Hồi 91
Tần Hoài Chiến Vân

    
ánh buồm nhanh chóng rời hẻm Ô Y, xuôi theo sông Tần Hoài hướng về Hoài Nguyệt lâu. Vương Hoằng cùng người tùy tùng bên hắn là Lưu Dụ giả trang đứng ở đầu thuyền, chăm chú lưu ý tình huống trên sông. Nói cho cùng, hai người đều không biết Can Quy sẽ chọn loại thủ đoạn nào để tiến hành ám sát, toàn bộ chỉ dựa vào suy đoán.
Lưu Dụ cảm khái nói: “Không có Kỷ Thiên Thiên của Tần Hoài hà, Kiến Khang phải chăng rất đỗi buồn tẻ?”
Vương Hoằng giọng điệu có kèm theo chút lo lắng nói: “Chỉ nghe câu hỏi của Lưu huynh liền biết Lưu huynh không hiểu chúng ta.”
Lưu Dụ kinh ngạc hỏi: “Điều này và việc có minh bạch các ngươi hay không có quan hệ gì?”
Vương Hoằng đáp: “Đương nhiên có quan hệ lớn, bản lĩnh lớn nhất của Kiến Khang tử đệ chúng ta là khinh thường cười ngạo thế gian, không có sự việc gì là không thể tiếp nhận, việc lớn như thay đổi triều đại, việc nhỏ như Kỷ Thiên Thiên rời Kiến Khang, chúng ta đều có thể tìm cách gửi gắm tình cảm. Quan trọng nhất là chúng ta có thể duy trì được phương thức sinh hoạt. Chúng ta sợ hãi Tôn Ân, cố kị Lưu Lao Chi, nhưng không sợ Hoàn Huyền, bởi vì Hoàn Huyền cùng với chúng ta là loại người giống nhau.”
Hắn hơi ngừng lại rồi tiếp tục nói: “Nói thẳng ra, trước đây ta cũng là loại người này, đến khi thảm bại trong tay Tiêu Liệt Vũ mới tỉnh ngộ, bằng không sau khi trở về Kiến Khang, ta vẫn tiếp tục lối sinh hoạt thỏa thích buông trôi, túy sanh mộng tử. Đó xác thực là phương thức khiến người dễ dàng sa vào và chìm đắm, nói là quên đi hiện tại cũng đúng, bất mãn với hiện trạng cũng đúng, dù sao sinh hoạt như vậy cũng không có phiền não.”
Lưu Dụ tâm thần chấn động, thầm nghĩ bản thân xác thực là chưa hiểu rõ cao môn tử đệ Kiến Khang. Chỉ khiêm tốn xin thỉnh giáo: “Vương huynh có thể chỉ điểm cho ta phương diện này không?”
Vương Hoằng trầm ngâm giây lát đáp: “Chỉ cần huynh hiểu rõ Thanh Đàm là việc gì thì sẽ nắm bắt rõ ràng tâm thái của sĩ tộc chúng ta. Trước tiên là từ cuối thời Đông Hán, thiên hạ đại loạn, tầng lớp đại phu đã bất mãn hiện thực xã hội, lại không thể thay đổi và càng nhìn thấu các việc xấu xa của nhân tình thế gian, mâu thuẫn đã hình thành như vậy. Đến Đại Tấn chúng ta an phận ở Giang Tả. Nhiều lần bắc phạt đều không thành quay về, quốc nghiệp thật đã dần tiến tới cảnh tuyệt vọng, chúng ta chỉ có thể từ tinh thần tìm lối thoát, về tâm linh hoặc về hành vi đều khao khát có được tự do và giải thoát. Thanh Đàm là làm theo tư tưởng tự tìm đường về của Lão Trang và Phật môn, ly khai hiện thực tàn khốc, dựa vào đàm luận từng người sẽ lĩnh hội quan điểm, phân tích những chỗ kỳ diệu để ký thác tinh thần.”
Lưu Dụ nghe thấy chỉ lờ mờ hiểu, lắc đầu nói: “Ta vẫn không minh bạch lắm.”
Vương Hoằng mỉm cười nói: “Lưu huynh bởi vì chưa từng tham gia Thanh Đàm yến hội của chúng ta, cho nên không thể bằng một vài câu nói của ta mà hiểu được tình huống kì diệu trong đó. Qua đêm nay, Lưu huynh sẽ có nhận thức mới.”
