi. Những điều được rút ra, tôi e rằng không phải, đã dẫn đến nhiều thay đổi quan trọng trong cách quản lý cơ sở này, và đặc biệt là đối với những gì liên quan đến quán bar".
Trong lúc suy tư như vậy, mắt tôi liếc qua cánh cửa hé mở, và nhìn thấy khuôn mặt của Simon Slade. Ông ta đang đứng sau quầy bar của mình – rõ ràng là không còn người nào khác trong phòng – đầu cúi xuống với dáng vẻ suy tư. Ban đầu, tôi thoáng chút nghi ngờ việc đã nhận ra những thay đổi khác thường trên vẻ mặt ông. Hai nếp nhăn hằn sâu vuông góc với nhau xuất hiện trên trán ông ta – đường cong của cặp lông mày ông ta biến mất, và từ mỗi khoé môi đang mím chặt thấy xuất hiện những nếp nhăn chạy xuống cằm. Xen lẫn với sự băn khoăn là vẻ ti tiện thấy rõ, thể hiện những ấp ủ nhằm đạt được một mục đích nào đó. Trong chốc lát, tôi ngồi nhìn khuôn mặt ông ta với một chút hoài nghi rằng liệu đó có phải thật sự là Simon Slade hay không. Bỗng nhiên một ánh sáng bừng lên trên khuôn mặt, và một lời nói được thốt a, cùng với một bàn tay đang nắm chặt được thả ra và vỗ mạnh vào lòng bàn tay kia. Người chủ quán đã suy nghĩ xong một điều gì đó, và quyết định chuỷên thành hành động. Không có những tia ấm áp trong thứ ánh sáng đã toả ra trên vẻ mặt ông ta – ít ra là đối với trái tim tôi, nơi dang cảm thấy từ chúng toát ra sự lạnh lùng gần như băng giá.
"Quả đúng là người mà tôi đang nghĩ đến" tôi nghe thấy người chủ quán nói vào lúc một người nào đó đi vào trong phòng bar, khiến cho thái độ của ông ta lập tức thay đổi.
"Người xưa nói không hề sai" một người trả lời, giọng nói tôi nghe có vẻ quen quen.
"Ông nghĩ đến ông già Harry phải không?" Slade hỏi.
"Đúng vậy!"
"Quả thực, trong trường hợp này" tôi nghe thấy người chủ quán nhận xét, dù giọng đã được hạ thấp xuống nhiều "nếu không làm ma quỷ, ta sẽ không thể tiến xa hơn được".
Một tiếng cười nhỏ, khùng khục đáp lại câu nói hóm hỉnh trên. Trong đó, có một vẻ gì đó rất khác với một tiếng cười của con người, khiến mạch máu tôi gần như ngưng lại lạnh buốt trong giây lát.
Tôi không còn nghe thấy gì nữa, ngoài những tiếng nói rì rầm trong phòng bar, vì một bàn tay đã đóng cánh cửa hé mở dẫn sang phòng khách.
Giọng nói đó là của ai vậy? tôi nhớ lại những âm sắc và cố gắng lục tìm trong trí nhớ xem nó thuộc về người nào, nhưng vẫn không thể nhớ ra. Tôi đã không phải thắc mắc quá lâu, vì những bước chân đang đi ra ngoài hiên ở phía trước quán trọ và khuôn mặt không thể quên của Harvey Green đã hiện ra. Gã đứng ở cửa phòng bar và đang nói chuyện một cách nghiêm túc với Slade, người đang quay lưng lại phía tôi. Tôi thấy rằng gã đã nhận ra tôi, mặc dù tôi đã không nói với gã một lời nào trong dịp ghé thăm lần trước, và vẻ mặt gã chợt tươi lên như sắp nói điều gì, nhưng tôi đã nhìn lảng đi nơi khác để tránh những lời chào đón không mấy dễ chịu. Khi nhìn lại vào mặt gã, tôi thấy rằng đã đang liếc nhìn tôi một cách nham hiểm rồi tránh mắt vội đi chỗ khác. Từ "kẻ cám dỗ" được hiện ra rõ ràng trên khuôn mặt gã bằng những con chữ thô tục, đen ngòm! Làm sao mà ai đó có thể nhìn vào mà không đọc được lời cảnh báo ở trên đó.
Ngay sau đó, gã đi vào phòng bar, còn người chủ quán đi đến và ngồi xuống gần chỗ tôi ngoài hiên nhà.
"Quán Lưỡi liềm và bó lúa giờ ra sao?" tôi hỏi.
"Tốt lắm!" đó là câu trả lời "Tốt lắm".
"Tốt như ông mong đợi chứ?"
"Tốt hơn".
"Ông hài lòng với cuộc thử nghiệm của mình chứ?"
"Một cách hoàn hảo. Tôi không thể trở lại với chiếc cối xay ầm ĩ được nữa, nếu ngài có đem lại cho tôi điều đó".
"Còn cối xay thì sao?" tôi hỏi. "Người chủ mới làm ăn như thế nào?"
"Cũng giống như tôi đã từng nghĩ".
"Không được tốt lắm à?"
