Dịch giả: Vũ Anh Tuấn
Đêm thứ tư
Cái chết của bé Mary Morgan

    
“m định đi đâu vậy Ann?” tiếng nói của người chủ quán vang lên. Lúc đó trời vừa tối.
“Em đến thăm bà Morgan” vợ ông ta trả lời.
“Để làm gì?”
“Em muốn đến đó” bà đáp.
“Được, anh không muốn em đi” Slade nói, vẻ cương quyết.
“Em không thể, Simon. Mary, như em đã nói, đang trong tình trạng nguy kịch, và Joe cũng bị nguy hiểm. Em cần đến đó, và anh cũng vậy. Để xem tình hình ra sao. Trước kia, anh vẫn thường quan tâm khi Morgan hoặc gia đình ông ấy gặp khó khăn…”
“Im đi không nào!” người chủ quán quát lên giận dữ. “Tôi sẽ không thể để cô lên lớp theo kiểu đó nữa đâu”.
“Được thôi, vậy cũng đừng can thiệp vào những công việc của tôi, Simon, đó là tất cả những gì mà tôi cần phải nói. Tôi cần phải đến đó, như tôi đã nói, và tôi sẽ đi”.
Đã có sự chống đối mạnh mẽ đối với ông ta và Slade, nhận thấy rõ điều đó, liền quay đi chỗ khác, miệng bật ra câu gì đó mà vợ ông ta không nghe thấy, và bà tiếp tục ra đi. Những bước chân hối hả đã đưa bà đến căn nhà tồi tàn của người đàn ông nghiện rượu khốn khổ, vợ ông ta đón bà ngay ở cửa.
“Sức khoẻ Mary ra sao?” bà hỏi, giọng lo lắng.
Bà Morgan gắng gượng trả lời câu hỏi, mặc dù cặp môi của bà mấp máy, nhưng không âm thanh nào từ đó được phát ra cả.
Bà Slade nắm chặt bàn tay bà Morgan trong hai bàn tay mình, rồi hai người cùngđi vào phòng, nơi cô bé nằm. Thái độ người mẹ của cô bé cũng đã đủ để bà Slade hiểu được rằng Thần Chết đã đặt những ngón tay lạnh lẽo của hắn lên vầng trán của em.
“Cháu thấy trong người thế nào, cháu yêu?” bà hỏi trong khi cúi xuống hôn cô bé.
“Đã khá hơn rồi ạ, cảm ơn bà”, Mary trả lời, giọng thều thào.
Rồi cô bé ngước mắt lên nhìn vào khuôn mặt người mẹ, vẻ dò hỏi.
“Gì vậy con?”
“Cha đã thức dậy chưa ạ?”
“Chưa con ạ”.
“Cha sẽ không thức dậy ngay chứ?”
“Cha ngủ rất ngon. Mẹ không muốn khuấy động cha”.
“Ồ không. Đừng khuấy động cha. Con cứ ngỡ rằng cha đã dậy rồi”.
Và mi mắt của cô bé uể oải khép lại, những sợi lông mi dài nằm áp vào gò má em.
Sự im lặng kéo dài một lát rồi bà Morgan thì thầm nói chuyện với bà Slade.
“Ôi, chúng tôi đã trải qua những lúc hoảng sợ với Joe tội nghiệp. Ông ấy lại lên cơn rất đáng sợ vào đêm qua. Tôi đã phải đi gọi bác sĩ Green và để ông ấy lại một mình. Khi tôi trở về, ông ấy đã sang giường của Mary, và cô bé, thật đáng thương, đang ôm lấy cổ ông ấy và ra sức dỗ dành cha, rồi bà có tin không, ông ấy lăn ra ngủ, và cứ ngủ như vậy rất lâu. Bác sĩ đến và khi thấy vậy, đã để lại một ít thuốc cho ông ấy, rồi ra về. Tôi đã hy vọng rằng ông ấy sẽ luôn ngủ như thế. Nhưng khoảng 12 giờ, ông ấy giật mình hét lên ghê sợ và nhảy khỏi giường. Tội nghiệp Mary, cô bé cũng đang ngủ. Tiếng hét đã làm Mary giật mình hoảng hốt và tỉnh dậy. Kể từ đó, tình trạng của nó trở nên mỗi lúc mỗi xấu đi, thưa bà Slade.
Lúc ông ấy vừa lao ra khỏi phòng, tôi nắm được cánh tay, và phải gắng toàn bộ sức lực mới giữ lại được.
Ngay khi tỉnh giấc đủ để hiểu được chuyện gì đang xảy ra, Mary đã gọi theo “Cha ơi! Cha! Đừng đi, không có gì ở đây đâu”.
Ông ấy ngoái nhìn lại chiếc giường vẻ sợ hãi.