Lưu Dụ sửng sốt hỏi: "Đêm nay nếu thực sự có một cuộc tụ họp Thanh Đàm, bảo ta làm sao mà ứng phó?”
Vương Hoằng đáp: "Đêm nay tuyệt không phải là buổi yến hội được sắp đặt để Thanh Đàm, nhưng Thanh Đàm đã trở thành một bộ phận trong sinh hoạt của nhân sĩ chúng ta, bất cứ cuộc tụ họp nào rồi cũng sẽ tự nhiên tràn ngập không khí Thanh Đàm. Tuy nhiên ta rất tin tưởng vào kinh nghiệm và kiến thức của Lưu huynh, tất có phương pháp khác để ứng phó.”
Lưu Dụ vốn đối với Thanh Đàm không có nửa điểm hứng thú, nhưng để không bất lực trước buổi yến hội sắp tới, buộc lòng phải hỏi thêm vài câu để tăng thêm nhận thức đối với Thanh Đàm: “Vương huynh ban nãy nói về nguồn gốc bắt đầu của Thanh Đàm dường như chưa hết ý, đúng không?
Vương Hoằng gật đầu: “Đúng vậy! Thanh Đàm sở dĩ có thể có thành tựu như vậy còn có một vài nguyên nhân. Thanh Đàm còn gọi là Huyền Đàm, bởi vì Thanh Đàm không tách rời với Tam Huyền.”
Lưu Dụ bắt đầu cảm giác bộ óc phình to như quả dưa, bởi vì mặc dù gã có nghe sơ sơ về phong trào Thanh Đàm thịnh hành, nhưng thực chất không phải là người đọc sách, cho nên một chút cũng không biết, cười khổ hỏi: “Tam Huyền là cái gì?”
Vương Hoằng giải thích: “Tam Huyền chính là Lão Tử, Trang Tử và Chu Dịch, cùng gọi là “Tam Huyền”. Trào lưu này bắt đầu từ thời Tào Ngụy, danh sĩ trong triều là Hà Yến, Vương Bật đứng đầu “Chánh Thủy Huyền Phong”. Kỳ thật đó là mười người cùng chống lại việc học theo truyền thống Nho gia, vì bất mãn với quan niệm đạo đức cứng nhắc và sự trói buộc của lễ giáo truyền thống, chuyển sang ngưỡng mộ tư tưởng mọi thứ đều thuận theo tự nhiên của Lão Trang. Thế là theo ngôn luận huyễn hoặc này, tiến tới hành vi phóng đãng cũng không bị xem là lầm lỗi, quan trọng nhất là phẩm chất cao quý, tâm hồn thanh khiết, còn việc có thể giúp dân cứu nước hay không, lại không phải là vấn đề bọn họ quan tâm.”
Lưu Dụ ngạc nhiên hỏi: “Như vậy nếu bàn luận về những lý lẽ huyễn hoặc này thì có thể vui vẻ cả đêm sao?”
Vương Hoằng vui vẻ trả lời: “Người chưa thử qua Thanh Đàm thì rất khó mà hiểu được diệu thú trong đó. Thanh Đàm khi bắt đầu, mọi người cùng nắm tay nhau đi vào một cảnh giới khác, vứt bỏ hiện thực lãnh khốc lên chín tầng mây. Hiện thực đối với người Thanh Đàm không có bất kỳ quan hệ và ảnh hưởng nào, càng không nhận bất cứ sự trói buộc nào của lễ giáo. Mọi người phóng túng không gò bó, thỏa thích rượu vui, vài người còn ăn ngũ thạch tán, thông qua các loại phương pháp đạt đến cảnh giới không âu lo, tự do tự tại. Cực điểm Thanh Đàm hư vô, nhưng cũng cực điểm phong nhã.”
Lưu Dụ quan sát kỹ hắn nói: “Vương huynh dường như đặc biệt hưởng thụ niềm vui Thanh Đàm.”