"Làm sao có thể mong đợi điều đó khi mà ông ta đã không hiểu biết đầy đủ về việc quản lý cối xay để xay được một giạ lúa cho đúng cách. Ông ấy đã mất đi một nửa số khách hàng mà tôi chuyển giao cho trong vòng chưa đầy ba tháng. Sau đó, ông ta phá bỏ ống thông hơi chính, rồi mất hơn ba tuần lễ để dựng lên một cái mới. Một nửa khách hàng còn lại khi đó phát hiện ra rằng họ có thể có được những bữa ăn ngon hơn nhiều từ ngũ cốc của mình tại cối xay của Harwood, ở gần Lynwood, và không còn phiền đến ông ta nữa. Kết cục của toàn bộ câu chuyện là ông ta phá bỏ cả ống thông hơi mới, và phải bán cối xay đi với một khoản thua lỗ lớn".
"Ai đang sở hữu nó hiện nay?"
"Thẩm phán Hammond là người mua lại".
"Ông ấy sẽ cho thuê nó, tôi cho là như vậy?"
"Không, tôi tin là ông ấy dự tính sẽ chuỷên nó thành một nhà máy, và tôi nghĩ mình sẽ được kết giao với một xưởng chưng cất rượu. Đây là một đất nước trồng ra nhiều lương thực tốt, như ông biết đấy. Nếu ông ta dựng lên một xưởng chưng cất rượu, ông ấy sẽ làm ra từ đó một thứ thật quý. Lương thực còn rất ít được sử dụng vào việc này trong một số năm, mọi người nông dân đều nhận thấy điều này, và họ rất vui mừng về ý định đó. Nó sẽ giúp họ được rất nhiều. Tôi đã nghĩ rằng cối xay của tôi là một thứ rất quan trọng đối với người nông dân, nhưng những gì tôi đã làm cho họ chỉ là một thứ tầm thường so với những lợi thế của mgt xưởng chưng cất rượu lớn".
"Thẩm phán Hammond là một trong những người đàn ông giàu nhất ở đây à?"
"Vâng, giàu nhất vùng, và hơn nữa, ông ấy là người đàn ông sắc sảo nhìn xa trông rộng, và biết cần làm gì để nhân lên sự giàu có của mình".
"Willy, con trai ông ta ra sao rồi?"
"Ồ! Tốt lắm!"
Cặp mắt người chủ quán hạ thấp xuống dưới cái nhìn dò hỏi mà tôi hướng vào ông ta.
"Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?"
"Mới hai mươi".
"Một độ tuổi có tính then chốt" tôi nhận xét.
"Mọi người hay nói vậy, nhưng tôi không thấy thế" Slade trả lời, có chút dè dặt.
"Ham mê bên trong và những cám dỗ bên ngoài đó là thước đo những mối nguy của tuổi này. Ở tuổi cậu ấy, ông đã – không nghi ngờ gì nữa – hàng ngày phải làm việc vất vả rồi".
"Tôi đã như vậy, và không có gì sai lầm".
"Hàng nghìn và hàng trăm nghìn người gắn mình với những công việc hữu ích trong nhiều giờ mỗi ngày, và rời chúng cùng với sự mệt nhọc vào buổi tối để đi qua bình an tuổi thanh niên nông nổi để trở nên vững vàng, có nhân cách biết đề kháng. Có thể ông sẽ không phải như bây giờ nếu như ông được nhàn rỗi và tự do muốn đi đâu thì đi khi ông ở tuổi mười chín".
"Tôi không thể nói như vậy" người chủ quán nói và nhún vai. "Nhưng tôi không nhận thấy rằng Willy Hammond đang gặp phải mối nguy hiểm đặc biệt nào. Cậu ta là một thanh niên với nhiều phẩm chất đáng ngưỡng mộ, đó là sự chan hoà, thoải mái, hào phóng gần như quá mức, nhưng lại có ý thức vì mọi người, và đủ thông minh – tôi cho là như vậy – để tránh được những sai lầm".
Vào lúc đó, một người đàn ông ghé vào, tạo ra cơ hội để Simon Slade chấm dứt cuộc trò chuyện – mà tôi có thể thấy – không có được sự nhất trí chung. Khi ông ta đã đi, tôi đứng dậy và đi vào phòng bar. Frank, con trai người chủ quán, đang ở sau quầy bar. Cậu ta đã lớn lên trông thấy sau một năm, từ một cậu bé trông mảnh khảnh, ngây thơ, trở thành một chàng trai to khoẻ, bạo dạn. Gương mặt cậu ta trở nên đầy đặn hơn và đã mang một vẻ thô thiển đầy ham mê được thể hiện rõ nhất chung quanh miệng. Green đang đứng cạnh quầy bar nói chuyện với cậu ta, và tôi nhận thấy rằng Frank cười ngặt nghẽo vì một câu nhận xét, được nói nhỏ, có phần thô tục mà gã đưa ra. ở giữa họ, Flora, chị gái của Frank, một cô gái thực sự xinh đẹp, đi vào phòng bar để lấy một thứ gì đó. Green nói với cô vẻ suồng sã, và Flora trả lời gã với một sắc mặt ửng lên có thể thấy rõ.
Tôi liếc nhìn về phía Frank với một chút trông đợi sẽ thấy mặt cậu ta đỏ lên vì phẫn nộ. Nhưng không, cậu ta đứng nhìn với một nụ cười! "À" tôi tự nhủ "những cảm xúc trong sáng của cậu bé đã bị mất đi sớm như sao trong cái không khí tai hại này? Cậu ta có thể chịu đứng nhìn cặp mắt xấu xa đó – cậu ta biết là chúng xấu xa – nhìn chằm chặp vào mặt chị gái mình hay sao? Hoặc nghe từ cặp môi đó – mà chỉ trước đó giây lát đã phát ra những lời đê tiện – tán tỉnh cô với vẻ suồng sã của một người bạn?"