“Thấy chưa, cha!” và con bé đáng thương bỏ chăn và ga trải giường ra để cho cha nó thấy rằng không có cái gì ở trong giường cả. “Con đang ở đây” cô bé nói thêm. “Con không sợ gì cả. Lại đây cha. Nếu không có gì ở đây làm hại con, thì cũng chẳng có gì làm hại được cha đâu”.
Có một vẻ gì đó thuyết phục trong câu nói, khiến cho Joe tiến vài bước về phía chiếc giường, nhìn xăm soi vào như đã làm trước đó. Mắt ông ấy lần từ chiếc giường lên trần nhà, và một vẻ sợ hãi lại xuất hiện lên trên khuôn mặt.
“Đấy, chính nó! Hãy nhảy ra khỏi giường ngay! Nhảy ra, Mary!” ông ấy gào lên. “Nhìn kìa, nó ở ngay trên đầu con!”
Mary không tỏ ra sợ hãi một chút nào, ngước mắt nhìn lên trần nhà, và điềm tĩnh nhìn theo hướng cha đã chỉ trong giây lát.
“Không có cái gì ở đấy đâu cha”, cô bé nói với giọng quả quyết.
“Nó đã đi rồi” Joe nói, giọng dịu xuống. “Cặp mắt thiên thần của con đã xua nó đi rồi. Ôi! Giờ nó lại ra chỗ kia, đang bò trên nền nhà!” ông ấy đột nhiên hét lên sợ hãi, tránh xa chỗ mình đang đứng.
“Lại đây, lại đây cha!” Mary gọi, và ông ấy lại nhảy vào giường, trong khi con bé choàng tay ôm chặt lấy cha, và nói với giọng vỗ về, thủ thỉ “Không điều gì có thể làm hại cha ở đây, cha ạ”.
Không để chậm trễ giây phút nào, tôi cho ông ấy dùng morphine mà bác sĩ Green đã để lại. Ông ấy uống háo hức, rồi co ro nằm vào giường trong lúc Mary tiếp tục vỗ về trấn an cha nó. Khi ông ấy còn tỉnh táo nhận ra được mình đang ở đâu, thì ông ấy vẫn giữ được bình tĩnh. Nhưng ngay khi giấc ngủ thiu thiu vừa đến, ông ấy lại hét lên và hoảng sợ nhảy ra khỏi giường, và khi ấy chúng tôi lại phải mất nhiều phút để trấn an ông ấy. Trong đêm qua đã xảy ra sáu lần như vậy, và Mary, như thường lệ, đã dỗ dành cha trở lại. Tôi tiếp tục cho dùng thuốc morphine như bác sĩ đã chỉ dẫn. Cho đến sáng, thuốc có tác dụng, và ông ấy đã ngủ ngon. Khi bác sĩ đến, chúng tôi chuyển Joe về giường ông ấy. Ông ấy vẫn ngủ, và tôi bắt đầu cảm thấy bất an, hãy để cho ông ấy không bao giờ tỉnh dậy nữa. Tôi đã nghe điều này đã xảy ra ở đâu đó”.
“Hãy xem cha đã tỉnh dậy chưa” Mary nói, và nhỏm đầu khỏi gối. Cô bé không nghe được những lời trao đổi giữa mẹ em và bà Slade, vì cuộc trò chuyện đã đến nói rất khẽ.
Bà Morgan bước đến cánh cửa, và nhìn vào căn phòng nơi chồng bà đang nằm.
“Cha vẫn đang ngủ, con ạ” bà nói và quay laị giường.
“Ôi, con ước sao cha thức dậy. Con rất muốn gặp cha. Mẹ hãy gọi cha dậy đi”.
“Mẹ đã gọi mấy lần rồi. Nhưng con biết đấy, bác sĩ đã cho cha uống thuốc ngủ. Cha chưa thể tỉnh được”.
“Cha đã ngủ rất lâu. Mẹ không nghĩ như vậy sao?”
“Ừ, con yêu. Có lẽ thời gian đã rất dài. Nhưng điều đó là tốt nhất cho cha con. Ông ấy sẽ đỡ hơn khi tỉnh dậy”.
Mary nhắm mắt lại, vẻ mệt mỏi. Khuôn mặt em trắng nhợt trông thật yểu mệnh, đôi mắt em trũng sâu xuống, nét mặt trông teo tóp hẳn lại.
“Tôi thấy tuyệt vọng về con bé, bà Slade ạ” bà Morgan nói, giọng thì thào tắc nghẹn, xích gần hơn về phía người bạn của mình “Tôi đã cảm thấy tuyệt vọng! Điều tồi tệ nhất rồi sẽ qua, nhưng trời ơi! Tim tôi như sắp vỡ ra vì sự giằng xé. Đứa trẻ tội nghiệp! Trong bóng đêm của đời mình, con bé đã giúp đỡ và động viên tôi. Không có nó, mọi thứ sẽ chỉ còn toàn màn đêm đen tối”.
