HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BẢY
Di thân vương thuyết phục kẻ cầm tù
Vua hùng tài hăng bàn mưu trị nước

    
oãn Tường từ từ đứng dậy lững thững bước đến bên cửa sổ, nhìn ra bên ngoài qua tấm kính. Ngoài trời gió đã nổi lên, những cánh mây màu xám hoảng hốt lướt nhanh trên nền trời xám xịt. Rồi những đụn mây đen cuồn cuộn kéo về phía nam qua khoảng trống của những cây tùng cây bách già màu xanh thẫm, dường như chúng đang đuổi nhau, trông hệt như những chú cừu non bị mãnh thú rượt đuổi, liều mạng chạy trốn về phía nam. Gió gào thét luồn vào vườn lăng tẩm, rồi không theo một phương hướng nhất định, va đập loạn xạ vào cành cây và những bức tường, cuốn theo đám lá tàn và những sợi cỏ vàng cuối thu, tạo thành những luồng gió xoáy hết đợt này đến đợt khác nhảy múa trước điện thờ, nhà cửa hoang vắng không người. Doãn Tường bất lực nhắm mắt lại. Ông phụng chỉ đến đây với một mục đích thật rõ ràng, là động viên Cố Sơn bối tử này về Kinh. Vì Niên Canh Nghiêu đã chết, Sách-linh-a-la-bô-thản lại tụ hợp với vương công Mông Cổ ở vùng A Nhĩ Thái - Tân Cương, chống lại sách phong của triều đình, có nguy cơ đông tiến xâm chiếm lại Thanh Tạng. Một là Doãn Đề đã từng mang quân đi đánh Tây Đại Thông, triệu về kinh sư để tham dự và giúp đỡ việc quân, hai là bản thân Ung Chính cũng thấy Doãn Đề dù sao cũng là em cùng mẹ, sợ cầm tù lâu ngày sẽ gây những lời đồn đại không hay. Nhưng Doãn Đề đang trong tâm trạng như vậy, liệu có nghe theo sự sắp đặt của Ung Chính không?
Một cơn gió chướng cuốn theo cát bụi thốc vào cửa sổ, Doãn Tường thấy thế vội vàng tránh vào, đất cát đập vào cửa kính rào rào. Ông quay lại nhìn Doãn Đề, thì đã thấy hắn đang dửng dưng cầm bút viết - đây là kẻ thù lâu năm của ông, không những chính kiến bất đồng, mà còn mấy lần giở thủ đoạn gần như đẩy ông vào chỗ chết, vốn không còn tình cảm gì, nhưng Doãn Tường mấy năm nay sức khỏe giảm sút, đọc nhiều kinh Phật, những ân oán ngày xưa giờ chỉ thoảng qua như mây khói, từ lâu đã không còn ý định trả thù. Hơn nữa, ông cũng phần nào ngưỡng mộ cái tính cách gàn bướng của Doãn Đề. Một thời gian, Doãn Tường lòng rối như tơ vò, ông không thể không tuân chỉ khuyên răn cảm hóa Doãn Đề, nhưng trong lòng lại lo hắn về Kinh không an phận, lại mất oan mạng. Suy nghĩ một lúc, Doãn Tường xoay người lại, nhìn Doãn Đề đang cắm cúi viết thở dài một tiếng, nói:
- Đệ chẳng phải muốn hỏi ta hiểu cái gì sao?
- Vừa nãy là buột miệng nói ra thôi - Doãn Đề lấy sức đưa mạnh nét mác, không thèm ngẩng đầu lên, nói: - Bây giờ không muốn hỏi nữa.
Doãn Tường nói:
- Ta muốn nói là, ta từng bị giam cầm trong tường cao đúng 10 năm. Có lẽ đệ không quên chứ?
Doãn Đề đặt bút, uể oải ngồi xuống.
- Loại người như chúng ta, chọc giận thánh hay phạm tội, ngoài cái chết ra, thì giam cầm là hình thức nặng nhất.
Doãn Tường cười gượng nói:
- Nào là Thập tam Bối lặc phủ, nào là Tiểu Hoa viên, Tiểu Tứ hợp viện, ta đã bị cầm tù 10 năm. Trông bốn phương trời, trông bốn phương đất, xem kiến tha ruồi lên cây, nhìn hoa Thiên ngưu ở góc tường bò lên tường, nở hoa hết đợt này đến đợt khác, rồi lại khô vàng rơi rụng. So với ta, chút "cảnh ngộ" của đệ bây giờ có đáng gì?
- Ông vốn là "anh hùng" mà! - Doãn Đề cay độc nói móc: - Tôi lấy cái gì mà so với ông?
Doãn Tường vẫy vẫy tay, nói tỉnh queo:
- Anh hùng hay không anh hùng, chỉ có mình là rõ nhất, ta là người bình thường nhất trong những người bình thường. Ta bệnh tật đầy mình: mất ngủ, thân nhiệt không giảm, ho không dứt, tóc bạc quá nửa, ta lấy hết sức một ngày cũng chỉ làm việc được hai tiếng. Cái anh chàng "Thập tam lang bạt mạng" ngày xưa, đệ không bao giờ có thể thấy nữa!
Doãn Đề kinh ngạc nhìn Doãn Tường đang mỗi lúc một đến gần, khẩu khí của Doãn Tường cũng càng lúc càng hùng hổ hăm dọa:
- Đương nhiên nay thì khác rồi? Ta là thân vương còn đệ là bối tử. Vì anh em tranh giành đã phân thắng bại mà! Ý của ta là hoàng thượng không hề nhớ món nợ cũ. Lú cho thái giám ở nhà phía sau lầu Lộ Hoa. Thân phận nàng không rõ ràng, Cao Vô Dung không biết bố trí thế nào, nghĩ đi nghĩ lại, liền tìm cái nơi vừa dành cho người dưới ở, vừa có thể truyền gọi lên hầu bất cứ lúc nào. Hơn nữa ở đây rộng rãi, đằng sau cung nhân ra ra vào vào cũng tiện theo dõi. Nói là "nhà sau", thực ra nó thông liền với tầng trệt của lầu Lộ Hoa, vì vậy Ung Chính không đi cửa bên, mà do Cao Vô Dung dẫn xuyên lầu mà qua. Từ phía tây bắc vòng qua mấy chiếc lò than bằng đồng hình con thú đang cháy rực, đi qua một bức bình phong, thì thấy một căn phòng lớn trống trải, trông như phòng khách. Mé phía đông có một cửa sổ bằng kính lớn, che dưới mái hiên vểnh phía tây bắc lầu Lộ Hoa. Dưới cửa sổ này đặt mấy chiếc sập hoa mây, thái giám chấp sự thường ngày ngồi ở đây chờ truyền lệnh. Ở góc phía đông bắc có một chiếc cửa nhỏ thông với hành lang dài của dãy phòng thái giám ở. Người của nhà sau khi vào lầu buộc phải qua đây. GiKiều Dẫn Đệ đặt ở góc tây nam phòng, cũng là chiếc giường cung nữ thường dùng. Đầu giường có một tủ trang điểm nhỏ, trong phòng có một chiếc bàn Bát Tiên, dưới bàn có hai chiếc ghế, trên bàn đặt bộ đồ uống nước, trông rất luộm thuộm. Đây là lần đầu tiên Ung Chính bước vào phòng ở của tôi tớ, vừa từ bên ngoài vào, cảm thấy trong phòng rất tối, chỉ thấy một người con gái mặc váy bông màu mật ong, đang quay lưng ra ngoài cúi xuống bàn Bát Tiên, cầm bút viết cái gì đó. Mấy cung nữ ngồi trên sập hoa, thấy hoàng thượng đột nhiên giá lâm, bất ngờ giật mình đứng cả dậy, rồi vội vàng quỳ xuống. Ung Chính thấy Kiều Dẫn Đệ chăm chú viết, dường như không biết mình vào, giơ tay ra hiệu mọi người im lặng, lặng lẽ đến đứng sau Kiều Dẫn Đệ.