"Một cô gái đẹp, chị cậu đó, Frank! Quả là một cô gái đẹp!" Green nói, sau khi Flora đã đi ra – những câu nói về cô gái được thể hiện qua giọng gã nghe như gã đang khen một con chó hay trong một cuộc đua chó vậy.
Cậu bé mỉm cười vẻ hài lòng.
"Tôi phải cố gắng tìm cho cô ấy một người chồng tốt, Frank. Tôi băn khoăn rằng liệu cô ấy có lấy tôi không?"
"Tốt hơn là ngài hãy hỏi chị ấy" cậu ta nói, và cười to.
"Tôi sẽ làm như thế nếu thấy có bất cứ cơ hội nào dành cho tôi".
"Không gì bằng hãy thử xem. Một trái tim yếu đuối không bao giờ chinh phục được người đẹp" Frank trả lời, với thái độ của một người đàn ông hơn là một cậu bé. Cậu ta mới già dặn đi nhanh làm sao!
"Một câu pha trò rất hay!" Green kêu lên, vỗ tay vào nhau. "Cậu là một chàng trai tuyệt vời, Frank ạ! Một chàng trai tuyệt vời! Tôi sẽ phải kể với cha cậu về cậu mới được. Hãy tiến lên nhanh nào! Cậu phải đem áp dụng bài học của mình đi, hê!"
Và Green nháy mắt với cậu bé, rồi chọc ngón tay vào cậu. Frank cười to một cách vui vẻ, vừa trả lời: "Tôi cho rằng tôi sẽ làm thế".
"Tôi nghĩ cậu sẽ như vậy" Green nói và hài lòng với cuộc trò chuyện, gã quay đi và ra khỏi phòng bar.
"Uống gì không, thưa ngài?" Frank hỏi tôi một cách tự nhiên, bạo dạn.
Tôi lắc đầu.
"Có một tờ báo đây này" cậu ta nói thêm.
Tôi cầm tờ báo và ngồi xuống – không phải để đọc mà để quan sát. Hai hoặc ba người đàn ông vừa đến, và chuyện trò vẻ rất quen thuộc với Frank, người lúc này đang bận rộn mang rượu được yêu cầu ra cho họ. Cuộc đối thoại của họ - được xen vào bằng nhiều từ thô tục và khiếm nhã – là chủ đề về những con ngựa, đua ngựa, đi săn, và người phục vụ quầy bar trẻ tuổi vừa lắng nghe vừa thỉnh thoảng chêm vào một câu, cho thấy một sự am hiểu về những vấn đề đó vượt khá xa so với tuổi cậu ta. Giữa lúc đó, Slade xuất hiện. Sự hiện diện của ông ta đã gây ra một sự thay đổi rõ rệt ở Frank, cậu đã rời những người đàn ông – chỉ cách quầy bar một hoặc hai bước chân – để trở về chỗ, và không tham gia vào câu chuyện trong khi cha cậu ta ở đó. Rõ ràng là ông Slade đã không biết được về những khôn ngoan trước tuổi đáng lo ngại của Frank, nhưng đã nhận ra và khiển trách cậu ta về sự quá tự do.
Đến lúc đó, tất cả những gì tôi nhìn và nghe thấy đã gây cho tôi những ấn tượng chẳng dễ chịu gì, mặc dù Simon Slade đã tuyên bố rằng mọi việc ở quán "Lưỡi liềm và bó lúa" đều đang diễn ra "tốt lắm", và rằng ông ta đã "hài lòng mỹ mãn" với cuộc thử nghiệm của mình. Vì sao, ngay cả khi cho dù người đàn ông này có kiếm được năm mươi nghìn dollar một năm từ việc làm chủ quán trọ, ông ta đã mất đi một thứ quý gía hơn cả, là sự trong sáng của người con trai ông. "Hài lòng mỹ mãn ư? Không thể! Ông ta không hài lòng mỹ mãn. Làm sao ông ta có thể hài lòng được? cái nhìn của ông ta hướng về Frank lúc đi vào phòng bar, và thấy cậu vui vẻ, sốt sắng khi gặp những tửu khách thô bỉ, vô công rồi nghề, đã phủ nhận lời khẳng định đó.
Sau bữa đêm, tôi vào ngồi trong phòng bar để tìm hiểu xem cuộc sống đã biến đổi ra sao ở nơi tụ tập của những cư dân tiêu biểu ở Cedarville này. Sự quan tâm đối với những nhân vật mà tôi đã gặp gỡ một năm trước vẫn còn đủ lớn để tôi lựa chọn dành thời gian để làm việc này, thay vì đến thăm nhà của một người đàn ông lịch thiệp đã có nhã ý mời tôi đến chơi buổi tối với gia đình ông ta.
Số lượng khách hàng của phòng bar – tôi nhận ra ngay – đã tăng lên nhiều sau một năm. Phòng bar giờ đã đòi hỏi, vào những lúc đông khách, sự phục vụ của cả người chủ quán và con trai ông ta để đáp ứng kịp những suất rượu mà khách yêu cầu. Điều khiến tôi bận tâm nhất là đã thấy nhiều thanh niên và những người đàn o otrẻ đến uống tại quán, và hiếm thấy ai trong số họ trên khuôn mặt không thể hiện những dấu hiệu ham mê hưởng lạc, hoặc lời nói không bị pha tạp bởi những câu tục tĩu, thô bỉ, hoặc tiếng lóng khiếm nhã. Những đề tài được nói đến bao gồm đủ thứ, mặc dù chính trị là sôi nổi nhất. Về chính trị, tôi không nghe thấy điều gì có tính chất cung cấp thông tin, mà chỉ toàn những lời lăng mạ cá nhân và sự võ đoán truyền miệng. Họ tất thảy đều đưa ra những lời quả quyết một cách quá tuỳ hứng, nhưng tôi nghe mà không hề thấy có sự giải thích, hay thậm chí cả những sự kiện nào có luận cứ. Còn ông ta với tác phong trịnh trọg và rất mực chăm chỉ, thực hiện những công việc hàng ngày trong những cuộc tranh luận tầm thường đó.
