Hồi 55
U Linh Sứ Giả

    
ột thớt khoái mã xuyên rừng vượt núi trong màn đêm đen kịt không hề phát ra tiếng vó ngựa. Thêm nữa, toàn thân kỵ sỹ mặc hắc y, con ngựa cũng một màu đen tuyền, phảng phất như một U Linh kỵ sỹ của bóng đêm đến nhân gian để câu hồn đọat phách con người.
Khi kỵ sỹ phóng lên một ngọn đồi nhỏ thì ở đỉnh đồi bỗng xuất hiện hai người mặc kình trang dạ hành. Một người giương cung lắp tên nhắm chuẩn kỵ sỹ.
Kỵ sỹ thấy thế biết là bất diệu liền từ lưng ngựa phóng vọt mình lên, lăng không lộn một vòng vọt sang mé tả.
“Păng!”
Tiếng dây cung bật mạnh. Cương tiễn bắn ra như sao xẹt. Thời gian và góc độ vô cùng chuẩn xác. Cương tiễn vừa rời cung, chớp mắt đã xuyên vào vai kỵ sỹ vẫn đang lộn vòng trong không trung làm máu bắn tung tóe.
Kỵ sỹ kêu thảm một tiếng, bị lực đạo kinh người của cương tiễn đẩy thân hình văng ra sau, rơi huỵch xuống đất.
Người bắn tên nhanh như thiểm điện vọt về phía kỵ sỹ rơi xuống. Người còn lại đứng chắn phía trước con ngựa. Khi ngựa chạy tới trước mặt, y liền dạt sang ngang như điện xẹt rồi thi triển thủ pháp một tay chụp lấy dây cương, mượn lực con ngựa đang phóng mạnh lên phía trước, vọt mình lên lưng ngựa, ngồi vững vàng.
Con ngựa hý vang, lồng lộn như phát điên rồi chồm hẳn hai chân trước lên nhưng không cách gì hất văng được người trên lưng xuống. Nó chạy xuống hết một con dốc thì bị người ngồi trên lưng khống chế hoàn toàn, điều khiển chạy vòng qua con đồi đến chỗ kỵ sỹ bị bắn ngã.
Người bắn tên mặt mũi nghiêm trọng đứng lên, nhìn kỵ sỹ đang nằm trên mặt đất nói “chết rồi!”
Người ngồi trên lưng ngựa thất thanh “thật ư?” đồng thời xuống ngựa. Thì ra là Yến Phi.
Người bắn tên chính là Thác Bạt Khuê. Hắn nhíu mày nhăn mặt, trầm giọng nói: “Hắn dùng thuốc độc tự vẫn. Đó là một loại độc dược cực kỳ lợi hại, kiến huyết phong hầu.”
Ánh mắt hắn lại chuyển sang con ngựa Yến Phi cưỡi đến, khen: “Ngựa tốt thật!”
Yến Phi nói: “Bốn vó con ngựa này đều được dùng bao da đặc biệt bó chặt lên không hề phát ra tiếng động.”
Thác Bạt Khuê nói: “Đây chính là U Linh sứ giả lừng danh của Yên quốc. Ban ngày ẩn nấp, ban đêm đi đường. Những thám tử bình thường thì dù bọn chúng chạy qua trước mặt cũng chỉ cho rằng mình hoa mắt. May là chúng ta không phải là những thám tử bình thường.”
Yến Phi hỏi: “Có tìm thấy gì trên mình hắn không?”
Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Ngoại trừ một bọc hành trang đường xa thì ngươi sẽ không thể tìm được gì. Đây chính là phương pháp do Mộ Dung Thùy nghĩ ra, chỉ dùng lối truyền miệng. Nếu gặp địch không thể thoát thân thì có thể dùng độc tự vẫn. Ta đã sớm đề phòng rồi, nhưng không ngờ nội công hắn cao minh đến thế, có thể chịu nổi chân kình trong mũi tên của ta, vẫn có thể tự vẫn kịp thời.”
Yến Phi không cam tâm, lại mò tìm hành trang buộc trên lưng ngựa.
Thác Bạt Khuê nhìn đôi ủng của kỵ sỹ đã chết nằm trên mặt đất nói: “Đôi ủng này rất mới.”
Yến Phi gật đầu: “Tình trạng của chiến mã cũng rất tốt. Cái bọc chân và móng sắt đều mới. Nhìn qua thì chắc mới chỉ đi mấy ngày đường thôi.”