“Cha ơi cha!” tiếng Mary chợt vang lên với một vẻ hối hả khác thường.
Bà Morgan quay về phía chiếc giường, đặt bàn tay lên cánh tay Mary nói:
“Cha vẫn ngủ, con ạ”.
“Không, cha không ngủ đâu, mẹ ạ. Con nghe thấy tiếng cha cử động. Mẹ hãy đến đó xem có phải cha đã thức rồi không?”
Để chiều lòng con bé, mẹ của em rời phòng, và khi bước vào phòng của Morgan, bà ngạc nhiên khi bắt gặp cặp mắt của ông ta. Morgan nhìn vợ thản nhiên.
“Mary muốn gặp anh có việc gì vậy?” ông hỏi.
“Con muốn gặp anh. Nó đã gọi anh rất nhiều lần. Em sẽ bế con đến đây nhé?”
“Không, anh sẽ tự dậy và mặc quần áo”.
“Em không thể để anh làm vậy. Anh đang ốm”.
“Cha ơi cha!” tiếng gọi khẩn thiết của Mary được nghe thấy rõ.
“Cha đang đến đây, con yêu” Morgan trả lời.
“Nhanh lên cha!”
“Ừ, con yêu” và Morgan đứng dậy mặc quần áo, nhưng bàn tay ông ta run rẩy, cùng với những dấu hiệu thần kinh mất tự chủ. Một lúc sau, với sự trợ giúp của vợ, ông ta đã sẵn sàng và được bà dìu đi ngật ngưỡng vào phòng của Mary.
“Ôi cha!” một vẻ rạng rỡ sáng bừng lên trên vẻ mặt cô bé. “Con đợi cha đã lâu. Con cứ ngỡ cha sẽ không bao giờ tỉnh giấc. Hãy hôn con đi, cha”.
“Cha có thể làm gì cho con không, Mary?” Morgan âu yếm hỏi trong lúc đặt khuôn mặt xuống chiếc gối đặt cạnh cô bé.
“Không cần đâu, cha. Con không mong muốn điều gì khác. Con chỉ muốn gặp cha thôi”.
“Cha đây, con yêu”.
“Thưa cha,” cô bé nói vẻ nghiêm trang và âu yếm, trong lúc đặt bàn tay bé nhỏ của em lên khuôn mặt người cha. “Cha lúc nào cũng tốt đối với con, thưa cha”.
“Ồ không. Cha chưa bao giờ tốt với ai cả”, người đàn ông ốm yếu và tinhthần đã suy nhược, nhấc đầu khỏi chiếc gối.
Ngồi lặng yên chứng kiến cảnh tượng đang diễn ra, bà Slade rất xúc động.
“Cha chưa tốt với chính bản thân mình, cha ạ. Nhưng cha đã luôn tốt đối với mẹ và con”.
“Đừng Mary! Đừng nói như vậy” Morgan ngắt lời. “Hãy nói rằng cha đã rất tồi tệ, rất xấu xa. Ôi, Mary con yêu! Cha chỉ ước sao mình tốt được như con, cha muốn mình chết đi, khi đó, cha sẽ ra khỏi được cái thế giới ma quỷ này. Cha ước sao đã không có rượu, không có những quán trọ, không có những phòng bar. Ôi trời ơi! Cha ước sao mình chết đi được!”
Và người đàn ông gần như đã bị liệt giường lại run rẩy đặt đầu xuống chiếc gối bên cạnh đứa con, và khóc nức nở.
Rồi sự im lặng nặng nề lại bao trùm căn phòng.
“Cha ơi” Mary lên tiếng phá vỡ sự im lặng. Giọng nói của cô bé rõ ràng và bình tĩnh “Cha ơi, con muốn nói với cha một điều”
“Gì vậy Mary?”
“Sẽ không có ai đi theo cha nữa”. Cặp môi em mấp máy và mắt em ngấn nước.
“Đừng nói vậy, Mary. Cha sẽ không đi đâu vào buổi tối cho đến khi nào con khoẻ. Con không nhớ cha đã hứa như thế sao?”
“Nhưng cha ơi” cô bé ngần ngừ.
“Gì vậy, con?”
“Con sắp đi xa cha và mẹ”.
“Ôi đừng, đừng, Mary! Đừng nói vậy” giọng người cha khốn khổ oà vỡ ra. “Đừng nói như vậy! Cha mẹ không thể để con đi, con yêu”.
“Chúa đã gọi con”, giọng cô bé trang nghiêm, và cặp mắt em ngước lên vẻ sùng kính.
“Cha mong sao người sẽ gọi cha! Ôi, cha mong sao Người sẽ gọi cha!” Morgan rên rỉ, úp mặt vào hai bàn tay. “Cha sống làm sao được khi con bỏ cha mà đi? Ôi trời ơi!”