Tôi nhận thấy, vào đầu buổi tối, và vào lúc mọi người trong phòng đang ở trong trạng thái vui vẻ nhất, có một ông già đi vào, người mà tôi nhận ra ngay trên khuôn mặt mang một tâm trạng ưu tư. Đó là một người đàn ông trong số những người thuộc loại hoà nhã, khuôn mặt gây ấn tượng nổi bật, khiến ta phải chú ý ngay từ cái nhìn ban đầu. Vầng trán rộng, cặp mắt to và có chiều sâu, cặp môi dày nhưng vững chắc. Ta thấy được những biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ nhưng điềm tĩnh. Khi ông ta bước vào, tôi nhận thấy mọi người đưa mắt nhìn nhau như dò hỏi, và sau đó hai hoặc ba cặp mắt quay sang nhìn vào một người đàn ông trẻ, người ngồi cách tôi không xa, anh ta quay lưng về phía cửa ra vào và đang chơi bài domino. Anh chàng có một ly rượu để bên cạnh. Ông già đưa mắt nhìn quanh phòng trong chốc lát, rồi cái nhìn của ông dừng lại nơi người đàn ông trẻ mà tôi vừa nói tới. Cặp mắt tôi giờ đây đã nhìn thấy được toàn bộ khuôn mặt của ông già, mà trước đó chưa thấy được hết, vì ông đang tiến về phía anh chàng nọ. Trên khuôn mặt đó không có một dấu hiệu nào của một cơn giận, mà chỉ thể hiện một nỗi buồn đến nao lòng.
"Edward!" ông nói khi nhẹ nhàng đặt tay lên vai người đàn ông trẻ. Anh ta giật mình khi nghe thấy giọng nói và đỏ bừng mặt lên. Anh chàng ngồi bối rối mất một lúc.
"Edward, con!" phải là một trái tim lạnh lùng, cứng rắn lắm mới không mềm đi dưới sự âu yếm mềm mại của những lời nói đó. Tiếng gọi không thể cưỡng lại được và cần phải nghe theo. Sức mạnh của thói xấu đã không đủ nắm được trái tim của anh chàng để giữ anh ta lại nữa. Đứng dậy với vẻ miễn cưỡng đôi chút và với sự xấu hổ không thể giấu được, anh chàng rút lui một cách lặng lẽ. Chỉ có vài người có mặt trong phòng bar để ý thấy được diễn biến đó.
"Tôi có thể nói với ngài rằng" tôi nghe thấy người vừa chơi cờ domino với người đàn ông trẻ - chưa đầy hai mươi tuổi – nhận xét "nếu ông già tôi mà làm tôi bẽ mặt như thế này – lén lút theo dõi tôi ở phòng bar – ông ta sẽ chỉ gặp rắc rối vì điều đó. Như vậy thật là hay, tôi cho là thế. Tôi sẽ không đi theo ông ta giống như một con cừu ngoan ngoãn! Hô! Hô!"
"Quý ông vừa đi vào đó là ai vậy?" tôi hỏi người đã bình phẩm về diễn biến mới xảy ra.
"Hargrove là tên ông ấy".
"Và đó là con trai ông ấy phải không?"
"Đúng, và tôi chỉ tiếc là anh ta hơi thiếu bản lĩnh".
"Anh ta bao nhiêu tuổi?"
"Chừng hai mươi".
"Chưa đủ tuổi, theo luật pháp, đúng không nào?"
"Anh ta đủ già dặn để biết phải làm gì".
"Luật pháp thì lại nói khác" tôi nói.
Để trả lời, gã đàn ông trẻ nguyền rủa pháp luật, bật ngón tay vào một khuôn mặt tưởng tượng ra, như anh ta đang làm như vậy.
"Ít nhất cậu phải thừa nhận rằng" tôi nói "Edward Hargrove đang được sử dụng quyền tự do đi lại và làm những việc theo ý mình, nhưng quyền đó vẫn hạn chế".
"Tôi không thừa nhận như vậy. Điều gì có hại, tôi muốn biết, trong một trò chơi nhỏ như chúng tôi vừa mới chơi? Không phải là trò cá cược – chúng tôi đâu có đánh bạc".
Tôi chỉ vào ly rượu còn một nửa mà anh chàng Hargrove để lại.
"Ô! Hô!" một tiếng cười nửa giễu cợt của một người đàn ông tuổi chừng gấp đôi người nói chuyện với tôi, ông ta ngồi ngay gần và đang nghe cuộc đối thoại của chúng tôi. Tôi nhìn ông ta một lát, rồi nói:
"Mối nguy lớn nằm ở đó, không nghi ngờ gì nữa. Đó đâu chỉ là một ly rượu và một ván cờ domino, mà sẽ không dừng lại ở đó, và cha của người thanh niên biết rõ như vậy".