- Giống quá...
Ung Chính trân trân đứng nhìn. Mái tóc dày đen bóng phát ra ánh sáng đen, vóc dáng mảnh mai, bờ vai hơi nghiêng trên bàn, đôi má ửng hồng mang nét ngây thơ đáng yêu, thậm chí mùi hương thoang thoảng tỏa ra từ người cô, tất cả đều y hệt Tiểu Phúc - người đã vì mình mà phải lên giàn hỏa thiêu. Trước mắt ông chợt hiện lên hình ảnh Tiểu Phúc bị trói trên đống củi, ngọn lửa đỏ rực liếm lên người nàng, táp vào gương mặt thanh tú và mái tóc bồng bềnh của nàng. Tiểu Phúc đau đớn giãy giụa, đến chết vẫn không nói một câu... Ung Chính đã hoàn toàn ngập chìm trong dòng hồi ức, gương mặt vừa vui vừa buồn, ông lẩm bẩm: "Phật đưa ra đạo luân hồi, sao không phải là cô ấy tái thế? Đúng rồi, là cô ấy tái thế...".
Kiều Dẫn Đệ bỗng giật bắn người. Nàng quay người lại nhìn thì thấy là Ung Chính, như đang trên đường đột nhiên gặp một con rắn, giật mình né người suýt ngã. Nàng kinh hãi lùi lại một bước, một tay cầm bút, đứng lại nhìn chằm chằm vào Ung Chính, hỏi:
- Ông, ông muốn
Cao Vô Dung đứng bên quát:
- Con tiện dân kia, ngươi nói với hoàng thượng như thế hả?
- Cô ấy vừa đến, không hiểu phép tắc.
Ung Chính giơ tay ngăn Cao Vô Dung, sắc mặt ông có phần sầu muộn, ông bước lên nhặt tờ giấy lên xem, thì thấy trên giấy đề mấy câu thơ:
Đêm dài không nến lân tự sang,
Đoạn hồn ai làm bạn cùng trăng?
Hàng bạch dương một mình thơ thẩn,
Chôn hết Kim Cốc vạn cổ sầu.
Toàn một kiểu chữ Khải đều tăm tắp, ý bút thần bút lại rất giống chữ Doãn Đề. Ung Chính không kìm được tiếng thở dài, hỏi:
- Đây là thơ của ngươi?
Kiều Dẫn Đệ gặp Ung Chính lần này là lần thứ hai. Lần gặp đầu tiên là lúc Doãn Đề mới bị truất vương tước, đưa nàng vào cung thăm hoàng cô thứ mười bảy đang hấp hối tình cờ gặp Ung Chính trước giường bệnh hoàng cô. Lúc đó Ung Chính bất ngờ gặp nàng, giật mình lùi liền hai bước, mặt trắng bệch như tờ giấy, mãi sau này nghĩ lại nàng vẫn thấy buồn cười: "Hoàng thượ gì mà nhát gan thế?". Nàng từ nhỏ học kịch xem kịch, những ông vua trong kịch không hồ đồ ngu xuẩn thì là tham tửu háo sắc, nhưng ông vua đang đứng sờ sờ trước mặt mình đây, một gương mặt mệt mỏi phảng phất nỗi buồn u uất, so thế nào cũng không giống hình tượng trong kịch. Nàng mơ màng nghe Ung Chính hỏi, chỉ cảnh giác gật đầu.
- Viết hay lắm! - Ung Chính nhíu mày, thần sắc có vẻ kinh ngạc - Có điều thê thảm quá. Phong cách thơ Lý Hạ, không phải là những lời phúc thọ. Ngươi còn trẻ, sao lại lắm u sầu đến thế?
Kiều Dẫn Đệ đáp:
- Ý của hoàng thượng, muốn làm thơ thì phải gượng cười sao? Thiếp vì số mệnh sắp đặt, phải sinh ly tử biệt mà đến đây, làm sao mà nặn ra được những từ vui vẻ?
Un;c đó khác, bây giờ khác! Có gì phải so đo? Đệ là một đại trượng phu, ta mượn một câu nói của đại trượng phu, thắng là tốt mà thua cũng chấp nhận! Trông cái vẻ của đệ, còn dám nói khoác không ngượng mồm, nói gì đến "con cháu của Ái-tân-giác-la"!
- Kiều Dẫn Đệ của tôi đâu? - Một luồng máu nóng bốc lên mặt, gương mặt trắng xanh của Doãn Đề bỗng ửng đỏ - Ông đã có Kiều Dẫn Đệ rồi phải không? Ông ta dựa vào cái gì mà cướp Kiều Dẫn Đệ của tôi đi?
Đây là câu hỏi khó trả lời nhất, Doãn Tường trước khi rời Kinh đã nói chuyện rất lâu với Ung Chính, mọi việc Ung Chính đều chịu nhường, chỉ riêng chuyện về Kiều Dẫn Đệ là ngài không lay chuyển: "Khanh nói với Doãn Đề, trừ Kiều Dẫn Đệ ra, còn kể cả phi tần của trẫm, bất kể là trong đại nội hay là ở vườn Sướng Xuân, hành cung Nhiệt Hà, hắn thích ai thì lập tức đưa cho hắn". Nhưng Doãn Tường làm sao có thể nói lại lời này với Doãn Đề được? Ông chau mày nghĩ ngợi, rồi nói:
- Trong mười bước đi, tất phải có cỏ thơm! Đệ nói ta không có "Kiều Dẫn Đệ" của ta? Ta có hai, hai cơ! Cả hai đều... chết rồi!
Ánh mắt ông chợt long lanh, bỗng nhiên nhớ tới cái buổi trưa hãi hùng năm ấy: Mưa tuyết ào ào trút xuống, hoàng đế Khang Hy băng hà, Tứ da Ung Chính nhận lệnh đến miễn xá cho mình, hai tì thiếp là A Lan và Kiều Thư đều đã uống thuốc độc tự vẫn...