“Cha ơi!” Mary lại nói, giọng bình tĩnh “Cha vẫn chưa sẵn sàng cho điều đó. Chúa sẽ để cha sống ở thế gian này lâu hơn, đến khi cha sẵn sàng”.
“Làm thế nào cha sống tiếp được khi không có con giúp cha, Mary? Thiên thần của cha!”
“Con đã cố gắng giúp cha bao nhiêu lần rồi, phải không cha?” Mary nói.
“Ừ, đúng vậy, con đã luôn gắng giúp cha”.
“Nhưng điều đó đã không có tác dụng. Cha vẫn đi đến quán trọ. Dường như cha không thể dừng lại”.
Morgan rên rỉ đau đớn.
“Có lẽ con có thể giúp cha được nhiều hơn sau khi con chết, thưa cha. Con rất yêu cha, và tin rằng Chúa sẽ cho con được đến và luôn ở bên cha, và làm thiên thần của cha. Mẹ có nghĩ Người sẽ cho phép con không?”
Nhưng trái tim bà Morgan tràn ngập sự đau khổ. Bà không trả lời, mà chỉ ngồi đó, nước mắt tràn mi và nhìn vào khuôn mặt của cô bé.
“Cha ơi, hôm nay con đã mơ một điều về cha khi đang ngủ” Mary lại quay sang phía cha em.
“Gì vậy, con yêu?”
“Con nghĩ đó là vào ban đêm, và con vẫn đang ốm. Cha đã hứa sẽ không đi ra ngoài cho đến khi con khoẻ. Nhưng cha vẫn đi, và con nghĩ rằng cha đến quán của ông Slade. Lúc biết điều đó, con cảm thấy mình khoẻ như khi chưa bị sao vậy, và con đứng dậy, mặc quần áo rồi bắt đầu đi theo cha. Nhưng con đã không đi xa được, vì gặp phải Nero, con chó bull to nhà ông Slade, và nó giận dữ gầm gừ với con, làm con sợ hãi chạy về nhà. Rồi con lại đi lần nữa, và đến chỗ nhà ông Mason. Nhưng lại gặp phải Nero trên đường, và lần này nó cắn được vào váy của con và xé rách mất một miếng to. Con lại chạy về, và nó đuổi con đến tận nhà. Khi vừa đến cửa, con nhìn quanh và bỗng thấy ông Slade đang giục Nero xông vào con. Ngay khi nhìn thấy ông Slade, mặc dù ông ấy nhìn con một cách độc ác, con không còn thấy sợ nữa, và con quay lại, đi qua Nero đang nhe răng và gầm gừ với con mà không cắn được con. Khi đó ông Slade muốn ngăn con lại, nhưng con không thèm để ý đến ông ấy và cứ đi tiếp đến quán trọ, và thấy cha đang đứng ở cửa quán đó. Cha ăn mặc thật là đẹp. Cha có một cái mũ mới, một áo khoác mới, và đôi ủng mới của cha trông bóng loáng giống như ủng của thẩm phán Hammond ấy. Con hỏi “Ôi, có phải cha đó không?” và khi ấy cha bế con lên tay, hôn con và nói “Đúng, Mary, ta đúng là cha con đây. Nhưng không phải là ông lão Joe Morgan, mà giờ là ngài Morgan”. Mọi thứ đều có vẻ mới lạ, nên con nhìn vào trong phòng bar để xem những ai đang ở đó. Nhưng đó không còn là phòng bar nữa, mà thay vào đó là một cửa hàng bách hoá đầy ắp hàng hoá. Tấm biển “Lưỡi liềm và bó lúa” đã được bỏ xuống, và phía trên cánh cửa giờ đây con đọc thấy tên cha. Chao ôi! Lúc ấy con vui quá! Và tỉnh dậy, rồi con bật khóc, vì đó chỉ là một giấc mơ”.
Những lời cuối cùng được Mary nói ra một cách buồn bã, mi mắt khép lại cho đến khi những sợi lông mi đẫm nước mắt của em nằm ắp vào má. Tiếp theo đó là một khoảng im lặng nặng nề nữa, vì những người chứng kiến không dám thốt ra những gì trong lòng họ. Những cảm xúc do câu chuyện gây ra quá mạnh. Gần năm phút trôi qua, và Mary bỗng thì thầm tên của cha em, nhưng vẫn không mở mắt ra.
Morgan trả lời, và ghé tai lắng nghe.
“Cha sẽ chỉ còn để lại mẹ ở nhà” cô bé nói “Chỉ còn mẹ. Và mẹ sẽ khóc rất nhiều khi cha đi vắng”.
“Cha sẽ không rời xa mẹ, Mary, ngoài lúc cha đi làm” Morgan thì thầm trả lời cô bé “Và cha sẽ không bao giờ đi đâu vào buổi tối nữa”.
“Vâng, cha hãy hứa với con điều đó đi”.