Hai người đồng thời chấn động, đưa mắt nhìn nhau.
Thác Bạt Khuê nói: “Người này chắc đến từ Bình Thành. Hắn từ đó dùng khoái mã chạy đến đây mới chỉ sáu, bảy ngày đường thôi.”
Yến Phi nhíu mày: “Chẳng lẽ là người Mộ Dung Tường phái đến truyền tin cho Mộ Dung Bảo sao?”
Thác Bạt Khuê ngồi xuống kiểm tra y phục, vũ khí của người chết, lắc đầu đáp: “Mộ Dung Tường mười ngày trước mới thu phục được Bình Thành, lại không biết Mộ Dung Bảo bỗng nhiên triệt thoái về Trung Sơn. Hơn nữa, quan hệ giữa hai huynh đệ hắn tuyệt không hòa thuận. Mộ Dung Tường luôn đố kỵ vị trí Thái tử của Mộ Dung Bảo nên sẽ không nhiệt tình đến mức ngoan ngoãn từ ngàn dặm báo tin cho Mộ Dung Bảo đâu.”
Yến Phi nói: “Như thế thì vị huynh đài bất hạnh này chính là kỵ sỹ do Mộ Dung Bảo phái đi. Sau khi đến Bình Thành gặp Mộ Dung Tường thì mang tin tức quay về báo cáo cho Mộ Dung Bảo. Mộ Dung Bảo lại phái hắn đến Bình Thành để truyền đạt chỉ thị của hắn cho Mộ Dung Tường.”
Thác Bạt Khuê nói: “Người này được phái đi vào lúc dao ngôn truyền đến tai Mộ Dung Bảo nên mới về bên trong Trường Thành sớm hơn Mộ Dung Bảo đến mười ngày. Vì thế hắn có thừa thời gian đi và về. Ta đã sớm đoán Mộ Dung Bảo sẽ làm việc này nên đã phái người phong tỏa hết khu vực hoang dã bên ngoài Trường Thành. Nhưng vẫn không chặn được đám U Linh sứ giả đi lại như gió, thiện nghệ việc mai tung ẩn tích này.”
Yến Phi nói: “May là lần này chúng ta đã diệt được hắn.”
Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Không có tác dụng gì đâu. U Linh sứ giả thường đi thành nhóm. Mỗi người tự chọn lộ tuyến bất đồng. Bọn ta mới chỉ diệt được một trong số chúng. Còn hai tên nữa đã cao bay xa chạy rồi.”
Yến Phi nhíu mày: “Vậy thì tình hình vô cùng bất diệu rồi.”
Thác Bạt Khuê đứng lên, lạnh lùng nói: “Bọn ta thử phân tích tình hình xem. Bây giờ Mộ Dung Bảo đã biết rõ dao ngôn về cha hắn toàn là giả dối. Với tính cách của hắn chắc sẽ nổi trận lôi đình, mong muốn giết ta càng thêm mãnh liệt. Hắn lại có vấn đề nghiêm trọng là khi quay về không biết sẽ nói năng thế nào với Mộ Dung Thùy. Một phương pháp duy nhất có thể xoay chuyển thế yếu của hắn là tìm biện pháp chuyển bại thành thắng.”
Mục quang Yến Phi nhìn U Linh sứ giả nằm dưới đất, gật đầu: “Phán đoán của ngươi cơ bản là chính xác. Tên này chắc là mang tin truyền miệng về kế hoạch phối hợp tác chiến của Mộ Dung Bảo cho Mộ Dung Tường.”
Thác Bạt Khuê nói: “Quan trọng nhất là tiểu Bảo có được sự bổ cấp viện trợ lương thực từ Mộ Dung Tường thì sẽ có điều kiện tranh đấu với chúng ta bên ngoài Trường Thành. Nhưng chỉ cần chúng ta chặt đứt được con đường giao thông trên bộ từ Bình Thành đến thì Mộ Dung Bảo không cách gì thiết lập liên hệ với Mộ Dung Tường. Mộ Dung Bảo sẽ phát hiện đại kế phản công của hắn, cũng sẽ là chiến lược gây ra tổn thất lớn nhất trong quân nghiệp của hắn, làm Yên quốc đi đến diệt vong.”
Yến Phi hỏi: “Binh lực Mộ Dung Tường thế nào?”