Vương Hoằng chán nản đáp: “Nói không hưởng thụ là lừa huynh. Bất quá ta cũng hiểu đó là uống rượu độc để ngừng cơn khát, mà không có chọn lựa khác, cũng có thể cái đó được xem như cách bảo mệnh tốt nhất. Cái gọi là bổng đả xuất đầu điểu°, ngươi xem trên thực tế các danh sĩ muốn có thành tựu bậc nhất, có người nào có kết cục tốt đẹp không? Kể cả An công và Huyền soái trong đó. Vương Cung và Vương Quốc Bảo càng không cần phải nói đến. Hiện tại huynh cần hiểu rõ chúng ta hơn, trừ phi rơi vào tình thế hết sức đặc thù, cao môn Kiến Khang chỉ khoanh tay đứng nhìn coi mọi việc như đã qua, họ không muốn từ bỏ sinh hoạt túy sanh mộng tử, họ căn bản không đủ dũng khí đối diện với tình huống hiện thực. May thay tình huống hiện tại đúng là hết sức đặc thù, nếu để Tôn Ân chiếm được Kiến Khang, bọn thổ hào Nam phương tích oán lâu ngày sẽ lan tràn thành họa, hủy diệt hoàn toàn kiều ngụ thế tộc, chúng ta đang sợ hãi, khát vọng có cứu tinh, và Lưu huynh hiện tại đã trở thành lựa chọn số một của chúng ta."
Lưu Dụ hời hợt hỏi: “Hoàn Huyền không phải là một lựa chọn khác sao?”
Vương Hoằng đáp: “Đúng như vậy. Hoàn Huyền bản thân cũng là kiều ngụ thế tộc, có thù sâu như biển với Tôn Ân kẻ đại diện thổ hào Nam phương, thế bất lưỡng lập, hắn có trở thành một Hoàn Ôn khác hay không cũng không quan hệ, quan trọng nhất là hắn có thể bảo vệ lợi ích của chúng ta. Nhưng hắn đã hại Đạm Chân tiểu thư tự sát thân vong, kích thích sự công phẫn của chúng ta, khiến địa vị hắn trong lòng chúng ta sụp đổ, cũng khiến cho Lưu huynh so với hắn uy thế đại tăng.”
Lưu Dụ hỏi: “Bọn họ dám tin tưởng ta, một tên áo vải này sao? Giữa hào môn và hàn môn là trùng trùng mâu thuẫn.”
Vương Hoằng trả lời: “Nói đúng ra, chúng ta chẳng những không tín nhiệm hàn sĩ áo vải, mà còn coi thường họ. Nhưng Lưu huynh không phải là kẻ áo vải bình thường, mà là người Huyền soái tự tay chọn lựa, lại được An công gật đầu đồng ý. Lưu huynh về phương diện bối cảnh này khiến chúng ta cảm thấy huynh sẽ là người suy nghĩ tới đại cục, sẽ bảo vệ ích lợi và phương thức sinh hoạt của chúng ta, khôi phục lại xã hội ổn định và thịnh vượng thời An công và Huyền soái đương quyền.”
Lưu Dụ cười khổ nói: “Vương huynh rất thẳng thắn. Huynh nói nghĩ tới đại cục là chỉ về phương diện nào?”
Vương Hoằng nói: “Đại cục trong lòng ta là chỉ về toàn bộ kết cấu và sự an bình của xã hội. Sự xuất hiện và sự trở thành tầng lớp thống trị của cao môn không phải là chuyện một sớm một chiều, mà là bắt đầu từ cuối thời Đông Hán, sự đánh giá về nếp sống giới thượng lưu và chế độ cửu phẩm trung chính đã thành thâm căn cố đế. Bất luận người nào muốn thay đổi triệt để tình huống này, sẽ khiến cho toàn bộ cơ cấu xã hội sụp đổ, mọi người không có chỗ để nghe theo, phương Nam chia năm xẻ bảy, càng khó chống lại Hồ tộc phương Bắc.”
Hắn lại than: “Những lời này ta kìm nén trong lòng từ rất lâu! Trước đếnte; thể tin tưởng tuyệt đối.”
Giang Văn Thanh cười: “Việc Lưu gia phân phó, Văn Thanh không dám không tuân theo. Bọn ta sẽ thông qua quan hệ với Khổng lão đại để duy trì liên hệ mật thiết với chàng. Nếu quả chàng không thể làm gì ở Bắc Phủ binh thì hãy quay về Biên Hoang nhé! Đường đi tuyệt không chỉ có một.”