“Và cha còn hứa hơn thế”.
“Hứa gì nữa, hả cha?”
“Cha không bao giờ đến quán trọ nữa”.
“Không bao giờ?”
“Không, không bao giờ. Và cha hứa hơn thế nữa”.
“Nói đi cha?”
“Sẽ không bao giờ uống một giọt rượu nào nữa chừng nào cha còn sống ở trên đời”.
“Ôi cha, cha yêu của con!” và cùng với một tiếng kêu vui sướng, Mary nhổm dậy và áp người vào ngực người cha. Morgan choàng tay ôm lấy cô bé, và ngồi như vậy hồi lâu với môi áp vào má em, trong lúc cô bé nằm áp vào ngực ông ta bất động như đã chết. Chết? đúng vậy, vì khi người cha buông cánh tay của ông ta ra, thì linh hồn cô bé đã ở trên thiên đường cùng với những thiên thần!
Đó là buổi tối thứ tư của tôi trong phòng bar của quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Khách khứa và không khí hội hè không có gì mấy, vì mọi người đã được nghe về tình trạng của cô bé Mary, ngay sau khi bị tai bay vạ gió vì chiếc ly ném, mà mọi người kể cho nhau nghe. Sự có mặt thường xuyên, vẻ dễ thương và những sức ảnh hưởng mạnh mẽ của cô bé đối với cha em là những điều mà hầu hết các khách thường xuyên đến quán đều cảm thấy hơn cả một sự quan tâm chung, nên sự cư xử nhẫn tâm mà cô bé gặp phải, cùng những hậu quả của nó luôn được mọi người nói đến.
“Không thấy Joe Morgan xuất hiện tối nay” một người nhận xét.
“Và sẽ không thể đến trong một thời gian” có tiếng trả lời.
“Vì sao vậy?” người thứ nhất hỏi.
“Họ nói rằng thần chết đang theo đuổi ông ta”.
“Ôi thật đáng sợ! Đây là lần theo đuổi thứ hai hay thứ ba rồi, đúng không?”
“Đúng vậy”.
“Lần này hắn có thể bắt được ông ta”.
“Kẻ ăn hại khốn khổ! Không thể tồi tệ hơn được nữa. Không có Morgan, gia đình ông ta sẽ bớt được một gánh nặng lớn”.
“Họ sẽ có phúc nếu ông ta chết đi”.
“Một con nghiện tàn tạ khốn khổ!” Harvy Green, người đã có mặt nói “Ông ta chỉ ngáng đường người khác. Ông ta biến đi càng sớm càng tốt”.
Người chủ quán lặng im. Ông ta đứng dựa người vào quầy bar, trông có vẻ tỉnh táo hơn thường lệ.
“Quả là điều không may cho ông, Simmon. Người ta nói rằng đứa trẻ sắp bị chết”.
“Ai nói vậy?” Slade giật mình, cau mày và ném một cái nhìn về phía người vừa nói.
“Bác sĩ Green”.
“Nói bậy! Bác sĩ Green chưa bao giờ nói thế”.
“Đúng vậy, nhưng ông ấy đã nói”.
“Ai nghe thấy ông ấy nói thế?”
“Tôi”.
“Ông đã nghe như vậy à?”
“Đúng thế!”
“Ông ấy không nói nghiêm túc chứ?” người chủ quán thoáng tái mặt.
“Ông ấy rất nghiêm túc. Đêm qua họ đã trải qua những giờ phút kinh khủng”.
“Ở đâu?”
“Ở nhà Morgan. Joe lên cơn cuồng loạn, và bà Morgan đã phải một mình lo liệu cho ông ta và cô bé bị đau”.
“Ông ta xứng đáng với điều đó, đó là những gì tôi muốn nói.” Slade gượng gạo với một sự thờ ơ đến thô bỉ.
“Đó quả là điều khó nói”, một người nói.
“Tôi không quan tâm đến điều đó. Đấy là sự thật. Ông ta có thể trông đợi được điều gì nữa?”
“Một người đàn ông như Joe thật đáng thương”, người đó nhận xét.
“Tôi chỉ thương cho gia đình ông ta” Slade nói.
“Nhất là cô bé Mary” những lời nói đó được nói ra với vẻ mỉa mai, và nhận được những lời tán đồng rì rầm của những người có mặt.
Slade bước lùi lại từ chỗ ông ta đang đứng, với vẻ khó chịu, và nói một câu gì đó tôi không nghe rõ.
“Nhìn này Simon, tôi đã nghe được từ văn phòng của luật sư Phillips hôm nay”.
Slade quay sang nhìn người vừa nói.
“Rằng nếu đứa bé chết, ông có thể sẽ phải ra toà vì tội làm chết người”.
“Không, làm chết cô gái chứ” Harvey Green nói, với một tiếng cười lạnh lùng, bất nhân.