Mắt Doãn Tường bỗng nhòe lệ, ông lẩm bẩm: "A Lan, Kiều Thư, tất cả là tại ta, ta... ta đã trách nhầm các nàng..."
- Người tôi nói là ai? Hoá ra là hai người này!
Doãn Đề không để ý đến thần thái khác thường của Doãn Tường. A Lan và Kiều Thư đương nhiên ông ta đều biết, vì họ đều là người do ông ta và Doãn Tự cài vào phủ Doãn Tường để theo dõi ông. Vốn tưởng rằng hai người bị vương gia này giết để diệt khẩu lúc này mới biết là hai người đàn bà này tự sát! Doãn Đề cắn răng cười nhạt nói:
- Hai con dâm tặc này chết thì có gì đáng tiếc? Ông lấy chúng ra so với Dẫn Đệ của tôi, thật là nực cườ
"Bốp!", không đợi Doãn Đề nói xong, Doãn Tường đã giơ tay tát mạnh một cái vào mặt hắn. Doãn Đề bị đánh bất ngờ, sững người, đầu kêu ong ong, má trái tím bầm. Ông ta không ôm mặt, mà bỗng vụt đứng dậy, cả hai gầm ghè nhìn nhau như gà chọi. Trong ngoài phòng, ngay cả Phạm Thời Dịch cũng không nghe rõ, hai anh em này đang nói chuyện với nhau êm đẹp, đột nhiên lại trở mặt, ai nấy sợ xanh mắt, không dám lại khuyên can, đều đứng trơ ra như phỗng.
- Việc khác nhau mà lý giống nhau, tình khác nhau mà tâm giống nhau. - Sắc mặt Doãn Tường tái nhợt - Ta không hề chà đạp Kiều Dẫn Đệ của ngươi, sao ngươi dám xỉ vả A Lan và Kiều Thư của ta?
- Ông không chà đạp, nhưng Ung Chính đã chà đạp Kiều Dẫn Đệ của tôi. - Doãn Đề từ lâu đã không quan tâm đến việc chính trị, điều ông ta đau lòng nhất là việc Ung Chính vô cớ cướp mất ái thiếp của mình, vì vậy trương gân cổ lên không chút nhượng bộ: - Mối hận cướp vợ này ông có biết không? Ung Chính làm như vậy, còn được nói là minh quân ư?
Doãn Tường đã lấy lại bình tĩnh, ông có vẻ hơi thương cảm, buông lỏng mình, hơi gật gật đầu, nói:
- Hoàng thượng không hề làm gì Kiều Dẫn Đệ, càng không nhận cô ta làm phi tần. Điều này ta có thể bảo đảm với đệ. - ông cẩn thận chọn câu từ, chậm rãi nói: - Thái Hoài Trân và Tiền Uẩn Đấu câu kết với Uông Cảnh Kỳ, định ép đệ đến đại doanh của Niên Canh Nghiêu tạo phản làm loạn, đây là việc đã được tra xét rõ ràng rồi. Bên cạnh đệ chứa chấp nhiều loại phỉ như vậy, lẽ nào triều đình đến xử phạt cũng không? Kiều Dẫn Đệ chưa hề chính thức được công nhận là Trắc phúc tấn của đệ, cô ta chỉ là một a hoàn tầm thường, theo lệ thay người hầ bên đệ, cũng là sợ đệ lún vào sâu hơn, đó không phải là ý tốt sao?
- Đúng là nối giáo cho giặc! - Doãn Đề ngồi xuống, rồi gác chân lên mà ngồi, trên mặt nở một nụ cười độc địa: - Thì dựa vào "thành ý", "ý tốt" đó, còn mong ta về Kinh bán sức cho triều đình Ung Chính chứ! Lại còn rào trước đón sau, giết công khai hay giết lén lút đều là do các ông, được làm vua, thua làm giặc xưa nay đã thế, ta cũng chẳng quan tâm các ông làm gì ta!
Đến đây, Doãn Tường cảm thấy đã dùng hết khả năng khuyên Doãn Đề về Kinh thần phục. Doãn Đề không chịu nghe theo, ông lại cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm. Lòng dạ Doãn Đề như vậy, thì dù có về Bắc Kinh cũng sẽ ngoan cố cấu kết với Liêm thân vương chống lại Ung Chính, thà cứ để lại ở cái nơi trên không chạm tr Ung Chính chỉ mặc một chiếc áo bào lụa trắng, lưng thắt một dải thắt lưng bằng màu vàng, ngồi khoanh chân trên giường, đưa mắt liếc nhìn Kiều Dẫn Đệ một cái, rồi nói với Lý Vệ:
- Trẫm tính hôm qua khanh phải về đến Bắc Kinh rồi, trên đường có trở ngại gì thế? Thập tam da đi Mã Lăng Dụ lúc nào?
Lý Vệ dập đầu ba cái, đứng dậy đáp:
- Bẩm, vâng! Trên đường gặp mưa to, phải đi đường Sa Hà, nên chậm mất hai ngày. Thập tam da giờ này có lẽ đã đến Mã Lăng Dụ rồi...
Sau đẩm qua về việc bàn giao ở Sa Hà và tình hình Trương Đình Ngọc bố trí như thế nào. Rồi tiếp:
- Người này là Kiều Dẫn Đệ, phụng chỉ theo nô tài đến gặp hoàng thượng.
Ung Chính lúc này mới chăm chú nhìn Kiều Dẫn Đệ, vừa lúc Kiều Dẫn Đệ cũng ngẩng đầu lên, hai người bốn mắt nhìn nhau, và đều nhìn lảng sang chỗ khác. Ung Chính hài lòng gật đầu với Lý Vệ nói:
- Chắc khanh đói rồi. Ban cơm!
Lý Vệ vội đáp:
- Vừa nãy Dương Danh Thời vừa được ban cơm, trên bàn cơm hẵng còn nguyên, nô tài không hay kiêng kị gì, xin dùng một ít ở đó là được rồi.
Ung Chính nói:
- Cơm đó nguội rồi, đó là cơm đãi ngoại thần. Khanh là gia nô thân cận của trẫm, trẫm đã bảo bọn họ làm cho khanh một suất y hệt lúc nãy, vừa có không khí gia đình lại vừa ấm bụng. Ghế kia, khanh ngồi xuống ăn cơm đi!
Đang nói, thì vẫn là tên Tần Mị Mị lúc nãy bê hộp cơm vào. Kiều Dẫn Đệ để ý nhìn, thì quả nhiên thấy một suất cơm y hệt như vừa nãy đãi mình. Trước nay nàng vẫn tưởng rằng bữa cơm của hoàng đế thì phải là sơn hào hải vị, của ngon vật, lạ nhìn mười chỉ dùng một, lúc này không khỏi sững sờ kinh ngạc. Tần Mị Mị đưa xong cơm, đang định lui ra, thì Ung Chính gọi lại:
- Ngươi đừng đi, lát nữa ta còn có điều này dặn ngươ
- Bẩm vâng - Tần Mị Mị vội đáp: - Nô tài tuân chỉ.