Lưu Dụ trầm giọng: “Ta hoặc bị người hại chết, hoặc thành lãnh tụ tối cao của Bắc Phủ binh, căn bản không có con đường thứ hai. Nếu không chỉ còn cách ngồi chờ chết ở Biên Hoang tập, hoàn toàn mất hết sự năng động tự chủ của mình.”
Giang Văn Thanh cúi đầu không nói.
Lưu Dụ nói: “Chúng ta cách trở hai nơi, vạn nhất khi có việc thì nước xa không cứu được lửa gần. Nhưng nàng có thể giúp ta một tay, tăng thêm thanh thế cho ta.”
Giang Văn Thanh vui mừng hỏi: “Văn Thanh có thể làm được gì cho Lưu gia?”
Lưu Dụ đáp: “Đó là việc kết thành quan hệ bạn bè làm ăn mật thiết với Khổng lão đại. Biên Hoang tập vẫn cần một thời gian mới có thể hồi phục lại được. May là chúng ta đoạt được một số lớn chiến mã thượng đẳng từ tay địch nhân. Phương Nam chỗ nào cũng thiếu thốn chiến mã. Chúng ta có thể dùng nó để tranh thủ tình cảm của Khổng lão đại, cung cấp chiến mã với giá chỉ bằng một nửa cho Khổng lão đại như lần trước, để lão thu được lợi lớn thì tự nhiên lão sẽ hiểu chúng ta là những người luôn giữ chữ tín và trọng tình trọng nghĩa trong giao dịch. Khổng lão đại là cường hào một phương quan hệ mật thiết với Bắc Phủ binh. Nếu lão hoàn toàn đứng về phía ta thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thành bại của ta.”
Giang Văn Thanh đáp: “Tình hình Biên Hoang tập bây giờ khác rồi. Tất cả đều phải được hội nghị đồng ý mới có thể bán một phần chiến mã với giá ưu đãi cho Khổng lão đại được.”
Lưu Dụ đáp: “Nàng và Trình công, lão Phí chiếm ba ghế rồi. Chỉ cần nàng cho Đồ Phụng Tam biết đó là ý kiến của ta thì hắn sẽ phụ trách việc thuyết phục những thành viên khác. Mọi người đều là người hiểu biết, sẽ nghĩ cho đại cục. Việc đó có thể dễ dàng thông qua.”
Giang Văn Thanh tinh nghịch nói: “Đúng! Ý tứ của Lưu gia, ai dám chống lại đây?”
Lưu Dụ cười khổ: “Nàng không cần gọi ta là Lưu gia nữa, làm ta cảm thấy không được thoải mái.”
Giang Văn Thanh yêu kiều cười phì một tiếng, hỏi: “Người ta gọi Lưu gia là gì đây? Chẳng lẽ lại như lúc mới quen, cứ Lưu huynh nọ Lưu huynh kia ư?”
Lưu Dụ cảm thấy tim mình đập mạnh. Khi Giang Văn Thanh lộ vẻ kiều mỵ của nữ nhân quả thực có sức hấp dẫn gã rất lớn. Chỉ cần là nam nhân, ngắm nhìn bộ dạng yêu kiều của nàng lúc này ai có thể không bấn loạn?
Gã lại nhớ lại tình cảnh cảm động khi lần đầu tiên gặp Vương Đạm Chân ở Tạ phủ. Khi đó, Vương Đạm Chân đối với gã cao không thể với tới, chỉ có thể từ xa ngắm nhìn, lại không thể lộ ra chút ý ngưỡng mộ nào làm nàng coi thường mình và cười Lưu Dụ gã là kẻ muốn ăn thịt thiên nga.
Lúc đó gã không thể ngờ mình cùng với thiên chi kiều nữ của cao môn đại tộc Kiến Khang đó lại phát triển thành một mối tình đau khổ có kết cục thê thảm như thế.
Nghĩ đến đây, trong lòng gã đau đớn vô cùng.
Giang Văn Thanh thúc giục gã: “Mau nói đi! Gọi chàng là gì thì được đây?”
Lưu Dụ áp chế nỗi đau đớn trong lòng xuống, đáp: “Gọi ta là Lưu đại ca được không?”
Giang Văn Thanh lộ vẻ thẹn thùng cúi gằm mặt xuống, thỏ thẻ khẽ gọi: “Lưu đại ca!”