“Tôi nói thật đấy!” người kia nói “Ngài Phillips nói rằng sự việc như vậy có thể dẫn đến một phiên toà”.
“Đó chẳng qua là một vụ tai nạn, và tất cả các luật sư theo đạo Cơ Đốc không thể làm gì được hơn” Harvey Green nói, hắn ta bênh vực người chủ quán và nói với vẻ nghiêm túc hơn.
“Khó có thể được coi là một tai nạn” người đối thoại trả lời.
“Ông ấy đâu có định ném vào cô bé!”
“Dù vậy, ông ấy đã ném chiếc ly nặng vào đầu người cha cô bé. Mục đích là nhằm để gây thương tích, và luật pháp không phân biệt ai là người phải chịu thương vong. Hơn nữa, ai có thể khẳng định được rằng ông ấy không nhằm vào cô bé?”
“Bất kỳ người nào nghĩ như vậy cũng đều là kẻ lừa dối!” người chủ quán kêu lên, gần như nổi khùng vì những lời nói đó.
“Tôi đâu có ném ly vào đầu ông” người có cách nói bộc trực đã làm Simmon Slade nổi cáu lạnh lùng nhận xét “tôi không bao giờ cho rằng ném ly là cách tranh luận hay ho gì, mặc dù với một số người, khi bị dồn vào đường cùng, đó là cách giải quyết vấn đề được họ ưa thích. Giờ đây, đối với ông bạn chủ quán của chúng ta, tôi rất tiếc phải nói rằng công việc kinh doanh mới của ông ấy đã không cải thiện được gì nhiều cách cư xử, hay thói giận dữ, của ông ấy. Khi còn là chủ cối xay, ông ấy là một trong những người đàn ông tốt tính nhất thế giới, và không làm đau dù chỉ là một con mèo con. Nhưng giờ thì ông ấy biết chửi thề, quát tháo, và ném ly vào đầu người khác, cùng nhiều thứ ầm ĩ, mất trật tự khác. Tôi e rằng ông ấy đang tiếp thu những bài học từ một môi trường tồi tệ”.
“Tôi không cho rằng ông có quyền làm nhục một người ở ngay trong ngôi nhà của người đó” Slade trả lời, giọng thấp hẳn xuống.
“Tôi không hề có ý làm nhục ông” người kia nói. “Tôi chỉ nói theo giả thiết, và theo cái nhìn từ vị trí của ông trong phiên toà về tội làm chết người khi tôi cho rằng không có thể chứng minh, hay nói rằng ông đã không cố ý tấn công cô bé Mary vào lúc ném chiếc ly”.
“Được, tôi đã không cố ý tấn công cô bé, và tôi không tin rằng có người nào ở trong phòng bar này nghĩ rằng tôi đã cố ý, không có bất kỳ ai”.
“Chắc chắn là tôi cũng không nghĩ như vậy” người đối thọai với ông ta nói.
“Tôi cũng không …” những giọng nói khác trong phòng bar vang lên.
“Nhưng như tôi đã nói, “người đó tiếp tục “toà án không đơn giản như vậy, khi mười hai người, mà với mỗi người ông có thể là kẻ xa lạ, đến ngồi lại cùng nhau để phán quyết theo pháp luật. Một sự bóp méo chứng cớ nhỏ nhất, thiên kiến của một nhân chứng, hay sự non kém của tòa án cũng có thể gây ra bất lợi cho ông, và cho ông rất ít cơ hội. Theo tôi, nếu đứa trẻ bị chết, tôi nghĩ ông có nguy cơ bị tám đến mười năm tù, và tôi cho là điều đó dễ xảy ra”.
Tôi chăm chú nhìn người đàn ông vừa nói, nhưng không thể nhận ra được ông ta đang nói hoàn toàn nghiêm túc, hay chỉ muốn gây lo âu cho Slade. Nếu muốn gây lo âu cho Slade thì rõ ràng ông ta đã thành công vì vẻ mặt người chủ quán đã trở nên thất sắc và u ám bởi sự lo lắng. Một số người tỏ ra vui mừng một cách độc ác, những người khác nhìn vẻ lo âu của Slade và lo cho ông ta, nhắc lại những gì mà người chủ quán đã gây ra, còn người chủ quán thì đã trở nên lo sợ như một tên tội phạm với mới bị bắt.
“Một điều tệ hại, và không phải do sơ suất” một người nói.
“Đúng thế, tệ đủ đường. Tôi sẽ không làm giàu bằng mọi giá như ông ấy” một người nhận xét.
“Tôi cũng thế, dù là giàu đến đâu đi nữa” người khác tiếp lời.
“Một vụ án gây chết người đã rõ, và không phải do sơ suất. Mức hình phạt sẽ ra sao?”
“Từ hai đến mười năm tù” lập tức có câu trả lời.
“Họ sẽ kết án ông ấy năm năm, tôi nghĩ vậy”.