Lúc này Ung Chính mới quay sang Kiều Dẫn Đệ, hỏi:
- Ngươi là Kiều Dẫn Đệ?
- Vâng, thiếp là Kiều Dẫn Đệ!
Kiều Dẫn Đệ đứng thẳng người, nhìn chằm chằm vào Ung Chính, không chút sợ hãi. Ung Chính hoàng đế hồi ở dinh Phiên thuộc vốn được mệnh danh là "ông vua mặt lạnh", ánh mắt lạnh lùng, nghiêm nghị của ông đã làm không biết bao nhiêu thân vương, quan lại phải kinh sợ. Tổng quản thái giám điện Dưỡng Tâm là Cao Vô Dung đứng bên cạnh quát:
- Ngươi nói với hoàng thượng như vậy hả? Quỳ xuống!
- Đừng làm khó cô ta. Cô ta dù có bảo người ấn xuống đất cũng không phải là thực lòng phục tùng. Trẫm cần cái lễ giả tạo đó làm gì?
Ung Chính thản nhiên cười như không có chuyện gì lại hỏi Kiều Dẫn Đệ:
- Ngươi người Sơn Tây?
- Người Định Tương!
- Nhà ngươi có những ai?
- Cha, mẹ, anh trai.
Kiều Dẫn Đố tình tỏ ra ngang bướng, nghĩ rằng nhất định Ung Chính sẽ truy hỏi mình về những việc làm sai trái của Thập tứ a-ca Doãn Đề, không ngờ Ung Chính lại mở đầu như vậy, tuyệt nhiên không hề có ý làm khó mình. Nàng ngạc nhiên nhìn Ung Chính, ánh mắt Ung Chính có vẻ mệt mỏi, và dường như lộ chút nghi ngờ, nhưng lại tràn ngập sự ấm áp và yêu thương. Lòng nàng thoáng chút xao động, nhưng lập tức lại nghĩ đến cảnh sinh ly tử biệt với Doãn Đề dưới cơn mưa tầm tã trong ngày tết Trùng dương, hình ảnh Doãn Đề quỳ hai gối dưới mưa, tiếng gào khóc khản đặc của ông văng vẳng bên tai nàng... Mặt nàng lập tức lại lạnh như băng. Ung Chính cúi thấp đầu, nói:
- Thập tứ da đối xử rất tốt với ngươi, đúng không?
-...
- Trẫm biết, Thập tứ da tốt với ngươi. - Ung Chính nói: - Nhưng anh ta là người vừa phạm quốc pháp, vừa phạm gia pháp, cần phải xử phạt!
- Thập tứ da phạm vào cái gì?
- Việc nhà khó nói rõ, trẫm có nói ngươi cũng không tin. - Ung Chính nhếch mép cười lạnh lùng: - Niên Canh Nghiêu cử ngươi liên lạc với anh ta, định lén lút trốn đi Tây Ninh, dựng anh ta làm đế rồi trở về Bắc Kinh. Có người mua chuộc được Thái Hoài Trân và Tiền Uẩn Đấu, đưa một mảnh giấy vào, trên giấy viết: "Ngày 7 tháng Hai nắm thiên hạ. Thiên hạ từ đây thái bình", Doãn Đề giấu kín không báo. Ngày mồng 9 tháng Chín, Uông Cảnh Kỳ giả mạo người của phủ Nội vụ định xông vào khu lăng mộ Cảnh Lăng, đúng hôm đó Doãn Đề cũng đến núi Kỳ Phong khu lăng mộ, có điều chưa kịp liên hệ thì đã bị trẫm phát giác, nên mới không thành công. Đây là tội đại nghịch, hắn có thể tránh được gia pháp, nhưng chắc ngươi cũng biết, vương pháp vô thân!
Sắc mặt Kiều Dẫn Đệ trắng bệch như tờ giấy dưới ánh trăng, không còn một giọt máu. Những việc cơ mật này, có những việc nàng tận mắt nhìn thấy, có việc nàng cũng lờ mờ biết được, rất có thể đó là sự thực nếu mắc tội "đại nghịch", thì theo luật nhà Đại Thanh chỉ có hình phạt "lăng trì". Lòng nàng bỗng nhói đau, nàng liều nói:
- Hoàng thượng bắt làm thơ 7 bước, muốn khép tội cho người thì lo gì không có cớ? Nói những lời vô căn vô cớ đó, nghe thật ghê tởm!
- Anh em trẫm có 24 người, chỉ có Doãn Đề là em cùng một mẹ. - Ung Chính thở dài: - Trẫm xử phạt Doãn Đề đến Cảnh Lăng, mục đích là để hắn bớt ngỗ ngược, cũng là để hắn xa cái lũ tiểu nhân kia, không muốn để chúng xúi giục hắn đến mức không thể cứu vãn. Trẫm không muốn làm Trịnh Trang Công, nuông chiều, dung túng em đến mức không còn trời đất pháp luật gì, sau đó lại giết nó, đó không phải là cái tâm của người nhân. Lý Vệ đây là một nhân chứng. Đám quân của Niên Canh Nghiêu đều là những người mà ngoài Niên Canh Nghiêu ra không ai biết. Hắn ăn ở hai lòng, trẫm bỏ tước của hắn, cách chức hắn, ban cho hắn tự chết, không một người nào dám nói hộ cho kẻ loạn thần tặc tử như hắn. Lý Vệ, khanh xem trẫm nói có đúng không?
Lý Vệ vì đói bụng, như gió cuốn mây tàn, một lúc chén sạch chỗ cơm Ung Chính ban, đang định nấc một cái vội vàng kìm lại, khom người cười lấy lòng, nói:
- Sớ cầu xin đổi lệnh trước lúc sắp chết của Niên Canh Nghiên nô tài có xem qua. Ông ta nói: "Muôn phần biết lỗi của mình", nhưng cũng đã muộn rồi. Hoàng thượng là người theo đạo Phật, đối với anh em ruột thịt như Thập tứ da càng muốn bảo toàn. Sợ rằng Thập tứ da bị người ta xúi giục, làm điều tộiỗi không ai có thể bảo lãnh được. Dẫn Đệ, cô nương chưa từng nghe câu "Vương tử phạm pháp, tội như thứ dân" sao?