Thác Bạt Khuê đáp: “Từ hai vạn đến ba vạn. Nhưng do hắn sợ nếu huy động toàn quân đi sẽ bị ta thừa cơ công hãm Bình Thành và Nhạn Môn nên tối đa chỉ có thể điều động một nửa binh lực xuất thành tác chiến. Hà! Tên tiểu tử đó từng đại bại trong tay ta, không tin hắn không cố kỵ ta. Chỉ cần chúng ta hư trương thanh thế bên ngoài thành thì ta dám bảo chứng trước khi hắn hiểu rõ tình hình sẽ không dám rời khỏi Trường Thành nửa bước.”
Yến Phi trầm ngâm một lát nói: “Chúng ta cần thay đổi kế hoạch tác chiến.”
Thác Bạt Khuê lộ vẻ suy nghĩ sâu xa. Một lúc sau nhìn vào mắt Yến Phi nói: “Tiểu Bảo bây giờ đã rõ chúng ta sẽ đánh úp hắn trên đường nên bộ đội của chúng ta không còn là kỳ binh nữa. Một khi để hắn đến được cứ điểm có thể cố thủ, lập doanh trại và viện quân không ngừng từ Trường Thành đến thì chúng ta sẽ mất hết ưu thế.”
Yến Phi gật đầu đồng ý: “Con đường thắng lợi duy nhất là trước hết phải đoán đúng cứ điểm mà tiểu Bảo sẽ chọn, bố trí mai phục ở đó. Ngươi nói xem tiểu Bảo sẽ chọn chỗ nào đây?”
Thác Bạt Khuê đáp: “Đối với hình thế địa lý bên ngoài Trường Thành, người Yên không thể so bì được với chúng ta, những người đã từng nhiều năm sinh sống ở đây. Vì thế nơi mà tiểu Bảo chọn phải phù hợp mấy điều kiện.”
Yến Phi nói: “Điều kiện thứ nhất đương nhiên là không cách xa Trường Thành. Nếu không sẽ khó cùng Yên quân bên trong Trường Thành hô ứng lẫn nhau.”
Thác Bạt Khuê tiếp lời: “Tiếp theo là không được cách đây quá xa vì đại quân của tiểu Bảo đang người ngựa mỏi mệt, không còn hứng thú gì nữa, cần được nghỉ ngơi tốt để phục hồi.”
Yến Phi hỏi: “Điều kiện thứ ba là đó phải là nơi có nhiều nước, nhiều cỏ, lại dễ thủ khó công đúng không?”
Thác Bạt Khuê cười rộ: “Cuối cùng là chỗ đó phải có tên tuổi. Mộ Dung Tường chỉ nghe qua là biết rõ, không cần phải phái người đi trước tìm kiếm khổ sở. Hà!”
Hai người đồng thời chấn động, bốn mắt nhìn nhau.
Thác Bạt Khuê run giọng nói: “Khẳng định là Tham Hợp Pha. Ở đó không những có nước có cỏ mà địa thế còn có lợi cho phòng thủ, bất lợi cho tấn công, cách chỗ này ba ngày đường và cách Trường Thành chỉ bốn năm ngày đường, không còn chỗ nào lý tưởng hơn nữa.”
Yến Phi nói: “Bọn ta chôn người này, xóa hết dấu vết rồi lập tức quay về chuẩn bị mọi việc.”
Thác Bạt Khuê nhìn trời thở ra một hơi, than: “Tiểu Bảo của ta ơi! Ba ngày sau, ở Tham Hợp Pha sẽ là nơi chôn nắm xương tàn của ngươi đó.”
Lúc trời hửng sáng, Lưu Dụ và Tống Bi Phong rời khỏi Quy Thiện tự, đến vùng phụ cận Thạch Đầu thành tìm một quán ăn sáng.
Hai người ngồi vào một góc. Tâm tình đã tốt hơn so với tối qua khi rời khỏi Tạ phủ rất nhiều.
Tống Bi Phong nói: “Lúc mới đầu, huynh đối với việc đệ tìm Tư Mã Nguyên Hiển nói chuyện, trong lòng rất khó chịu. Nhưng lúc này, ngồi đây huynh lại cảm thấy đó chính là cách làm thông minh nhất. Nếu không bây giờ chỉ còn cách nhìn đệ đi chết mà thôi. Ngày trước, kể cả với học thức và kiến thức của An công mà cũng không thể không vờ như hứng thú và đồng tình với người muốn làm hoàng đế là Hoàn Ôn, dùng nhu chế cương. Tư Mã Đạo Tử ngày nay cũng chính là triều đình. Nếu như cùng hắn đối địch thì không thể đứng chân được ở Kiến Khang. Nhưng con người Tư Mã Đạo Tử tự tư tự lợi, cái gì cũng xuất phát từ lợi ích bản thân. Nếu như lão nhận thấy đệ đã mất giá trị lợi dụng thì sẽ không do dự mà sát hại đệ đó.”