“Không, sẽ không quá hai năm, vì khó có thể chứng minh được ý định phạm tội”.
“Tôi không rõ chuyện đó. Tôi đã nghe ông ấy nguyền rủa và đe doạ cô bé nhiều lần. Có phải không nào?”
“Đúng!”, “Đúng vậy!”, “Tôi vẫn thường nghe thế” những câu nói lao xao quanh phòng bar.
“Thà rằng mọi người đem treo cổ tôi ngay đi còn hơn” Slade nói, bị tác động bởi những câu nói.
Vào lúc đó cánh cửa phía sau lưng Slade bật mở, và tôi nhìn thấy khuôn mặt đau buồn của vợ ông ta ghé vào trong chốc lát. Bà nói câu gì đó với chồng, người thốt ra một câu nhỏ vẻ ngạc nhiên và lập tức đi ra ngoài.
“Có chuyện gì thế?” một người hỏi.
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bé Mary chết”, có người nói.
“Tôi nghe bà ấy nói đến từ “chết””, một người đứng gần quầy bar nói.
“Có chuyện gì vậy, Frank?” nhiều người cùng hỏi khi thấy con trai ông chủ quán đi vào qua chỗ cửa mà bố cậu đã đi qua.
“Mary Morgan chết rồi” cậu ta trả lời.
“Ôi, đứa trẻ thật tội nghiệp!” một người thở dài, thương xót trước thông tin được đưa ra. “Nỗi đau của cô bé đã kết thúc”.
Và không người nào đang có mặt, trừ Harvey Green, lại không thốt lên những lời nói tiếc thương, thông cảm. Harvey Green nhún vai, trông vẻ khinh rẻ và lãnh đạm, nhưng ông ta thận trọng khi thể hiện điều đó.
“Mọi người nghe đây!” một trong những người có mặt lên tiếng “chúng ta có thể làm một điều gì đó cho bà Morgan đáng thương không? Hay là chúng ta quyên góp tiền bạc cho bà ấy?”
“Phải đấy!” sự hưởng ứng thật nhanh chóng. “Tôi xin góp ba dollar đây” người vừa nói rút tiền ra và đặt lên mặt quầy.
“Và đây là năm dollar nữa góp vào đó” tôi nói, nhanh chóng bước tới và đặt tờ năm dollar vào bên cạnh số tiền quyên góp đầu tiên.
“Giao tiền cho ai giữ bây giờ?” câu hỏi tiếp theo.
“Tôi gợi ý hãy giao cho bà Slade” tôi nói. “Theo tôi được biết, bà ấy đã đến gặp bà Morgan tối nay. Tôi biết bà ấy rất quan tâm đến bà Slade”.
“Đó chính là người chúng ta cần đến” có người trả lời. “Frank, hãy nói với mẹ cậu rằng chúng tôi muốn gặp bà ấy. Mời bà ấy sang phòng khách nhé”.
Một lát sau, cậu bé quay lại và cho biết rất mẹ cậu ta muốn gặp chúng tôi ở phòng bên, tất cả chúng tôi liền đi sang đó. Bà Slade đứng cạnh chiếc bàn, trên đó có một cây đèn đang cháy. Tôi nhận thấy rằng cặp mắt bà đỏ hoe, và vẻ mặt bà thể hiện tràn ngập một sự đau đớn.
“Chúng tôi vừa được tin” một người trong nhóm lên tiếng “rằng bé Mary đã qua đời”.
“Đúng vậy” bà Slade buồn bã trả lời. “Tôi vừa ở đó về. Cô bé đáng thương đã từ bỏ một thế giới đầy sự xấu xa”.
“Quả thực, sự xấu xa đã bám theo cô bé” có người nhận xét.
“Ông nói đúng. Và, phải sống giữa những sự xấu xa, cô bé đã là một thiên thần cứu rỗi. Nhưng trước khi qua đời suy nghĩ cuối cùng của cô bé đều là về người cha khốn khổ của mình. Vì ông ấy, cô bé luôn sẵn lòng đánh đổi cả cuộc sống của em”.
“Người mẹ của cô bé chắc phải rất đau khổ. Mary là đứa con cuối cùng của bà ấy”.
“Nhưng cái chết của con có thể mang đến điều tốt lành cho bà ấy”.
“Theo cách nào vậy?”
“Người cha đã hứa với Mary, ở những giây phút cuối – hứa rất trang nghiêm với cô bé – rằng, từ nay trở đi, ông ta sẽ không bao giờ uống rượu nữa. Đấy chính là tất cả mối bận tâm của cô bé trước lúc qua đời. Nhưng ông ấy đã nói với sự can đảm, và cô bé lịm đi, nằm tựa vào ngực người cha. Ôi, thưa mọi người! Đó là cảnh tượng xúc động nhất mà tôi đã từng được chứng kiến”.