- Thiếp là đàn bà, - Kiều Dẫn Đệ nghe hai người nói thấy mình không thể đấu khẩu nổi, nàng cắn môi nói: - Chuyện đúng đúng sai sai cửa đàn ông các ngài thiếp không biết, và cũng không muốn biết. Thiếp chỉ biết từ đầu đến cuối, thiếp đã cùng Thập tứ da, cho dù ông ấy đã phạm tội tày trời, lên núi làm phỉ, xuống địa ngục bị ném vào vạc dầu, đằng nào cũng là người đàn ông mà thiếp hầu hạ. Bây giờ thiếp chỉ mong được chết. Nếu có thể chết được nhanh một chút thì thiếp tạ ơn hoàng thượng, nếu có thể cho thiếp chết cùng một chỗ với Thập tứ da, thì dưới suối vàng thiếp cũng vui lòng.
Nói rồi đứng trân trân nhìn Ung Chính, không chút sợ sệt. Khắp phòng, vài chục cung nữ, thái giám chưa từng thấy ai dám nói chuyện với hoàng thượng như vậy sợ hãi đứng như phỗng, không khí căng thẳng lặng ngắt như tờ.
Ung Chính cũng chăm chăm nhìn Kiều Dẫn Đệ, hồi lâu mới ngoảnh mặt, chậm rãi nói:
- Thập tứ da đối xử rất tốt với ngươi phải không?
-...
- Trẫm sẽ đối xử với ngươi tốt hơn Thập tứ da.
-...!!!
Kiều Dẫn Đệ trợn tròn mắt, nhìn Ung Chính không chớp. Đúng là anh em cùng cha cùng mẹ với Doãn Đề, vùng trên hai lông mày rất gần nhau, nhất là khi Ung Chính chau mày, hai con ngươi đen láy quả thật trông giống hệt Doãn Đề. Chỉ có Ung Chính cao hơn Doãn Đề một chút, lớn hơn Doãn Đề đúng 10 tuổi, trông tiều tụy mệt mỏi hơn Doãn Đề. Nàng không biết đã bao nhiêu lần nghe Doãn Đề nói về Ung Chính: "thô bạo, tàn nhẫn, thất đức", nhưng hình ảnh trước mắt nàng lúc này dù thế nào cũng không thể đối lại với một Ung Chính "cay nghiệt bạc bẽo, tính khí thất thường kia. Càng không giống loại hoàng đế phong lưu trong các vở kịch, thấy gái đẹp là tít mắt lại, không chịu buông tha. Thế này là thế nào?... Kiều Dẫn Đệ cúi đầu. Đột nhiên, nàng ngẩng mặt hỏi:
- Vừa nãy ngài luôn miệng nói niệm tình huynh đệ, tại sao ngài lại chà đạp ông ấy như vậy? Thiếp là người của Thập tứ da, tại sao ngài lại chia cắt thiếp và ông ấy?
- Các người? - Trong lòng Ung Chính dâng lên một chút đố kị, nhếch mép một cách châm biếm, nói: - Ngươi là phúc tấn hay là Trắc phúc tấn? Phúc tấn thì phải do trẫm phong, còn là Trắc phúc tấn thì phải được đăng ký trong quyển ngọc điệp của phủ Nội vụ. Chiểu theo luật Đại Thanh, Doãn Đề phạm tội như vậy mọi người trong nhà đều đòi đày hắn đến Hắc Long Giang làm nô lệ!
- Vậy thì xin hoàng thượng xử thiếp theo luật Đại Thanh.
-... Hoặc là phân đến các vương phủ cung uyển làm nô lệ, xử lý thế nào, không phải do ngươi, mà nằm ở trong đầu trẫm.
Kiều Dẫn Đệ kinh ngạc nhìn Ung Chính rồi lùi một bước, nàng không hiểu m&i sâu, nghĩ kỹ hơn ngươi. Từ năm ngoái có tin đồn này, hoàng thượng đã phát cho các quan phụ trách các doanh kỳ ở Bắc Kinh mấy chục cái tráp mật tấu. Nhất cử nhất động trong quân đội đều nắm rất rõ. - ông đứng dậy, lững thững bước trên nền đất ấm - Điều ta lo lắng hoàn toàn khác với ngươi, ta sợ Bát ca lần này bí quá hóa liều, lún vào sâu quá không rút ra được, đó là tội đại nghịch, không cách gì cứu nổi. Thập tứ a-ca lần này không phụng chiếu, thật là một việc tốt. Nhưng còn dính dáng đến Bát ca, Cửu ca, Thập ca, một người là thân vương, hai người là bối lặc còn bao nhiêu bá quan văn võ trước đây bè cánh với họ? Chỉ riêng điện Văn Hoa, điện Anh Vũ còn có mấy đại học sĩ, ngươi khó mà nói được lòng dạ của họ như thế nào? Lý Vệ, đây là vụ án tày trời, ngươi đã bao giờ thấy chưa? Đức thánh tổ hai mươi mấy người con, anh cả bị cầm tù đến phát điên, anh hai ốm đau bệnh tật, chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn, chẳng thể sống được lâu nữa; Thập tứ đệ thực ra cũng là giam lỏng, lại thêm ba người này nữa... Thiên hạ đau đâu có hiểu được rằng "cây muốn lặng mà gió chẳng đừng", chép vào trong sử sách, thì còn gì là thanh danh nữa?
Điều mà Lý Vệ luôn canh cánh trong lòng là ngôi vị hoàng đế của Ung Chính, nghe Doãn Tường nói như vậy lập tức sáng tỏ trong lòng, hoàng thượng và vị Doãn Tường này thực ra là đã giăng sẵn lưới chỉ chờ mấy con cá không biết sống chết ấy chui vào lưới thôi. Nghĩ đến lời Doãn Tường, cũng thấy buồn cho anh em họ, hồi lâu mới than:
- Nói ra điều này thật buồn, đúng là không bằng những kẻ nhà tranh vách đất! Bát da cũng thật là, không được ngôi vua, thì cũng là một thân vương cơ mà! Làm sao mà không biết dừng chứ?
- Cho nên đây là số mệnh. - Doãn Tường bỗng nhớ đến lời của Giả Sĩ Phương, lòng nặng trĩu, những ngón tay trắng xanh thon dài của ông nắm lại một chỗ một cách bất an, ông nói: - Chúng ta không có cách gì khuyên Bát ca, nếu ông ấy làm, chúng ta cũng không thể ngăn được, chỉ có thể dựa vào ý của hoàng thượng mà nặn cái mụn bọc ấy thôi. Nếu Bát ca biết phải trái một chút, tự dừng lại, an phận làm việc, thì cho dù những kỳ chủ này đến, ta cũng bảo lãnh được cho ông ấy; nếu không ta không thể bảo lãnh được, quả thật là không biết làm thế nào...
Ông trở nên mất bình tĩnh, nói lảm nhảm như người điên:
- Ngươi nói đủ rồi... cũng tranh luận đủ rồi, còn chưa thôi? Thiên hạ bao nhiêu là việc đang chờ ta làm, nói mãi chuyện gia đình... không thể học Thập tứ đệ sao?