Lưu Dụ ăn một cái bánh bao xong, trầm giọng nói: “Nếu như Tạ Diễm ngoài dự đoán của chúng ta, kỳ khai đắc thắng°, đại phá Thiên Sư quân thì khi tin tức truyền về đến tai Tư Mã Đạo Tử chính là lúc lão hạ lệnh giết đệ. Đối với lão, đệ làm sao dám có ảo tưởng không thực tế?”
Tống Bi Phong than: “Ài! Nhị thiếu gia! Chúng ta đối với ông ta quả thực không giúp được gì sao? Chúng ta làm sao mà cứ ngồi nhìn ông ta tự đi tìm chết được?”
Lưu Dụ thay đổi đề tài: “Vừa nãy có ai theo dõi chúng ta không?”
Tống Bi Phong đáp: “Khẳng định không có.”
Lưu Dụ nói: “Tốt rồi. Cho thấy Tư Mã Đạo Tử ít nhất cũng đã cố gắng giữ gìn mặt mũi để biểu thị tin tưởng ta.”
Tống Bi Phong trầm ngâm một lát, hỏi: “Tiểu Dụ. Đệ thẳng thắn cho huynh biết, phải chăng trong lòng rất tức giận Nhị thiếu gia?”
Lưu Dụ cười khổ: “Lão ca cần đệ nói thẳng thì đệ sẽ nói thẳng. Đệ thực không trách ông ta mà đau lòng vì ông ta quá ngu xuẩn ngoan cố. Việc của ông ta không đến lượt chúng ta quản. Không một ai có thể làm thay đổi cách nghĩ của ông ta, kể cả đại tiểu thư.”
Tống Bi Phong trầm mặc hẳn. Song mục lộ thần sắc vô cùng đau khổ.
Lưu Dụ hiểu rõ tâm tình lão. Đối với Tạ gia, Tống Bi Phong có tình cảm sâu sắc. Nhìn thấy Tạ gia sắp bị hủy diệt vào tay Tạ Diễm, đương nhiên lão vô cùng khó xử và bất an. Gã cũng không biết nói gì để an ủi lão.
Tống Bi Phong nghiến răng: “Ta hận không thể lập tức đem tên gian tặc vong ân phụ nghĩa Lưu Lao Chi ra mà chém.”
Lưu Dụ bỗng nhiên nhớ tới cây Liệt Thạch cung đang để trên thuyền. Đêm hôm đó bị Trần công công truy sát, gã không cách gì lấy lại được cây thần cung mà Hà Nhuệ tặng gã. Bây giờ nghĩ đến nó, nếu quả có thể dùng Liệt Thạch cung từ chỗ tối bắn Lưu Lao Chi một tiễn thì quả là một việc khoan khoái nhất đời. Nhưng gã cũng nhớ lại đã từng đáp ứng với Hà Vô Kỵ để cho Lưu Lao Chi một con đường sống. Nhất thời, trong lòng gã nổi lên trăm ngàn tư vị.
Gã than: “Sau khi đệ đến Thạch Đầu thành, có thể một thời gian thân bất do kỷ°°. Tống đại ca cần hạn chế hành động, chờ đợi cơ hội. Nếu như tình hình không có lợi hãy lập tức rời Kiến Khang.”
Tống Bi Phong nói: “Đệ không cần lo lắng. Huynh chỉ nói thế chứ không làm gì đâu. Huynh còn muốn hỏi đệ một câu là khi huynh đi gặp Vương Hoằng, trừ việc giữ gìn bí mật chuyện đệ đang đêm đi gặp Tư Mã Nguyên Hiển thì còn có việc gì nhờ hắn giúp cho nữa không?”
Lưu Dụ đáp: “Sự giúp đỡ tốt nhất của hắn đối với đệ là không làm bất cứ việc gì vì đệ. Nhưng các tình hình khác thì không cần giấu giếm cha hắn. Vương Tuần am hiểu triều chính, lại biết rõ phải làm thế nào.”
Tống Bi Phong nhíu mày: “Theo huynh thấy thì nên giấu Vương Tuần mới đúng.”