Tất cả mọi người có mặt đều tỏ ra xúc động mạnh.
“Họ đều rất nghèo và ốm yếu” một người nói.
“Quá nghèo và khốn khổ” bà Slade trả lời.
“Chúng tôi vừa quyên góp được một khoản tiền để tặng bà Morgan. Số tiền ấy đây, thưa bà Slade – ba mươi dollar - chúng tôi giao nó vào tay bà để nhờ bà giúp bà ấy. Hãy dùng nó vào những việc mà bà thấy là có ích nhất cho bà ấy!”
“Ôi, thưa các quý ông!” khuôn mặt bà Slade chợt rạng rỡ lên. “Từ đáy lòng, tôi xin thay mặt người bất hạnh cảm ơn mọi người về việc làm nhân đức này. Mỗi người chỉ góp một chút, nhưng đối với bà ấy lợi ích thật là lớn. Một cuộc sống mới sẽ mở ra, mà tôi tin sẽ được bắt đầu từ người chồng bà ấy, và sự giúp đỡ kịp thời này sẽ hỗ trợ thiết thực cho đến khi ông ấy có thể tìm được một công việc tốt hơn so với hiện tại. Thưa các quý ông! Hãy cho tôi có ý kiến với mọi người thế này để cùng giúp Morgan. Giờ ông ấy đang thực hiện một mục tiêu tốt đẹp, ông ấy muốn giữ lời hứa với đứa con đã mất, muốn làm lại cuộc đời. Để quyết tâm đó trở thành hiện thực, mọi người hãy để ý và nhắc nhở ông ấy nếu thấy ông ấy sắp bị lầm đường lạc lối, thì hãy ân cần đưa ông ấy trở lại con đường đúng đắn. Đừng bao giờ khuyến khích ông ấy uống rượu, mà hãy giành lấy chiếc ly từ tay ông ấy nếu những cơn nghiện lại dẫn dắt ông ấy, và hãy dùng mọi ảnh hưởng mà chúng ta có để thuyết phục ông ấy ra khỏi những nơi cám dỗ. Xin bỏ quá cho việc tôi đã mạo muội nói hơi nhiều” bà Slade chợt bừng tỉnh và đỏ mặt như thường lệ “Cảm xúc đã khiến tôi như vậy”.
Và bà nhận lấy số tiền để trên bàn, rồi đi về phía cửa.
“Bà đã nói rất hay” một người nói. “Và chúng tôi cảm ơn bà đã nhắc nhở về trách nhiệm của mình”.
“Cho tôi nói thêm điều này, và hãy lượng thứ cho trái tim đã chất chứa nó” bà Slade nói, giọng run run, “nhưng tôi không thể không nói được, thưa các ông! Hãy nghĩ xem, cho dù một số trong các ông không đi vào con đường mà Joe Morgan đã sa vào bấy lâu, cầu Chúa phù hộ cho ông ấy, nhưng hãy thấy rằng không ai là không bị ảnh hưởng bởi tệ nạn này cả!”
Khi vừa nói xong, cũng là lúc bà đi qua cửa, và cánh cửa khép lại sau lưng bà.
“Tôi không biết chồng bà ấy sẽ nói gì về điều đó” một người nhận xét sau giây lát im lặng vì ngỡ ngàng.
“Tôi không cần quan tâm xem ông ta sẽ nói cái gì, mà chỉ muốn cho các ngài biết rằng tôi sẽ nói điều gì” một người đàn ông nghiện rượu mà tôi thường gặp bỗng lên tiếng. “Qúy bà vừa rồi đã cho chúng ta những lời khuyên rất ý nghĩa, và tôi sẽ làm như vậy. Tôi sẽ cố gắng giúp Joe Morgan, và cả tôi nữa. Tôi đã đi vào con đường mà bà ấy nói, nhưng tôi sẽ thoát ra. Thôi,chúc mọi người ngủ ngon, và nếu Simmon Slade không nhận được những tờ bạc sáu penny của tôi nữa, thì ông ấy nên cảm ơn vợ mình về điều đó. Cầu Chúa phù hộ cho bà ấy!”
Và người đàn ông đó sửa lại chiếc mũ cho cao hơn khỏi trán và lập tức rời khỏi quán.
Đó dường như là một tín hiệu giải tán, và mọi người cùng ra về - không đi qua lối phòng bar, mà đi vào hành lang, qua cửa dẫn đến hiên ở phía trước nhà. Ngay sua đó, quan bar đóng cửa và một sự im lặng đến ghê người ngự trị khắp cả ngôi nhà. Tôi không gặp lại Slade trong đêm đó nữa. Ságn sớm hôm sau, tôi rời Cedarville, người chủ quán trông rất tỉnh táo khi ông ta nói với tôi lời tạm biệt, và chúc tôi có một chuyến đi vui vẻ, qua ô cửa.