Lý Vệ thương hại nhìn người em sủng ái nhất của Ung Chính hoàng đế. Năm xưa, ông là người không an phận nhất trong số những người con của Khang Hy, vung roi trấn Giang Hạ có ông, thúc ngựa phá tiệc có ông,1;i náo Ngự Hoa viên cũng có ông, Khang Hy ngự ban cho hiệu là "Thập tam lang liều mạng", 20 năm bè đảng tranh giành, 10 năm giam cấm nơi tường cao, đã biến ông thành một con người khác! Đột nhiên nghĩ đến chuyện Kiều Dẫn Đệ, liền hỏi:
- Thập tam da, cái tên Kiều Dẫn Đệ này là như thế nào, khi xử vụ án Nặc Mẫn nô tài từng gặp mấy lần, đẹp thì có đẹp, nhưng cũng chẳng lấy gì làm xuất sắc cho lắm. San mà Thập tứ da cứ giữ khư khư, còn hoàng thượng thì chỉ đích danh đòi bằng được? Thật là quá si mê rồi, vì một người đàn bà mà anh em xích mích nhau đến mức như vậy, liệu có đáng không?
- Trên đời này có mấy cặp vợ chồng được như ngươi và Thúy Nhi, thanh mai trúc mã hoạn nạn gặp nhau, lại rất đẹp đôi nữa. - Doãn Tường thẫn thờ nhìn lò than đỏ rực - Chuyện tình cảm khó ai mà nói rõ được, người vì chữ "tình" mà để mất giang sơn, mất gia đình, mất tính mạng, biết bao nhiêu mà kể, như Ngô Tam Quế chỉ vì một Trần Viên Viên mà dấy binh phản lại nhà Minh, dẫn đại quân vào Quan Trung, cũng vẫn là vì một chữ "tình"!
- Nhưng hoàng thượng trước đây không hề có tình ý gì với Kiều Dẫn Đệ. - Lý Vệ cúi đầu trầm ngâm - Kỳ quặc quá. Nô tài hỏi hoàng thượng, hoàng thượng lại bảo nô tài hỏi ngài, ngài có thể nói cho nô tài biết không?
Doãn Tường chuyển bình sữa đã sôi sang một bên lò, trầm ngâm suy nghĩ, rồi bật cười nói:
- Vừa nãy ngươi nói đến chữ "Si", ta nhớ đến có người từng nói người Mãn Châu thật si tình! Thái tông hoàng đế mất, Thế tổ hoàng đế mới 6 tuổi, Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn độc quyền nắm giữ triều chính, trông thấy cả một giang sơn tươi đẹp trong tầm tay, ông ta vẫn không chịu chìa tay ra mà lấy. Thế tổ hoàng đế ở ngôiược 17 năm, mới 24 tuổi, ngày nay người thì nói là ốm chết, người nói là xuất gia, chung quy chỉ vì một người đàn bà là Đổng Ngạc thị, cũng vì một chữ "tình" như Đa Nhĩ Cổn. Nói đến Kiều Dẫn Đệ, hoàng thượng muốn cô ta cũng vì chữ này. Có điều không vì bản thân cô ta, mà vì một người đàn bà khác, nói hoàng thượng si tình cũng là đúng.
Lý Vệ vắt óc nhăn trán nghe xong, nói:
- Vương gia nói vòng vo quá, hoàng thượng vì tình đòi Dẫn Đệ, lại không vì Kiều Dẫn Đệ, mà vì người đàn bà khác, thật không hiểu nổi.
Doãn Tường nói:
- Điều này chẳng có gì khó hiểu cả, Kiều Dẫn Đệ rất giống một người con gái mà năm xưa hoàng thượng đem lòng yêu thương! 20 năm trước, hoàng thượng đi tuần thú An Huy, bị nước lũ vây khốn, sau đó được một người con gái cứu, khi ở nhà người con gái đó, hai người đã có những phút giây ân ái...
- Vương gia - Lý Vệ bỗng nhớ ra, nói: - Ngài nhắc đến việc này, nô tài biết cả rồi. Sau khi cơn lũ qua đi hoàng thượng ở Dương Châu thúc phát thẩn, đã mua nô tài ở chợ người. Nô tài và hoàng thượng còn cùng đến bến Hoa Đào, đập Cao Gia tìm thăm bà ấy. Bà ấy tên là Tiểu Phúc... Chủ tớ nô tài lần đó gặp nguy, suýt nữa mất mạng trong hắc điếm! Tiểu Phúc là một kỹ nữ, thuộc tầng lớp tiện dân, vì vậy hoàng thượng còn ra một đặc chỉ, xóa bỏ tầng lớp tiện dân trong thiên hạ. Kiều Dẫn Đệ giống Tiểu Phúc? Liệu có phải...
Một ý nghĩ đáng sợ lóe lên trong đầu Lý Vệ: liệu có phải là mẹ con? Nhưng ông lập tức phủ nhận, Tiểu Phúc bị hình phạt hỏa thiêu, khi chết Ung Chính cũng tận mắt nhìn thấy, cách ngày hai người chia tới có ba bốn tháng, không thể có con được, trong thiên hạ cũng không có chuyện trùng hợp như vậy. Ông chuyển ý, nghi hoặc nghĩ: "Hay là lâu ngày rồi hoàng thượng nhớ nhầm? Cứ coi là bề ngoài giống hệt nhau, nhưng còn tính tình, tính cách nữa chứ! Nay đã liên quan đến việc nước, thì nên nhường Thập tứ da một bước". Ông lại nghĩ đến Đa Nhĩ Cổn và Thuận Trị mà Doãn Tường ví, liền im bặt, không biết nói gì.
Một lúc lâu cả hai đều im lặng. căn phòng bỗng chốc lặng ngắt như tờ. Nhìn ra ngoài qua ô cửa kính, tuyết đã rơi rất dày, bám từng mảnh lên kính, trong nháy mắt biến thành nước, chảy xuống như nước mắt, chỉ nghe từ xa vẳng lại tiếng đọc kinh Bát nhã Bà La mật đa tâm kinh của trụ trì chùa Thanh Phạn.

*

- Các khanh sao ngồi ngẩn mặt ra thế?
Bỗng nhiên có tiếng người phá tan bầu không khí tĩnh lặng. Doãn Tường và Lý Vệ quay đầu lại, thì thấy tấm mành động đậy, cùng với ngọn gió lạnh lùa vào trong nháy mắt, một người lững thững bước vào, Trương Đình Ngọc theo sát sau. Nhìn dưới ánh đèn, hai người giật mình, hóa ra là Ung Chính!
- Là hoàng thượng!
Doãn Tường và Lý Vệ đồng thời bật người đứng dậy hành lễ thỉnh an. Lý Vệ vội vàng khiêng chiếc ghế da hươu Doãn Tường thường ngồi lại, miệng nói:
- Ôi! Trời tối tuyết to thế này,ượng đến đây bằng gì?
Doãn Tường cũng nói:
- Hoàng thượng có việc gì, thì sai thái giám đến báo cho chúng thần là được. Từ vườn Sướng Xuân đến đây những bốn năm dặm đường cơ mà!