Lưu Dụ suy nghĩ một lát, gật đầu: “Cách nhìn của Tống đại ca có đạo lý. Nhưng không thể giấu cả Vương Hoằng, nếu không, hắn sẽ cảm thấy ta không coi hắn là chiến hữu tâm phúc.”
Tống Bi Phong nói: “Việc này cứ để huynh châm chước mà làm đi! Huynh còn hiểu rõ tâm thái của thế gia tử đệ Kiến Khang hơn đệ nhiều.”
Lưu Dụ hỏi: “Chẳng phải Tống đại ca đã từng nói là có thể lợi dụng sức ảnh hưởng do An công lưu lại để liên kết thành một thế lực ở Kiến Khang sao?”
Tống Bi Phong gật đầu: “Đúng là như thế. Nhưng có thể tranh thủ được bao nhiêu người đứng về phía chúng ta thì phải thử mới biết được.”
Lưu Dụ lắc đầu: “Việc đó cứ tạm hoãn đừng làm vội. Sợ nhất là truyền đến tai Tư Mã Đạo Tử sẽ khơi dậy nỗi nghi ngờ của lão. Cách làm thông minh nhất của ta hiện nay là nằm im chờ đợi đến lúc cơ hội vào tay chúng ta.”
Tống Bi Phong đồng ý: “Huynh hiểu rồi.”
Lưu Dụ tiếp: “Ta còn cần thiết lập liên hệ với Biên Hoang tập, nắm rõ tình hình Biên Hoang tập. Tư Mã Đạo Tử tạm thời dung cho ta, một trong những nguyên nhân là thấy chỗ tốt mà Biên Hoang tập có thể mang lại cho lão. Chúng ta phải lợi dụng cho tốt điểm này.”
Tống Bi Phong nói: “Việc này không thành vấn đề. Phía Văn Thanh tiểu thư có người thường trú ở đây, có thể dùng phi cáp truyền thư trao đổi tin tức với Biên Hoang tập.”
Lão lại tiếp: “Tiểu Dụ đệ có lời gì cần huynh thông tri cho Văn Thanh tiểu thư không?”
Trong lòng Lưu Dụ nổi lên thiên ngôn vạn ngữ, nhưng lại có cảm giác mâu thuẫn không biết nên nói từ đâu. Cuối cùng đáp: “Nói cho nàng biết đệ vẫn an toàn mạnh khỏe. Lưu Lao Chi tạm thời không làm phiền được đệ. Bây giờ đệ đang chờ đơi cơ hội lãnh quân dẹp loạn.”
Tống Bi Phong nói: “Việc đó cứ để cho huynh.”
Lão lại do dự hỏi: “Đệ thực không muốn nói gì thêm ư?”
Lưu Dụ ngấm ngầm thở dài. Tâm tình của mình bây giờ làm sao cho phép nhi nữ tư tình xen vào?
Gã lắc đầu biểu thị không có.
Tống Bi Phong muốn nói lại thôi, cuối cùng cũng không nói gì thêm.
Lưu Dụ nói: “Thời gian không còn nhiều. Chúng ta chia đường hành sự thôi!”
Tống Bi Phong lại không hề có ý động thân, trầm giọng hỏi: “Sau khi gặp Vương Hoằng, huynh có nên đến Tạ gia gặp đại tiểu thư không?”
Lưu Dụ cũng vì lão mà cảm thấy khó xử.
Tống Bi Phong lại than: “Đệ nói đi! Vì An công, huynh làm sao thấy chết mà không cứu, ngồi nhìn nhị thiếu gia đi chiến trường tìm chết đây?”
Lưu Dụ đáp: “Lão ca vẫn không thể bỏ được suy nghĩ đó vì lão ca không như đệ được tự tai nghe những gì nhị thiếu gia nói. Quyền lực và quang vinh làm người ta mù quáng. Tối qua, đệ rất muốn hỏi nhị thiếu gia một câu là tại sao trước đây Huyền soái không trực tiếp đem binh quyền Bắc Phủ binh giao cho ông ta? Với uy thế của Huyền soái trước khi tạ thế thì Huyền soái tuyệt đối có thể làm được việc đó. Tư Mã Đạo Tử cũng không dám phản đối. Nhưng giờ thì binh quyền lại rơi vào tay Lưu Lao Chi. Câu hỏi đó đương nhiện đệ không dám nói ra.”
Tống Bi Phong thở dài.
Lưu Dụ lại tiếp: “Nhị thiếu gia luôn luôn tự thị vô cùng. Huyền soái chết đi, ông ta càng nhận mình là cột trụ chống giữ phương Nam với hào quang ngày trước của trận chiến Phì Thủy. Cho nên, giờ đây bỗng nhiên nắm được một phần binh quyền của Bắc Phủ binh, lại nhận trọng trách thảo phạt Tôn Ân nên ông ta không còn coi ai ra gì, kiêu ngạo khinh địch. Vì thế, kể cả đại tiểu thư cũng khó gây ảnh hưởng với ông ta như trước nữa. Tống đại ca cứ đi gặp đại tiểu thư, nhưng không nên đề cập đến chuyện của nhị thiếu gia. Nếu không sẽ chỉ làm đại tiểu thư càng thương tâm hơn mà thôi.”
Tống Bi Phong nói: “Huynh hiểu đệ nói gì, nhưng mà….”
Lưu Dụ nói: “Lão ca cho rằng đệ không quan tâm gì đến Tạ gia sao? Vì Huyền soái, đệ có thể hy sinh cho Tạ gia.”
Khi buột mồm nói câu đó, trong lòng Lưu Dụ nổi lên một nghi vấn.
Gã quả thực có thể vì Tạ gia mà bất kể hy sinh gì hay không? Ngay cả gã cũng không dám khẳng định. Gã có thể vì Tạ Huyền mà liều mạng, nhưng đối với Tạ gia không còn Tạ Huyền nữa thì sao? Đối với gã, việc quan trọng nhất trước mắt là ngồi lên vị trí thống lĩnh Bắc Phủ binh. Chỉ khi chấp chưởng Bắc Phủ binh thì gã mới có thể lập ra được mục tiêu. Vào lúc này, gã cảm thấy rõ ràng quan hệ giữa gã và Tạ gia do Tạ Diễm làm chủ đã nhạt đi rất nhiều rồi.
Tống Bi Phong bày tỏ: “Huynh không hề có ý đó. Huynh cũng rõ hoàn cảnh của tiểu Dụ.”
Lão lại cười khổ: “Nhị thiếu gia quả thực không có cơ hội thắng sao?”
Lưu Dụ đáp: “Khuyết điểm của nhị thiếu gia, thật ra cũng là khuyết điểm của cao môn danh sỹ Kiến Khang là luôn cao cao tại thượng, chỉ vì lợi ích của cao môn đại tộc. Họ không hiểu căn nguyên tạo thành và nuôi dưỡng cuộc phản loạn của Tôn Ân, chỉ xem Tôn Ân là loại tà ma dùng yêu ngôn mê hoặc dân chúng và những người đi theo lão toàn chỉ là ngu dân bị lão mê hoặc. Sự thật đương nhiên không phải đơn giản như thế. Thiên Sư quân quật khởi nhanh chóng như vậy cho thấy lòng dân oán hận vô cùng sâu sắc. Để bình loạn một cách thực sự thì triều đình tất phải làm từ căn nguyên nguồn gốc để dân chúng bớt hận. Nếu không, sau Tôn Ân này sẽ có vô số Tôn Ân khác. Mối loạn từ dân chúng không phải chỉ dùng biện pháp giết chóc mà át chế được.”
Tống Bi Phong chán nản: “Chúng ta đi thôi.”
Hai người trả tiền rồi đi ra đường.
Hôm nay thời tiết rất đẹp, ánh mặt trời rực rỡ. Trên đường, xe cộ và người qua lại tấp nập phồn thịnh vô cùng khiến hai người rất khó liên tưởng tới đêm dài đằng đẳng vừa qua. Chỉ trong một đêm mà có bao biến hóa liên quan tới sinh tử tồn vong. Tầm quang trọng còn có thể ảnh hưởng tới vận mệnh tương lai của Hán tộc phương Nam.
Tống Bi Phong nói: “Hy vọng mọi thứ sẽ có một sự khởi đầu mới.”
Lưu Dụ nói: “Đối với đệ mà nói, mỗi ngày đều là một sự khởi đầu mới, cho thấy đệ đã sống thêm thêm được một ngày nữa. Hà! Lão ca trân trọng.”
Gã vỗ vỗ vai Tống Bi Phong rồi theo đường lớn bỏ đi.
Tống Bi Phong nhìn theo lưng gã, trong lòng nổi lên cảm giác kỳ dị.
Lưu Dụ có thể thay đổi vận mệnh của Hán tộc phương Nam không?
--------------------------------------
Chú thích:
° Thắng ngay trong trận đầu
°° Không được tự do làm gì thì làm