Một luồng nhiệt huyết xông thẳng lên đầu Lưu Dụ. Trái tim gã suýt tan chảy, không nói nên lời. Nếu thế mà còn chưa biết tình ý của Giang Văn Thanh đối với mình thì gã sau này không thể sống trong tình trường được nữa.
Giang Văn Thanh lại nhìn gã, ôn nhu hỏi: “Tại sao chàng không nói gì? Ta gọi khó nghe lắm sao?”
Lưu Dụ đáp: “Đương nhiên rất dễ nghe”, rồi gã lộ vẻ lúng túng hỏi: “Nàng còn nhớ tình cảnh ngày đó khi hai ta cùng nhau chạy trốn về Thọ Dương rồi bỗng nghe tin Yến Phi chém chết Trúc Pháp Khánh không?”
Giang Văn Thanh nhớ lại chuyện xưa, đáp: “Ta có chút bối rối đối với những chuyện phát sinh trong quá khứ. Tưởng chừng như hôm qua bị người ta đoạt mất Biên Hoang tập, hôm nay lại đoạt lại về tay mình. Cảm giác cực kỳ cổ quái.”
Lưu Dụ trầm giọng: “Ký ức con người quả thật rất thần kỳ. Có những việc nàng sẽ ghi nhớ sâu sắc rõ ràng, nhưng có những việc lại dần dần quên lãng. Nhưng những việc phát sinh trước đây đã thành quá khứ, quan trọng nhất là làm sao nắm cho chắc tương lai của chúng ta. Con đường đó tuyệt không dễ dàng, nhưng chúng ta sẽ nắm tay nhau từng bước từng bước tiến lên, không một ai có thể cản trở chúng ta được.”
Nói xong, gã đứng dậy.
Giang Văn Thanh đứng lên theo, đôi mắt xinh đẹp long lanh trong bóng đêm. Nàng trân trọng đeo bao hành lý nhỏ lên vai gã, dịu dàng thốt: “Chàng hãy sống để về đây gặp ta. Nếu không có chàng, ta sẽ mất hết lòng tin và đấu chí.”
Hai tay Lưu Dụ nắm chặt hai vai nàng, nhìn sâu vào trong mắt nàng nói: “Sẽ có một ngày Đại Giang bang trùng chấn thanh uy.”
Nói xong gã phi thân đi mất.
Thác Bạt Khuê và một toán tướng lĩnh thân binh, dưới ánh nắng ấm áp đang giục ngựa chạy lên một khu núi cao phía đông nam Thịnh Nhạc, phóng mắt nhìn quanh.
Thân binh tản ra bốn phía để phòng thủ. Theo hắn lên núi chỉ toàn là đại tướng và mưu thần mà hắn tin cậy nhất trong đó có Trưởng Tôn Tung, Thúc Tôn Phổ Lạc, Trương Cổn, Hứa Khiêm và Trưởng Tôn Đạo Sinh.
Thác Bạt Khuê hỏi: “Tất cả đã chuẩn bị xong chưa?”
Trưởng Tôn Tung đáp: “Tất cả đã chuẩn bị xong rồi, tùy lúc có thể khởi hành. Xin tộc chủ cho biết lần này chúng ta đi đâu?”
Thác Bạt Khuê không trả lời hắn, cười nhẹ: “Nếu đổi ta là người Hán, biết rõ không dùng chiêu đó thì không được, nhưng cũng không thể bỏ vì đất đai của chúng chính là tài phú của chúng. Người có thể đi, nhưng đất đai thì không thể di chuyển được. Vì thế, cho tới nay, Thác Bạt tộc của chúng ta vẫn chưa thoát khỏi phương thức sinh hoạt di cư. Nói đi là đi, hôm sau là có thể di chuyển rồi.”
Mọi người gật đầu khen phải.
Rõ ràng tâm tình Thác Bạt Khuê cực tốt, cười nói oang oang: “Ta chưa từng nói lần này sẽ đi đâu vì Thác Bạt tộc chúng ta vẫn trong tình trạng liên minh giữa các bộ lạc. Những tù trưởng khác bề ngoài thì coi ta là chủ nhân của Thác Bạt tộc, nhưng dưới sự uy hiếp của Mộ Dung Thùy, không thể đảm bảo không có ai đó bán đứng chúng ta. Vì thế trước khi tiến vào đại thảo nguyên thì hành tung phải đảm bảo bí mật. Lúc đầu phải chia thành nhiều lộ mà tiến, làm người khác không thể hiểu rõ điểm đến của chúng ta. Sau khi tiến vào đại thảo nguyên rộng lớn vô biên rồi thì chúng ta sẽ không còn sợ bị bị đuổi theo hoặc bị phục kích nữa. Hà! hiện nay, ở Tái Bắc ai dám đến khiêu chiến Thác Bạt Khuê ta?”