Ung Chính vừa từ ngoài trời băng tuyết vào đến phòng, không nén nổi vui mừng, xoa tay, sắc mặt có phần nhợt nhạt cũng dần dần ửng hồng, thấy mọi người đều đứng ngây như phỗng, bèn cười nói:
- Ngồi xuống cả đi. Sao bên cạnh đến một đứa nô tài để sai khiến cũng không có thế này? Nói chuyện cơ mật hay sao, trẫm đứng bên ngoài nghe, hai người lại không nói gì nữa?
Lý Vệ rót sữa trong bình ra dâng cho Ung Chính một cốc rồi mới rót cho Trương Đình Ngọc và Doãn Tường, miệng nói:
- Nô tài đang nói với Thập tam da chuyện năm xưa, ông chủ thu nhận nô tài, rồi gặp nạn ở hắc điếm. Mới chớp mắt đã 20 năm, nghĩ lại như một giấc mơ...
Ông liếc nhìn Ung Chính thở dài.
- Ừ nhỉ... đã 20 năm rồi... - Ung Chính cũng vô cùng xúc động - Nếu không mang theo khanh, ta cũng mất mạng rồi, khanh quả là có công chống trời hộ giá! Đáng tiếc lại chỉ có thể vùi dập đi... Lúc đó nước sông Hoàng tràn lan, từ bến Hoa Đào đến đập Cao Gia, cả một vùng mấy chục dặm không một bóng người. Chúng ta vận chuyển lương thực trên bãi cát, các làng xóm trên đường không một người đàn ông. Lần trước phê mật tấu của Phạm Thời Tiệp, trẫm còn đặc biệt hỏi, những cánh đồng ngước kia, nay đã khai khẩn chưa. Phạm Thời Tiệp nói ruộng ngập nước lũ là mầu mỡ nhất, đã khai khẩn từ lâu rồi. Lý Vệ, phía bắc bến Trêu Gia còn có mấy vạn khoảnh đất phù sa, nghe nói khanh hạ lệnh không cho khai khẩn, là tại làm sao?
Lý Vệ vốn cây cột sau chiếc đèn cung, như muốn xuyên qua bức tường cung nhìn về phía xa. Thấy Lý Vệ ngừng nói, Ung Chính vội giục:
- Khanh nói, nói đi.
- Vâng. - Lý Vệ nuốt nướcọt - Có người nói, em gái Niên Canh Nghiêu là quý phi của hoàng thượng, từ thời trẻ đã ở bên cạnh hoàng thượng, biết quá nhiều chuyện của hoàng thượng, hoàng thượng không trừ bỏ, sợ... sợ thiên hạ đời sau bàn luận...
Có người nói, là do Phấn Uy tướng quân Nhạc Chung Kỳ kiện Niên Canh Nghiêu, Niên Canh Nghiêu và Nhạc Chung Kỳ tranh công, hoàng thượng mượn cớ giết Niên Canh Nghiêu!
Còn có người nói, hoàng thượng là "ông vua tịch thu gia sản". Bát da là một hiền vương, cả danh tiếng lẫn tài năng đều hơn hoàng thượng. Niên Canh Nghiêu thấy hoàng thượng không phải là... ông vua nhân đức liền bắt tay với Bát da, hoàng thượng diệt trừ Niên Canh Nghiêu, là để phòng Bát da làm loạn.
Thái hậu tạ thế, đương thời có người đồn, là hoàng thượng bức thái hậu không còn cách nào sống được phải đập đầu vào cột tự tử. Thái hậu bảo hoàng thượng nới tay, đối xử với Bát da và Thập tứ da như là anh trai đối với em, hoàng thượng cãi lại, mẹ con trở mặt, thái hậu liền... tự tử. Lúc bấy giờ Thập tứ da ở đó, viết thư báo chuyện này với Niên Canh Nghiêu, nói hoàng thượng là Tần Thủy Hoàng. Niên Canh Nghiêu muốn làm khai quốc công thần, muốn làm vương gia, liền sai Uông Cảnh Kỳ đi Mã Lăng Dụ liên lạc với Thập tứ da, Uông Cảnh Kỳ bị bắt, sự việc bại lộ.
Ung Chính nãy giờ nghe rất chăm chú, nhưng sắc mặt ông càng lúc càng khó coi, khuôn mặt xanh xám trở nên căng thẳng, hai hàm răng trắng đều cắn chặt môi, chốc chốc lại co giật một cái. Đợi Lý Vệ nói xong, Ung Chính bưng cốc uống một ngụm sữa, có lẽ sữa đã nguội từ lâu rồi, ông chau mày nhắm mắt cố nuốt xuống như nuốt thuốc đắng, vừa giơ cốc lên như muốn ném vỡ, lại nhẹ nhàng đặt lên bàn. Ông xuống đất, chắp tay sau lưng đi đi lại lại, càng bước càng nhanh. Lý Vệ và các thị nữ, thái giám trong phòng đều dõi mắt nhìn theo bóng của chuyển đi chuyển lại. Đột nhiên, ông dừng lại, mắt dán chặt vào dòng chữ sau ghế:
"Giới cấp dung nhẫn" (Răn khi nóng vội, hãy giữ nhẫn nhịn)
Bốn chữ to bằng bát trà ở trên viết bằng chữ Lệ đều tăm tắp, nét nào ra nét ấy, đây là cách ngôn viết để tại chỗ ngồi mà năm xưa hoàng đế Khang Hy ban cho Ung Chính. Ung Chính thở một hơi thật sâu, dường như muốn trút bỏ hết nỗi uất ức đang chất chứa trong lòng. Thần sắc của ông đã bình tĩnh trở lại gượng gạo cười, nói với Lý Vệ:
- Đây là câu cách ngôn năm xưa tiên đế ban cho trẫm khi trẫm và Phế thái tử cãi nhau về chuyện phát chẩn ở Sơn Đông. Trẫm vốn nóng tính, thấy chướng tai gai mắt là không chịu được, tối nay suýt nữa thì thất thố.
- Hoàng thượng, - Lý Vệ thấy vua kiềm chế bản thân như vậy trong lòng lấy làm cảm động, vẻ mặt ông cũng trở nên thiểu não. - Tiểu nhân tung tin đồn nhảm thì cái gì chúng chẳng nói được. Nhưng mọi người đều biết tự đánh giá trong triều ngoài dân, trên dưới đều biết hoàng thượng là người nhân đức, thành thực, cần chính yêu dân. Những lời bậy bạ vô căn cứ này hoàn toàn là bịa đặt. Nhưng cũng phải đề phòng bọn tiểu nhân gây rối, bắt được mấy đứa có chứng cứ, trị chúng thật nghiêm, thì những lời đồn đó không dập mà tự tắt.
Ung Chính đứng im một chỗ, không nói ngay, hồi lâu, mới vẫy tay bảo:
- Lý Vệ, khanh lại đây.