"Chắc ông ta biết rõ" người đàn ông trả lời. "Tôi nhớ những ngày ông ấy còn trẻ, và là một anh chàng đẹp trai. Ông ấy đã không dừng lại ở một ly rượu và một ván domino, ông ta không như vậy! Tôi đã chứng kiến ông ta say bí tỉ nhiều lần, và nhiều lần tham gia cá cược đua ngựa hoặc chọi gà với những kẻ táo tợn nhất. Khi ấy, tôi chỉ là một cậu bé, dù sao cũng là một cậu bé khá lớn, nên tôi có thể nói với ngài rằng Hargrove không phải là một vị thánh".
"Tôi nghĩ rằng ông ấy không phải là đã quá lo âu cho con trai mình" tôi nhận xét. "Ông ấy biết rõ những mối nguy rình rập trên con đường mà cậu đang có xu hướng bước vào".
"Tôi không thấy rằng chúng gây hại nhiều cho ông ta. Ông ấy cũng chấm dứt cái tuổi thơ chơi bời, rồi cưới vợ và ổn định lại cuộc sống, trở thành một công dân tốt, tích cực. Có một chút gì dó quá ngoan đạo và đạo đức giả, tôi thường nghĩ, nhưng những cư xử của ông ta luôn ngay thẳng. Ông ấy đã tận hưởng thú vui khi còn trẻ, những điều thường phù hợp với tuổi thanh xuân – vậy tại sao không để cho con trai ông ta nếm thử cũng chính những sự thoải mái ấy? ông ta đã sai rồi, thưa ngài – sai rồi! Và tôi đã nói với Ned nhiều lần. Tôi chỉ mong cậu bé ấy đã thể hiện sự phản kháng và buổi tối nay, và nói với ông già đó hãy về nhà với công việc của ông ta".
"Tôi cũng vậy" anh chàng môn đồ trẻ của cái trường học tồi tệ này phụ hoạ theo. "Đó là những gì tôi sẽ nói với ông già tôi, nhanh gấp đôi, nếu ông ấy đi tìm tôi".
"Ông ấy đã hiểu biết hơn khi làm điều đó" người kia nói, với thái độ khiến tôi càng bị yếu thế trước tính cách của người thanh niên.
"Thực ra thì ông ấy đã như vậy. Ông ta đã thử ra tay với tôi một hoặc hai lần vào năm ngoái, nhưng nhận thấy điều đó không có tác dụng gì, Tom Peters đã bỏ cái ô che của ông ấy đi rồi".
"Và có thể uống ly rượu của cậu ấy với bất cứ ai, và không có một chút tổn hại nào vì điều đó".
"Chính xác, ông bạn già!" Peters nói, vỗ tay vào đầu gối người dẫn dắt anh ta. "Chính xác! Tôi đâu phải một trong những người bạn nhụt chí của ông. Ồ không!"
"Hãy nhìn đây, Joe Morgan!" – giọng nói vẻ tức giận của Simon Slade giờ vang lên khắp phòng bar "Hãy đi về nhà đi!"
Tôi đã không nhìn thấy con người này đi vào phòng. Ông ta đang đứng ở quầy bar với một ly rượu đã uống cạn trong tay. Thời gian một năm qua đã không cải thiện được diện mạo bên ngoài của ông ta. Ngược lại, trang phục của ông ta cũ kỹ và tả tơi hơn, vẻ mặt ông ta thảm hại hơn. Ông này đã nói điều gì khiến người chủ quán tức giận tôi không biết, nhưng khuôn mặt Slade đang hiện rõ cơn giận dữ, và cặp mắt ông ta trừng trừng nhìn con người tội nghiệp đó vẻ hăm doạ, Joe Morgan không tỏ vẻ gì cho thấy là sẽ nghe lời.
"Ông biến đi, tôi yêu cầu! Và đừng bao giờ vác mặt đến đây lần nữa. Tôi sẽ không để những kẻ lang thang như ông đến nhà tôi. Nếu ông ở gthể giữ được sự tử tế, đừng xâm phạm nơi đây nữa".
"Một người bán rượu nói về sự tử tế!" Morgan vặn lai. "Hừ! Ông đã từng là một người tử tế, và một người thợ xay tốt. Nhưng thời gian đó đã thành quá khứ rồi.sự tử tế đã chết khi ông đánh đổi cái cuốc chim và cái búa sang chiếc ly và sự lộn xộn. Sự tử tế! Hừ! Ông đã nói hay làm sao! Cứ như là bán rượu thì tử tế hơn là uống nó vậy!"
Có quá nhiều sự khinh miệt cay đắng trong giọng nói cũng như lời lẽ của người đàn ông đang gần say này, mà Slade, người cũng đã uống khá nhiều, so với bình thường, đã nổi cơn khùng không còn kiềm chế được. Vớ một chiếc ly không có rượu từ trên quầy bar, ông ta ném mạnh nó với toàn bộ sức lực vào đầu của Joe Morgan. Vật bị ném trượt qua thái dương của ông ta và lao đi đầy nguy hiểm. Lập tức, tiếng khóc xé lòng cô một đứa trẻ vang lên khiến mọi người giật mình, sau đó là những tiếng la hét kêu cứu và sợ hãi của nhiều giọng nói vang lên.
"Đó là đứa con của Joe Morgan!" "Ông ta đã giết chết cô bé!" "Lạy Chúa!" những tiếng nói ồn ào lan đi khắp phòng. Tôi là người đầu tiên đến được nơi có một cô bé vừa mới bước qua ngưỡng cửa đã bị chiếc ly lao vào trán, gây ra một vết thương sâu và làm cô bé bị bất tỉnh. Máu trào ra từ vết thương và lan khắp mặt em, một cảnh tượng thật gây sốc. Khi tôi nâng cô bé khỏi sàn nhà nơi em ngã xuống, Morgan, người đã nghe thấy tiếng khóc xé lòng của con gái ông ta cũng đến nơi, đứng cạnh tôi và vòng cánh tay quanh cơ thể bất tỉnh của cô bé, bật ra những tiếng khóc và lời than vãn xúc động đến tận đáy lòng.
"Chuyện gì vậy? Ôi, chuyện gì vậy?" có tiếng một người phụ nữ, nói với vẻ sợ hãi.
"Chẳng có chuyện gì cả! Tránh ra, Ann!" tôi nghe tiếng người chủ quán nói.
Nhưng vợ ông ta, - vì đó là bà Slade, đã nghe được tiếng thét đau đớn và sợ hãi của đứa con Morgan, đã chạy vào phòng bar – không để ý đến lời Slade, đã rẽ đám đông đến cùng những người đứng xung quanh cô bé đang chảy máu.
"Chạy đi tìm bác sĩ, Green, Frank!" bà gào lên, giọng khẩn thiết khi tận mắt nhìn thấy khuôn mặt bé nhỏ đầy máu.
Frank từ sau quầy bar đi ra để làm theo lời mẹ, nhưng bố cậu ta đã đưa ra một mệnh lệnh ngược lại, và anh chàng vẫn đứng nguyên tại chỗ. Nhận thấy điều đó, mẹ cậu nhắc lại yêu cầu, với sự nhấn mạnh hơn.
"Tại sao cậu không lao đi, hả chú nhóc?" Harvey Green kêu lên. "Đứa bé có thể bị chết trước khi bác sĩ đến đây".
Frank không còn lưỡng lự nữa, lập tức chạy biến khi qua khung cửa.
"Tội nghiệp! Tội nghiệp đứa trẻ!" bà Slade thổn thức khi đỡ thân thể bất động của cô bé từ tay tôi. "Chuyện xảy ra thế nào? ai đã làm đau cô bé?"
"Ai ư? Nguyền rủa hắn! Còn ai ngoài Simon Slade?" Joe Morgan trả lời qua hàm răng nghiến chặt.
Cái nhìn đau đớn xen lẫn với sự lên án cay đắng từ người vợ - mà ai đã chứng kiến vào tối đó khó có thể quên được – lập tức được hướng vào người chủ quán.
"Ôi Simon! Simon! Và điều đó đã xảy ra như vậy sao?" biết bao đau xót trong ký ức và dự cảm về những điềm xấu sẽ đến đã được thể hiện trong câu nói ngắn ngủi đó. "Đã xảy ra như vậy đấy!" và thái độ của bà trở nên lắng xuống với những bước chân gấp gáp cùng những công việc khẩn trương.
"Mang cho tôi một chậu nước và một chiếc khăn, nhanh lên!" lúc này bà quát lên.
Nước đã được mang đến, và trong chốc lát khuôn mặt nhỏ nhắn của đứa trẻ đã trở lại tinh khiết và trắng trẻo như tuyết dựa vào ngực bà, vết thương mà từ đó máu đã tuôn ra được lộ rõ, nằm ở phía trên vầng trán, chếch về một bên và kéo dài chừng một gang tay lên phía trên đỉnh đầu.
Ngay khi những vết máu được lau sạch, và máu chảy đã được cầm lại một phần, bà Slade đưa cô bé vẫn còn bất tỉnh sang phòng bên, nơi mà người cha đau đớn, và giờ đã hoàn toàn tỉnh táo, sẽ ở bên cô bé. Tôi đi theo họ, còn Slade vẫn ở lại phía sau.
Bác sĩ đã đến nơi. Liêu sau đó, sự sống đã trở lại với cơ thể bất động của cô bé. Ông ta tình cờ có mặt ở nhà và lập tức đến ngay. Lúc ông bác sĩ vừa xong mũi khâu cuối cùng ở vết thương và đang dán những miếng băng dính lên trên, thì sự xuất hiện vội vã của một người nào đó khiến tôi phải ngước lên nhìn. Đập vào mặt tôi là một người phụ nữ đứng ở cửa với khuôn mặt lo lắng xen lẫn sợ hãi của người mẹ. Vẻ mặt bà tái xám như tro, cặp mắt bà căng thẳng hoang dại, cặp môi đang hé mở trong khi những lời nói hổn hển được thều thào phát ra từ đó.
"Joe! Joe! Cái gì thế này? Mary đâu rồi? nó bị chết rồi sao?" Bà hỏi dồn dập.
"Không, Fanny" Joe Morgan trả lời, giật mình đứng dậy từ chỗ ông ta đang quỳ bên cạnh cô bé vừa hồi tỉnh và nhanh chóng đi tới chỗ vợ. "Con giờ đã đỡ rồi. Đó là một vết thương nặng, nhưng bác sĩ nói không có gì nguy hiểm. Ôi, tội nghiệp con tôi!"
Khuôn mặt nhợt nhạt của người mẹ càng trở nên tái nhợt hơn, bà thở hổn hển hai, ba hơi, một cơn rùng mình nhẹ lan khắp cơ thể bà và sau đó bà ngã vào cánh tay chồng, trắng bệch và không còn sinh khí. Khi bác sĩ tiến hành hồi sức cho bà, tôi có dịp để nhìn rõ hơn diện mạo của bà Morgan. Người bà rất nhỏ nhắn, và khuôn mặt bà thật mong manh, tựa như một cái bóng vậy. Mái tóc bà – có màu nâu như hạt dẻ, với chút màu vàng ánh lên lộng lẫy – xõa tung và đang nằm đẹp rực rỡ phủ kín cổ và ngực người phụ nữ. Tóc nơi thái dương bà đã được bàn tay Morgan vuốt gọn ra phía sau. Những động tác vuốt ve âu yếm quanh lông mày và thái dương bà mà tôi vô tình nhìn thấy cho biết những cảm xúc yêu thương – khác hẳn với sự bệ rạc của ông ta mà Morgan dành cho người vợ trẻ, và cũng là người đang phải chịu đựng những tháng ngày khôn khổ vì ông ta. Chiếc váy của bà Morgan tuy giản dị và cũ, nhưng sạch sẽ và vừa vặn. Toàn bộ con người bà toát lên vẻ gọn gàng và tinh tế. Người phụ nữ này giờ đây không thể nói là xinh đẹp bởi hoàn cảnh và những đau khổ, bất hạnh mà bà phải chịu đựng, nhưng nhiều nét đẹp vẫn còn nguyên, và có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng trái tim đang đập trong ngực của người phụ nữ trong sáng và trung hậu này. Sự sống đã dần trở lại với trái tim ngừng đập, và phải mất thêm gần nửa giờ trước khi các mạch máu trở lại hoạt động bình thường.
Sau đó, hai vợ chồng Morgan, cùng đứa trẻ được ôm trong cánh tay người bố, buồn bã đi về nhà, để lại hơn một trái tim trĩu nặng về cuộc viếng thăm của họ.
Nhân cơ hội này, tôi đã được quan sát vợ người chủ quán nhiều hơn trước. Cách cư xử sốt sắng và đầy tình người của bà đã gây cho tôi những ấn tượng tốt đẹp. Điều đó thật rõ ràng trong việc bà kêu lên sửng sốt khi biết rằng chính bàn tay chồng bà đã gây ra cú đòn suýt nữa đã làm chết đứa bé, bà chưa bao giờ thực sự tin tưởng rằng việc duy trì một qúan trọ sẽ mang đến những điều tốt đẹp. Tôi đã suy ra được nhiều điều. Khuôn mặt của bà, như tôi đã nhìn thấy qua vài lần, mang một nỗi âu lo, và tôi không thể quên được vẻ mặt cũng như giọng nói lo lắng, nhắc nhở khi bà nhìn thấy Frank đang nhấp chỗ rượu còn sót lại trong ly ở phòng bar.
Hiếm khi, tôi tin vậy, những người vợ chấp thuận một cách thoải mái với việc mở quán trọ của chồng mình, và quyết định của người chồng thường gây ra những mối xung khắc mà sau đó không bao giờ xoa dịu được hoàn toàn. Những người đàn ông thường nhìn vào lợi nhuận trước mắt, còn phụ nữ thì nhìn thấy những hệ quả về đạo đức. Tôi cho rằng, trong mười người bán rượu, không có đến một người có được sự thống nhất với vợ ông ta để nói rằng điều đó là không ảnh hưởng gì. Và, trong những trường hợp ngoại lệ, bà vợ cũng là người hám lợi hoặc không quan tâm đến lợi ích của cộng đồng giống như chồng bà ta. Tôi biết một số phụ nữ đã lập ra những quán rượu, nhưng họ là những người phụ nữ có tư cách kém và không có tấm lòng. Tôi biết trường hợp một người phụ nữ, có chồng là người không uống rượu và đi lễ nhà thờ, đã mở một quán rượu. Người chồng đã phản đối, can ngăn, van nài, đến doạ dẫm, nhưng tất cả đều không hiệu quả gì. Người vợ, với công việc làm cho cửa hàng quần áo, đã kiếm được và để dành ra khoảng ba trăm dollar. Ham muốn kiếm tiền, trong quá trình tích luỹ chậm chạp đó, đã thức dậy, và, trong khi phục vụ cho nhu cầu của những người đàn ông nghiện rượu và bỏ bê gia đình, bà ta đã tìm ra được một cách làm giàu nhanh hơn như đã mong muốn. Và quán rượu đã được khai trương. Còn kết quả như thế nào? người chồng đã bỏ đi lễ nhà thờ. Ông ta không còn để tâm vào việc đó, thậm chí cả vào ngày lễ Sabbath, sự quan tâm đối với gia đình mai một đi. Sau đó ông ta bắt đầu uống rượu. Chẳng bao lâu, lạy Chúa! Thứ đồ uống tai hại đó đã dần chế ngự cơ thể ông ta và gây ra những cơn nghiện, và sau đó ông này nhanh chóng suy sụp. Trong vòng chưa đầy ba năm, tôi nhớ vậy, từ khi quán rượu được vợ ông mở ra, ông ta đã phải xuống mồ. Một hay hai năm sau, cùng với huyệt chôn của một số người khác được mở ra với sự góp tay của người vợ, chính bà ta cũng bị xuống đó. Sau một thời gian hít thở quen bầu không khí bị đầu độc đầy hơi rượu hấp dẫn, sự ham muốn nếm thử nó cũng dần dần xuất hiện, và đến lượt bà ta cũng trở thành nô lệ của con quỷ Rượu. Cuối cùng, bà ta trở thành người ăn xin và bị chết giữa phố trong sự nghèo túng. Chao ôi! Cái nghề bán rượu này quả là một con đường dẫn đến sự huỷ hoại và những người mở ra cánh cổng, cũng như những người đi vào con đường đó, đều có thể bị huỷ diệt. Nhưng tôi lại lan man rồi.
Sau khi Joe Morgan và vợ ông ta rời quán "Lưỡi liềm và bó lúa" cùng với đứa trẻ dễ thương đó – người mà, sau này tôi mới biết, trong suốt khoảng hơn một năm qua đã không chịu để cho cái đầu nhỏ bé của mình được ngủ cho đến khi bố em về đến nhà, và là người, nếu ông ta đi vắng quá một giờ, thường đi tìm và dẫn ông ta trở về, quả là thiên thần của tình yêu và lòng kiên nhẫn – tôi quay lại phòng bar để xem tình hình ở đó ra sao. Không có ai trong số những người còn lại trong phòng còn ở đó. Sự việc xảy ra thật thương tâm, khiến cho sự vui vẻ không còn được tiếp tục tại đó trong buổi tối, và thế là từng người một đã rút lui. Trong cái vương quốc của mình, người chủ quán đang ngồi lẻ loi, đầu ông ta tì vào bàn tay và khuôn mặt ông ta nằm trong bóng tối. Mọi điều cho thấy rằng người đàn ông này đang tự cảm thấy nhục nhã. Thấy tôi đi vào, ông ta ngẩng đầu lên và quay mặt về phía tôi. Khuôn mặt thể hiện sự đau xót.
"Thật là không may" ông nói "tôi giận chính mình và có lỗi với đứa trẻ đáng thương. Nhưng cô bé đâu có phận sự gì ở đây. Còn Joe Morgan, chỉ có thánh mới chịu được cái lưỡi của ông ta khi đã mang hơi rượu. Tôi cầu mong ông ta sẽ tránh xa ngôi nhà này. Không ai muốn đánh bạn với ông ta. Ôi, trời ơi!"
Những lời thốt lên, hay đúng hơn, rên lên, kết thúc câu nói cho thấy Slade còn chưa hài lòng với bản thân, mặc dù đã nỗ lực bào chữa cho chính mình.
"Cơn thèm rượu đã cuốn ông ta tới đây" tôi nhận xét. "Sự hấp dẫn từ quán bar của ông đối với cơn nghiện của ông ấy giống như sức hút của một thanh nam châm đối với một cây kim vậy. Ông ấy không thể tránh xa được".
"Ông ấy phải tránh xa!" người chủ quán kêu lên với giọng nhấn mạnh, đấm nắm tay xuống chiếc bàn nơi ông ta đang ngồi. "Ông ta phải tránh xa! Hiếm có buổi tối nào mà ông ta không làm tôi nổi cáu, và gây ảnh hưởng đến không khí vui vẻ chung ở đây. Chỉ cần nhìn những gì ông ta đã khiêu khích tôi tối nay cũng thấy. Tôi đã suýt nữa giết đứa bé. Nghĩ đến điều đó mà tôi thấy lạnh cả người! Vâng, thưa ngài, ông ta phải tránh xa. Nếu không còn cách nào khác, tôi sẽ thuê người gác cửa và không cho ông ta vào nữa".
"Ông ấy đã chưa bao giờ gây phiền toái cho ông ở cối xay" tôi nói. "Ông cũng đã không cần phải thuê nó ngác cửa cối xay, đúng không?"
"Không!" và người chủ quán buông ra một lời rủa với vẻ thô bạo làm cho tôi sửng sốt. Trước đây, tôi chưa bao giờ nghe ông ta chửi thề bao giờ. "Không, sự phiền toái lớn nhất là nhận ông ta vào và giữ ông ta ở đó, một kẻ vô công rồi nghề!"
"Tôi e rằng," tôi đánh bạo nhận xét "mọi việc ở đây không diễn ra trôi chảy như ở cối xay. Những khách hàng thuộc một tầng lớp khác".
"Tôi không nhận thấy điều đó, vì sao?" ông ta có vẻ không hài lòng với nhận xét của tôi.
"Giữa những người nông dân lặng lẽ, cần kiệm, chất phác với những tửu khách lười nhác của phòng bar là cả một sự khác biệt lớn".
"Xin lỗi ngài!" Simon Slade đứng phắt dậy. "Những người đến với phòng bar của tôi, nhìn chung, đều đứng đắn, có đạo đức và chất phác không kém gì những khách hàng đã đến cối xay, và tôi tin là còn hơn thế. Những người phải nhắc đến đầu tiên, thưa ngai, là những người đã được thấy ở đây. Thẩm phán Lyman và thẩm phán Hammond, luật sư Wilks và bác sĩ Maynard, ông Grand, bà Lee và hàng tá người khác – đó là những người phải nói đến đầu tiên. Không, thưa ngài, ngài không thể phán xét tất cả đều là những kẻ cầu bơ cầu bất giống như Joe Morgan".
Có một vẻ bực bội được thấy rõ ở ông ta mà tôi không muốn kích thích thêm. Có lẽ tôi đã gặp phải sự ngoan cố của ông ta với những điều có thực và những điều được suy diễn có thể làm bất cứ ai thách thức vị trí của ông ta phải giật mình, một con nó ncó một thái độ lạnh lùng, đầy lý lẽ, nhưng thà rằng im lặng còn hơn là tranh cãi với ông ta khi đó, và bởi vậy tôi để mặc cho ông ta có cơ hội tiếp tục nói thoả thích, còn tôi ngừng lời để lấy lại sức lực.