Mọi người lại hò reo hưởng ứng.
Thác Bạt Khuê hô hô cười rộ, khí phách ngạo nghễ thiên hạ, điềm nhiên nói: “Sau khi qua giờ Ngọ, chúng ta lập tức khởi trình. Điểm đến là thảo nguyên Sắc Lặc phía đông bắc Thịnh Nhạc.”
Trưởng Tôn Đạo Sinh ngạc nhiên: “Thảo nguyên Sắc Lặc cách Thịnh Nhạc hơn ngàn dặm, không sợ xa quá sao?”
Thác Bạt Khuê ung dung trả lời: “Chỉ có như thế thì Mộ Dung Bảo dù có tám vạn tinh kỵ cũng hoàn toàn không có cách nào tìm được chủ lực của chúng ta. Lúc đó thì hắn không thể tiến nhưng lại không muốn lùi. Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan đó, chính tay Thác Bạt Khuê ta sẽ xuất thủ dâng lên hắn một đại lễ diện kiến.”
Trương Cổn không hiểu hỏi: “Tộc chủ chẳng phải đã nhiều lần nói qua đây là cơ hội duy nhất chúng ta có thể làm lung lay căn cơ của Đại Yên sao? Nếu quả Mộ Dung Bảo biết khó mà lui, tiện đường thu phục Bình Thành và Nhạn Môn thì chúng ta sẽ mất cơ hội tốt ngàn năm có một sao?”
Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Trong số hai vạn rưỡi chiến sỹ của chúng ta chỉ lưu lại hai ngàn người ở đó, nhưng hai ngàn người này là chiến sỹ tinh nhuệ nhất của chúng ta, toàn là cao thủ nhất đẳng về kỵ xạ và thân kinh bách chiến. Người nào cũng có thể lấy một địch mười.”
Lần này thì Thúc Tôn Phổ Lạc nghe xong nhíu mày, không hiểu hỏi: “Bất kể là hai ngàn người đó kiêu dũng thiện chiến thế nào, nhưng địch nhân tinh binh tướng giỏi, nhân số lại nhiều hơn vài chục lần. Chúng ta tối đa cũng chỉ quấy rối địch nhân mà thôi. Chỉ sai sót một chút là toàn quân mất hết. Xin tộc chủ nghĩ lại.”
Thác Bạt Khuê cười nhẹ: “Đó chỉ là một bộ phận nhỏ trong tổng thể sách lược tác chiến của ta. Hai ngàn chiến sỹ đó tuyệt không cần khiêu chiến tám vạn đại quân Mộ Dung Bảo, mà chỉ cần đùa giỡn với cái tên ngu xuẩn Mộ Dung Bảo tự đại hiếu thắng đó, đồng thời giám thị địch nhân. Cánh quân đó sẽ do ta tự thân chỉ huy, di chuyển linh hoạt. Ta sẽ cho Mộ Dung Bảo nếm mùi lún sâu vào đất địch như thế nào.”
Hắn lại tiếp: “Lần này số tộc nhân tạm thời tránh lên phía bắc đạt mười vạn, súc vật hơn trăm vạn con, cần có đủ binh lực bảo vệ tránh người khác thừa cơ. Đặc biệt phải phòng ngừa người Nhu Nhiên đánh lén và cướp bóc. Việc này giao cho Trưởng Tôn Tung chỉ huy, dẫn theo hai vạn ba ngàn chiến sỹ, chịu trách nhiệm nặng nề đảm bảo an toàn trên đường.”
Trưởng Tôn Tung lộ vẻ chán nản đáp ứng. Chỉ nhìn thần sắc hắn là biết trong lòng hắn không được thoải mái.
Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Tất cả chỉ là kế mê hoặc địch, làm Mộ Dung Bảo lầm tưởng chúng ta trốn tránh mà không dám đánh. Thật ra, lực lượng bộ đội chủ lực đó tuy ở xa ngàn dặm, nhưng chỉ cần mỗi ngày thay ngựa ba lần là có thể quay trở lại trong vòng ba ngày, vẫn không mất khả năng tác chiến. Khi Mộ Dung Bảo không chịu đựng nổi, lộ ý lui binh chính là cơ hội tốt để chúng ta ngày đêm không nghỉ quay trở lại. Hà! Các ngươi nghĩ ta sẽ tha cho Mộ Dung Bảo sao?”
Chúng tướng nghe xong tinh thần đại chấn, lúc này mới biết Thác Bạt Khuê đã định ra một sách lược tác chiến hoàn chỉnh.
Thác Bạt Khuê lại phân phó Trương Cổn: “Ngươi phụ trách nhiệm vụ dùng phong hoả truyền tin tức đi ngàn dặm. Khi thấy khói bốc lên là biết thời gian bọn ta phản kích đã tới.”
Chúng tướng dạ to vâng lệnh, sỹ khí đại chấn.
Kế này của Thác Bạt Khuê quả là không có chỗ hở để đánh vào. Mộ Dung Bảo lao sư viễn chinh, lại không tìm thấy chủ lực địch nhân, không thể mãi mãi đóng quân ở đó, tiêu hao thời gian và lương thảo. Khi hắn lui binh, vì sai lầm cho rằng đại quân chủ lực của Thác Bạt tộc vẫn còn ở xa ngoài ngàn dặm sẽ sơ hở không đề phòng. Hơn nữa, lúc lui binh thì quân tâm phân tán, người nào cũng muốn mau chóng quay về, đúng là thời cơ tốt nhất để đánh phá chúng.
Thật ra, quân đội của Thác Bạt tộc đứng vào thế bất bại. Tình huống xấu nhất cũng chỉ là để cho Mộ Dung Bảo và người của hắn an nhiên quay về, lấy lại hai đại trọng trấn là Bình Thành và Nhạn Môn.
Hứa Khiêm hỏi: “Chúng ta xử trí Thịnh Nhạc thế nào?”
Thác Bạt Khuê thản nhiên nói: “Đốt cháy hết đi.”
Mọi người vô cùng ngạc nhiên.
Thác Bạt Khuê nói: “Dưới tình hình đó, Thịnh Nhạc còn có thể giữ được sao? Cứ cho rằng chúng ta dùng cách tiêu thổ thì khi Mộ Dung Bảo lui binh cũng sẽ hủy diệt nó đi để tiết hận. Hiện giờ là lúc Mộ Dung Bảo từ xa tới, thấy Thịnh Nhạc chỉ là một toà thành hoang phế, khẳng định sẽ nổi trận lôi đình. Thủ hạ tướng sỹ cảm thấy thất vọng. Để đạt mục đích nêu trên, hủy đi Thịnh Nhạc coi như cái giá phải trả, thật ra vẫn là dùng hết giá trị của nó, đạt được giá trị tuyệt đối.”
Mọi người nghe xong thấy chấn động kinh hãi. Thủ đoạn của Thác Bạt Khuê quả nằm ngoài suy nghĩ của con người, qủy bí kỳ dị khó lường.
Hai mắt Thác Bạt Khuê thần quang lấp loáng, mục quang nhìn về phía Đại Hà đang cuộn chảy xa xa phía tây nam, trầm giọng nói: “Sau khi đánh bại Mộ Dung Bảo thì có thể tiến thẳng về Bình Thành, uy hiếp Trung Sơn. Mộ Dung Thùy không còn cách nào khác, phải tự thân xuất chinh đến đối phó chúng ta.”
Tiếp đó hắn cười lãnh khốc nói: “Sông có khúc, người có lúc, Mộ Dung Thùy sẽ phát giác hắn đã mất cơ hội đánh bại chúng ta. Hà! Chỉ cần Mộ Dung Thùy nuốt hận trong tay ta thì ở phương Bắc còn ai dám đối đầu với Thác Bạt Khuê ta nữa?”
Hắn lại hỏi: “Có tin tức của Biên Hoang tập chưa?”
Trương Cổn đáp: “Tin cuối cùng nhận được là đại quân Hoang nhân chia binh nhiều lộ tiến tới Biên Hoang tập. Chiến sự vẫn đang nóng bỏng.”
Thác Bạt Khuê chầm chậm lắc đầu: “Thắng bại chắc đã rõ rồi. Hoang nhân căn bản không thể có năng lực đánh một trận lâu dài, sẽ chỉ là cuộc chiến một đêm một ngày. Ta hiểu rõ Lưu Dụ là người thế nào, thêm vào hảo huynh đệ Yến Phi của ta tương trợ hắn. Mới đây, họ đã có thể đại phá liên quân Kinh Châu và Lưỡng Hồ nhanh như chớp, thì họ cũng sẽ có bản lĩnh dùng thủ pháp sét đánh không kịp bưng tai để thu phục Biên Hoang tập, dạy cho hai cái tên tiểu nhân vô tri chỉ dựa vào oai cha là Diêu Hưng và Mộ Dung Lân một trận đích đáng.”
Mọi người im lặng không nói.
Biên Hoang tập có liên quan mật thiết với sự tồn vong và thành bại của bọn họ. Nếu như Biên Hoang tập trường kỳ rơi vào tay Mộ Dung Thùy thì kể cả họ có thể đánh bại Mộ Dung Bảo, nhưng vì mất sự chi trì của Biên Hoang tập ở nhiều phương diện, mất khả năng tiền hậu giáp kích thì thành quả của họ sẽ giảm đi rất nhiều.
Thác Bạt Khuê thở ra một hơi, vui vẻ nói: “Nếu như ta đoán không sai, lúc này Yến Phi đang trên đường đến đây. Rất mau thôi, ta có thể cùng với hảo huynh đệ của ta kề vai tác chiến rồi.”
Mọi người không biết nên đáp lời hắn thế nào vì Yến Phi có thể lập tức đến đây hay không phải xem xem Hoang nhân có thể như Thác Bạt Khuê đã hình dung, trong một thời gian ngắn một ngày một đêm sáng tạo kỳ tích, đoạt lại được Biên Hoang tập không.
Thác Bạt Khuê ngửa mặt nhìn trời, trong lòng vô cùng kích động.
Cuộc chiến tranh này tiêu biểu cho một cuộc tranh giành đẫm máu vô cùng quan trọng giữa các bộ tộc Tiên Ti. Vào cuối thời Đông Hán, người Tiên Ti di chuyển đến nơi ở cũ của người Hung Nô là thảo nguyên phía nam đại sa mạc, dần dần hình thành một liên minh bộ lạc lớn mạnh. Các bộ lạc bất đồng đó kết hợp, ly khai không nhất định, sự phát triển riêng có chỗ khác nhau. Đất đai của bộ tộc Mộ Dung ở gần Liêu Đông và U Châu, tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Hán rất sớm, là bộ lạc đầu tiên vượt lên, lập ra Yên quốc vào thời kỳ đầu Đông Tấn. Cuối cùng, tuy vì Phù Kiên mà sức mạnh giảm sút, nhưng thế lực vẫn tồn tại. Đế Quốc Phù Tần tan rã, hai nhánh thế lực của bộ tộc Mộ Dung lập tức quật khởi. Đấu tranh giữa Mộ Dung Thùy và Mộ Dung Vĩnh hiện nay chính là để giải quyết vấn đề ai là chủ nhân của Mộ Dung Tiên Ti tộc.
Tổ tiên của bộ lạc Thác Bạt nằm ngoài bộ lạc Mộ Dung, là một thế lực lớn nhất ngoài Tiên Ti tộc. Đến khi tổ phụ Thác Bạt Khuê là Thập Dực Kiền tại vị, kiến lập đại quốc, uy nhiếp miền Tái ngoại.
Nhưng cho đến tận ngày nay, bộ lạc Thác Bạt và các bộ lạc Tiên Ti lân cận vẫn ở trạng thái kết minh rời rạc. Tùy lúc mà bộ lạc hữu hảo bỗng nhiên biến thành thù địch.
Nhưng nếu như có thể đánh bại Mộ Dung Bảo thì toàn bộ tình hình sẽ thay đổi. Khi đó, Thác Bạt Khuê sẽ không còn mối lo đằng sau nữa, có thể vượt qua Trường Thành, lấy Bình Thành và Nhạn Môn làm căn cứ để triển khai đại nghiệp tranh bá Trung Nguyên, toàn lực cùng Mộ Dung Thùy quyết một trận tử chiến để định ra ai là chủ nhân phương Bắc.