Lý Vệ vừa lo sợ vừa nghi hoặc cúi người bước đến gần Ung Chính. Ung Chính nắm chặt tayệ đi đến trước án thư, một tay cầm tờ thánh chỉ châu phê ngày hôm đó vuốt thẳng ra, Lý Vệ cảm thấy lòng bàn tay Ung Chính toàn là mồ hôi, vừa lạnh vừa ấm lại vừa dính, thử giãy một cái, nhưng Ung Chính không bỏ tay ra, gọi tên sữa của Lý Vệ ra, giọng run run nói:
- Cẩu Nhi còn có việc khanh chưa nói; có người nói trẫm ngày nào cũng say bí tỉ, có người nói trẫm là loại hiếu sắc. Có kẻ còn thêu dệt ly kỳ hơn, rằng thị vệ của trẫm là đội quân "hút máu" gì đó. Đồ Lý Thâm chỉ huy "đội quân" này, muốn giết đại thần nào, chỉ cần đưa mắt ra hiệu, đêm đến sai người giết ngay! - Ngực ông phập phồng thở mạnh, tay bóp chặt tay Lý Vệ đến phát đau - Đây là tấu chương trẫm phê hôm nay, có hơn 1 vạn chữ, chỗ kia phê hôm qua, gần 8 nghìn chữ. Trẫm còn phải tiếp kiến đại thần phải đến gia miếu tế tự... Trẫm hàng ngày canh bốn đã dậy, làm việc đến giờ Tí mới ngủ. Cẩu Nhi, khanh không tưởng tượng được trẫm mệt mỏi thế nào đâu. Trẫm nghe những điều khanh nói, không thấy tức giận, mà chỉ thấy mệt mỏi, chỉ thấy đau lòng...
Cuối cùng ông buông tay Lý Vệ ra.
Lý Vệ kinh ngạc nhìn thấy, vị hoàng đế mặt lạnh được gọi là "con người thép" này đã giàn giụa nước mắt.
--------------------------------

1
Dưới triều Ung Chính nhà Thanh, thực hiện chính sách bỏ chức thổ ty thế tập trước đây bằng cách cử quan triều đình xuống nhậm chức ở vùng Vân Nam.
 

Truyện UNG CHÍNH HOÀNG ĐẾ GIỚI THIỆU NỘI DUNG HỒI THỨ NHẤT HỒI THỨ HAI HỒI THỨ BA HỒI THỨ BỐN HỒI THỨ NĂM HỒI THỨ SÁU HỒI THỨ BẨY HỒI THỨ TÁM HỒI THỨ CHÍN HỒI THỨ MƯỜI HỒI THỨ MƯỜI MỘT HỒI THỨ MƯỜI HAI HỒI THỨ MƯỜI BA HỒI THỨ MƯỜI BỐN HỒI THỨ MƯỜI LĂM HỒI THỨ MƯỜI SÁU HỒI THỨ MƯỜI BẢY HỒI THỨ MƯỜI TÁM HỒI THỨ MUỜI CHÍN HỒI THỨ HAI MƯƠI HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI HỒI THỨ HAI MƯƠI BA HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN HỒI THỨ HAI MƯƠI NHĂM HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU HỒI THỨ HAI MƯƠI BẨY HỒI THỨ HAI MƯƠI TÁM HỒI THỨ HAI MƯƠI CHÍN HỒI THỨ BA MƯƠI HỒI THỨ BA MƯƠI MỐT HỒI THỨ BA MƯƠI HAI HỒI THỨ BA MƯƠI BA HỒI THỨ BA MƯƠI TƯ HỒI THỨ BA MƯƠI NĂM HỒI THỨ BA MƯƠI SÁU HỒI THỨ BA MƯƠI BẢY HỒI THỨ BA MƯƠI TÁM HỒI THỨ BA MƯƠI CHÍN HỒI THỨ BỐN MƯƠI HỒI THỨ BỐN MƯƠI MỐT HỒI THỨ BỐN MƯƠI HAI HỒI THỨ BỐN MƯƠI BA HỒI THỨ BỐN MƯƠI BỐN HỒI THỨ BỐN MƯƠI NĂM HỒI THỨ BỐN MƯƠI SÁU HỒI THỨ BỐN MƯƠI BẢY HỒI THỨ BỐN MƯƠI TÁM HỒI THỨ BỐN MƯƠI CHÍN HỒI THỨ NĂM MƯƠI HỒI THỨ NĂM MƯƠI MỐT HỒI THỨ NĂM MƯƠI HAI HỒI THỨ NĂM MƯƠI BA HỒI THỨ NĂM MƯƠI BỐN HỒI THỨ NĂM MƯƠI NĂM HỒI THỨ NĂM MƯƠI SÁU HỒI THỨ NĂM MƯƠI BẢY HỒI THỨ NĂM MƯƠI TÁM HỒI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN HỒI THỨ SÁU MƯƠI HỒI THỨ SÁU MƯƠI MỐT HỒI THỨ SÁU MƯƠI HAI HỒI THỨ SÁU MƯƠI BA HỒI THỨ SÁU MƯƠI BỐN HỒI THỨ SÁU MƯƠI NĂM HỒI THỨ SÁU MƯƠI SÁU HỒI THỨ SÁU MƯƠI BẢY HỒI THỨ SÁU MƯƠI TÁM HỒI THỨ SÁU MƯƠI CHÍN HỒI THỨ BẢY MƯƠI HỒI THỨ BẢY MƯƠI MỐT HỒI THỨ BẢY MƯƠI HAI HỒI THỨ TÁM MƯƠI HỒI THỨ TÁM MƯƠI MỐT HỒI THỨ TÁM MƯƠI HAI HỒI THỨ TÁM MƯƠI BA HỒI THỨ TÁM MƯƠI BỐN HỒI THỨ TÁM MƯƠI NĂM HỒI THỨ TÁM MƯƠI SÁU HỒI THỨ TÁM MƯƠI BẢY HỒI THỨ TÁM MƯƠI TÁM HỒI THỨ TÁM MƯƠI CHÍN HỒI THỨ CHÍN MƯƠI HỒI THỨ CHÍN MƯƠI MỐT HỒI THỨ CHÍN MƯƠI HAI HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BA HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BỐN HỒI THỨ CHÍN MƯƠI NĂM HỒI THỨ CHÍN MƯƠI SÁU HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BẢY HỒI THỨ CHÍN MƯƠI TÁM HỒI THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ MỘT HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BA HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ NĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI MỘT HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI LĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI MỐT HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI LĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI MỐT HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI NĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI MỘT HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI LĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI MỐT HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI LĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI MỐT HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI NĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI MỐT HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI HAI HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI BA HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI BỐN HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI LĂM HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI SÁU HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI TÁM HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BẢY HỒI THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI TÁM
  • HỒI THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI CHÍN HỒI THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI