1970
Chương 9
Tháng Năm Năm 1970

    
ố? Bố ơi?”
Nghe tiếng Paul cùng những bước chân thoăn thoắt của thằng bé trên bậc thang ga ra, David rời mắt khỏi tấm giấy ảnh đã được phơi sáng mà anh vừa thả vào thuốc tráng phim.
“Gượm đã!” anh kêu lên. “Đợi đã, Paul.” Nhưng anh vừa kịp mở miệng thì cánh cửa đã bật mở, ánh sáng lùa vào khắp phòng.
“Chết tiệt!” David nhìn tấm giấy tối đen lại rất nhanh, những hình ảnh biến mất dưới luồng sáng bất ngờ. “Chết tiệt, Paul, chẳng phải bố đã nói với con hàng triệu triệu tỷ tỷ lần là không được vào phòng khi đèn đỏ sao?”
“Con xin lỗi. Con xin lỗi bố.”
David hít một hơi dài, cố kiềm chế. Paul mới có sáu tuổi, và khi đứng trên bậu cửa trông thằng nhóc bé bỏng làm sao. “Thôi không sao đâu Paul. Con vào đi. Bố xin lỗi đã quát con.”
Anh ngồi xổm xuống và dang rộng vòng tay, Paul lao vào ngay, ngả đầu trên vai David trong giây lát, món tóc lởm chởm mới cắt của Paul cọ lên cổ David, vừa mềm mềm, vừa gai gai. Paul gầy nhưng rắn rỏi, khỏe mạnh, thằng bé di chuyển khắp nơi một cách hiếu động, nhẹ nhàng, thận trọng và đầy háo hức. David hôn lên trán con, hối hận vì phút cáu giận vừa qua, sững sờ ngắm xương bả vai của thằng bé, duyên dáng và hoàn hảo, sải rộng như đôi cánh dưới lớp da và những thớ cơ.
“Nào. Có chuyện gì quan trọng vậy?”. Anh hỏi, đoạn ngồi dựa ra sau, tì lên gót chân. “Chuyện gì quan trọng đến mức phá hỏng cả mấy bức ảnh của bố?”
“Bố, bố nhìn xem!” Paul nói. “Xem con tìm được gì này!”.
Anh mở nắm tay bé tí của con ra. Vài miếng đá dẹt, những chiếc đĩa mỏng với một cái lỗ ở chính giữa, nằm trong lòng bàn tay nó, chỉ nhỏ cỡ chiếc khuy áo.
“Tuyệt quá,” David vừa nói vừa cầm một mảnh lên. “Con tìm ở đâu thế?”
“Hôm qua. Lúc con đi theo Jason đến nông trại của ông bạn ấy. Ở đó có một con lạch, phải coi chừng vì mùa hè năm ngoái Jason đã trông thấy cả một con rắn hổ mang, nhưng bây giờ trời lạnh quá, rắn không ở được, nên bọn con đã lội vào rồi bọn con tìm thấy mấy mảnh đá này ngay gần mép nước.”
“Chà” David mân mê mảnh hóa thạch, nhẹ bẫng và mỏng mảnh, phải tới hàng ngàn năm tuổi, được thời gian lưu giữ chính xác hơn tấm ảnh nào. “Những mảnh hóa thạch này là một phần của một cây huệ biển đấy, Paul à. Con biết đấy, thời xa xưa, phần lớn Kentucky từng nằm dưới mức nước biển.”
“Thật ạ? Hay quá. Có ảnh ở trong cuốn sách về đá không bố?”
“Chắc có. Để bố dọn dẹp đã rồi hai bố con mình sẽ cùng xem. Làm sao kịp bây giờ?” anh nói, đoạn bước ra phía cửa buồng tối và ngó ra ngoài. Đó là một ngày mùa xuân đẹp trời, không khí  thoáng đãng và ấm áp, hoa sơn thù du nở rộ xung quanh vườn. Norah đã bày bàn ăn và trải lên đó những tấm khăn rực rỡ. Nàng còn sắp cả đĩa và cốc uống rượu, ghế và khăn ăn cũng những bình hoa. Một cây cột hoa[12], vốn là một cây dương hơi cong được trang trí mà thành, đặt giữa sân, những dải ruy băng sặc sỡ rủ xuống. Cũng do nàng tự tay làm. David đã đề nghị giúp đỡ nhưng nàng từ chối. Tránh ra đi, nàng đã nói vậy. Đó là điều tốt nhất anh có thể làm bây giờ. Vậy là anh nghe lời.
Anh quay gót trở vào trong buồng tối, lạnh lẽo và kín đáo, với ánh đèn đỏ mờ đục và mùi hóa chất nồng nặc.
“Mẹ đang thay đồ,” Paul nói. “Con không được để người bẩn đâu.”
“Yêu cầu khó đây,” David ngắm nghía rồi cất mấy chai keo và thuốc tráng ảnh lên một cái giá cao, vượt hẳn tầm với của Paul. “Con vào nhà đi, nhé? Bố sẽ vào ngay. Rồi ta sẽ cùng tìm mấy bông huệ biển kia.”
Paul chạy xuống cầu thang; David thoáng thấy nó chạy ào qua bãi cỏ, tấm cửa lưới của căn nhà đóng sập lại sau lưng nó.
Anh rửa sạch mấy cái khay và dựng lên cho khô, rồi lấy phim ra khỏi chậu thuốc tráng và đổ dung dịch đó đi. Ở trong buồng tối thật là thanh bình, mát lạnh và yên tĩnh, anh đứng đó thêm vài giây rồi theo gót Paul. Ở bên ngoài, những tấm khăn trải bàn khẽ dợn lên theo từng cơn gió thoảng. Những giỏ con, kết bằng giấy và cắm đầy những hoa xuân, tô điểm thêm cho mỗi chiếc đĩa. Hôm qua, đúng ngày mùng Một tháng Năm, Paul đã cầm những chiếc giỏ như thế sang các nhà hàng xóm, treo lên từng cánh cửa, gõ cửa và chạy đi nấp để xem cảnh mọi người phát hiện ra chiếc giỏ. Đó là sáng kiến của Norah: nghệ thuật, sức sống và trí tưởng tượng của nàng.
Nàng đang ở trong bếp, đeo một chiếc tạp dề bên ngoài bộ đồ màu san hô, đang dở tay xếp mùi tây và cà chua bi lên dĩa thịt.
“Mọi thứ xong hết rồi à?” Anh hỏi. “Ngoài kia bày biện đẹp quá, anh giúp gì được không?”
“Anh thay đồ đi nhé?”, nàng nói mắt liếc đồng hồ rồi lấy khăn lau khô tay. “Nhưng giờ anh bê cái đĩa này để vào tủ lạnh dưới nhà được không? Nó đầy rồi. Cảm ơn anh.”
David đỡ lấy cái đĩa, chất thủy tinh mát rượi trên tay anh. “Cả một núi việc ấy nhỉ,” anh nhìn nàng. “Sao em không đặt đồ ăn?”
Anh có ý giúp nàng nhưng Norah đã dừng bước trên đường ra cửa, cau mày lại.
“Bởi vì em thích làm,” nàng đáp. “Lên kế hoạch và nấu nướng- tất cả mọi việc. Bởi vì em cảm thấy rất dễ chịu khi làm ra những thứ đẹp đẽ từ những vật tầm thường. Em có rất nhiều năng khiếu,” nàng nói thêm, giọng lạnh băng, “dù anh có biết hay không.”
“Ý anh không phải vậy.” David thở dài. Dạo này họ giống như hai hành tinh quay xung quanh một mặt trời, không va chạm mà cũng chẳng tiến gần nhau hơn chút nào. “Ý anh là, sao em không nhờ ai phụ giúp? Thuê người nấu ăn chẳng hạn. Chúng ta hoàn toàn có thể lo được chi phí cơ mà.”
“Không phải vấn đề tiền nong.” nàng nói, lắc đầu, và bước ra ngoài.
Anh cất đĩa thức ăn rồi lên gác cạo râu. Paul bám theo anh, nó ngồi trên thành bồn tắm, vừa nói liếng thoắng, vừa gõ gót chân lên lớp men sứ. Thằng bé yêu nông trại của ông Jason, nó đã giúp ông vắt sữa bò, còn ông Jason cho nó uống ít sữa, vẫn còn âm ấm và có vị của cỏ.
David lấy chiếc chổi lông mềm xoa đều xà phòng, vui vẻ lắng nghe. Lưỡi dao cạo trượt những đường rất êm và mềm mại trên da anh, hắt những đốm sáng lấp lóa trên trần nhà. Trong chốc lát, cả thế giới như dừng lại, bất động: không khí mùa xuân nhẹ nhàng, mùi hương xà phòng cùng giọng nói phấn khích của con trai anh.
“Bố đã từng vắt sữa bò rồi đấy nhé,” David nói. Anh lau khô mặt và với tay lấy chiếc áo sơ mi. “Hồi xưa bố có thể bắn tia sữa vào trúng miệng con mèo cơ.”
“Ông bạn Jason cũng làm được thế đấy! Con thích Jason lắm. Ước gì bạn ấy là anh trai con.”
David, vừa thắt cà vạt vừa ngắm hình ảnh Paul trong gương. Trong cái lặng im không hoàn toàn tĩnh tại ấy - vòi nước bồn rửa nhỏ tí tách,  kim đồng hồ tích tắc khe khẽ - anh miên man nghĩ tới con gái mình. Cứ chừng vài tháng một lần, rà qua những thư từ gửi đến văn phòng, anh lại gặp một bức thư với nét chữ ngoằn ngoèo của Caroline. Những bức thư đầu tiên đến từ Cleveland, còn đến giờ cứ mỗi phong bì lại đóng dấu một bưu điện khác. Đôi khi Caroline gửi từ một số hòm thư bưu điện mới - luôn luôn là những địa điểm khác nhau, những thành phố cực kỳ đông đúc - và mỗi lần cô làm vậy, David lại gửi tiền. Họ chưa bao giờ hiểu rõ về nhau, vậy mà những lá thư cô gửi cho anh qua năm tháng ngày càng thêm phần thân thiết. Những lá thư gần đây nhất có lẽ vừa được xé ra từ chính nhật ký của cô, được bắt đầu bằng David thân mến hay chỉ đơn giản là David, những suy nghĩ của cô tuôn trào như thác lũ. Nhiều khi anh cố gắng vứt những lá thư đi mà không hề mở ra, nhưng rốt cuộc anh vẫn lục lại chúng từ trong thùng rác và đọc vội vã. Anh khóa kỹ chúng trong tủ hồ sơ đặt ở buồng tối để luôn biết chắc nơi cất. Để Norah không bao giờ tìm thấy.
Có một lần, cách đây cũng nhiều năm rồi, khi những lá thư đầu tiên tới tay anh, David đã lái xe thẳng một mạch tám tiếng liền đến Cleveland. Anh đi khắp thành phố suốt ba ngày trời, lùng sục khắp các danh bạ điện thoại, hỏi thăm từng bệnh viện. Ở bưu điện trung tâm anh đã chạm đầu ngón tay lên cánh cửa bằng đồng nhỏ xíu đánh số 621, nhưng ông trưởng bưu cục không chịu cho anh biết tên hay địa chỉ của chủ hộp thư. Tôi sẽ đứng đây đợi vậy, David nói và người đàn ông nhún vai. Cứ việc, ông ta nói. Tốt hơn hết là anh nên mang theo cả thức ăn nữa ấy. Phải nhiều tuần nữa may ra có người mới tới lấy thư.
Cuối cùng, anh đã bỏ cuộc và quay về nhà, mặc kệ thời gian trôi qua, ngày nối ngày, khi Phoebe cứ lớn dần mà không có anh. Mỗi lần gửi tiền, anh lại gửi kèm một mẩu giấy nhắn Caroline báo cho anh biết nơi cô sống, nhưng anh không ép cô, hay thuê một thám tử tư như cái ý định đôi lúc nảy sinh trong đầu anh. Anh tin mình muốn tìm ra cô. Anh tin rằng một khi anh làm được - một khi anh có thể sửa chữa mọi chuyện - anh có thể nói với Norah sự thật.
Anh tin tưởng tất cả những điều đó, anh thức dậy mỗi sáng và đi bộ đến bệnh viện. Anh tiến hành những cuộc phẫu thuật, chuẩn đoán các bản chụp X-quang rồi về nhà, xén cỏ ngoài sân và chơi đùa với Paul; cuộc sống của anh đã viên mãn. Nhưng ngay cả thế, thì cứ độ vài tháng, không hiểu vì lý do gì anh lại choàng tỉnh và nhận ra mình vừa mơ thấy Caroline Gill nhìn anh trân trối từ ngưỡng cửa  phòng khám hay bên kia sân nhà thờ. Bừng tỉnh, run rẩy, anh mặc quần áo và đi xuống phòng làm việc hoặc ra buồng tối, ở đó anh soạn tài liệu hoặc thả ảnh vào chậu hóa chất, ngắm nhìn những hình ảnh hiện dần lên trên nền giấy trống trơn.
“Bố, bố quên không tra mấy mẫu hóa thạch à,” Paul nói. “Bố hứa rồi mà.”
“À, phải rồi,”  David nói, giật mình trở về với thực tại rồi chỉnh lại nút thắt cà vạt. “Phải rồi, con trai. Bố hứa mà.”
Hai bố con cùng nhau xuống căn phòng nhỏ dưới nhà và bày những cuốn sách quen thuộc ra bàn. Mảnh hóa thạch là một loại hoa huệ biển, là một phần của loài sinh vật biển có bề ngoài giống như một bông hoa. Những mảnh đá hình cúc áo xưa kia từng là những phiến đá góp phần tạo nên những cột trụ. Anh khẽ đặt tay lên lưng Paul, cảm nhận từng thớ thịt của thằng bé, thật ấm áp và sống động, cùng những đốt xương sống mảnh dẻ ẩn dưới làn da nó.
“Để con đem cho mẹ xem.” Paul nói. Thằng bé vơ hết các mẫu hóa thạch rồi chạy ào ra khỏi nhà qua cửa hậu. David rót một ly rượu rồi đến đứng bên cửa sổ. Có vài người khách đã tới, đang đứng rải rác quanh bãi cỏ, cánh đàn ông mặc áo khoác xanh sẫm, các bà các cô lại như bông hoa xuân sặc sỡ  trong những bộ đồ màu hồng, vàng rực, và lam nhạt. Norah len lỏi giữa đám đông, ôm hôn những người phụ nữ, bắt tay, giới thiệu mọi người. Khi David mới biết nàng, nàng rất ít nói, điềm tĩnh, khép kín, và thận trọng. Anh chưa từng tưởng tượng nổi là sẽ có khi thấy nàng như trong giờ khắc này, ham giao du và thoải mái, tổ chức hẳn một buổi tiệc do chính tay mình chuẩn bị đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngắm nhìn nàng, David bỗng thấy trong lòng ngập tràn một cảm giác tựa như là khao khát. Khao khát điều gì?. Cuộc sống lẽ ra họ đã có, chắc vậy. Dường như Norah đang vui vẻ, nàng cười vang trên bãi cỏ. Tuy vậy David biết rằng thành công này là không đủ, dù chỉ cho một ngày. Đến tối nàng sẽ nghĩ ra việc gì khác, nếu anh tỉnh dậy giữa đêm khuya, lướt tay trên những đường cong tấm lưng nàng, hy vọng sẽ làm nàng giật mình, thì nàng cằn nhằn, giữ tay anh lại rồi quay đi mà không hề tỉnh ngủ.
Paul đang ngồi trên xích đu, bay cao tít lên trời xanh. Trên cổ thằng bé là một sợi dây dài xâu mấy mảnh hóa thạch hoa huệ biển, chúng nẩy lên rồi lại rơi xuống, nhảy nhót trên ngực thằng bé, có lúc lại đập vào sợi dây treo xích đu.
“Paul.” Norah kêu lên, giọng nàng vang lên rành rõ dù ở ngoài trời. “Paul, bỏ ngay thứ ấy ra khỏi cổ con đi. Nguy hiểm lắm.”
David uống nốt hớp rượu và ra ngoài. Anh gặp Norah trên bãi cỏ.
“Đừng em.” anh nhẹ nhàng nói, đặt tay lên cánh tay nàng. “Con tự làm đấy.”
“Em biết. Em đã cho nó sợi dây. Nhưng nó đeo lúc khác cũng được. Nếu nó trượt chân ngã trong lúc chơi mà dây bị vướng, cái dây có thể siết cổ thằng bé đấy.”
Nàng vô cùng căng thẳng, anh bèn thả tay xuống.
“Chắc không đâu,” anh nói, thầm ước mình có thể xóa đi những mất mát và những gì nó đã gây ra với cả hai người. “Norah, sẽ không có chuyện gì xảy ra với con đâu.”
“Anh làm sao biết được.”
“Kể cả thế, David nói đúng đấy Norah.”
Tiếng nói phát ra từ sau lưng. Anh quay lại và thấy Bree, sự hoang dại, cảm xúc và vẻ đẹp của cô tràn qua nhà họ như một cơn gió. Cô mặc một chiếc váy mỏng nhẹ dành cho tiết xuân, dường như bồng bềnh theo mỗi bước chân đi, và nắm tay một chàng thanh niên trẻ, thấp hơn cô: râu ria cạo sạch nhẵn, mái tóc hung hung đỏ, chân đi xăng đan và không cài khuy cổ áo.
“Bree, thật đấy, sợi dây có thể bị vướng và siết cổ thằng bé.” Norah khăng khăng, nàng quay người lại.
“Nó đang chơi đu mà.” Bree dịu dàng nói với nàng trong khi Paul bay cao giữa trời, đầu ngả ra sau, ánh nắng rót lên khuôn mặt nó. “Chị xem xem thằng bé vui chưa kìa. Đừng bắt nó xuống và làm nó lo lắng. David nói đúng đấy, sẽ chẳng có chuyện gì đâu.”
Norah cố nở nụ cười. “Không à? Thế giới có thể sụp đổ. Chỉ mới hôm qua chính miệng em đã nói thế kia mà.”
“Nhưng đấy là ngày hôm qua.” Bree nói. Cô chạm vào tay Norah và họ nhìn nhau một lúc lâu, trong  khoảnh khắc họ kết nối với nhau theo cách khiến tất cả những người khác đều bị gạt  ra ngoài lề. David quan sát mà thấy lòng dâng trào khao khát, những kỷ niệm về em gái anh chợt ùa về, hai anh em trốn dưới gầm bàn bếp, hé nhìn qua những nếp gấp của tấm vải dầu, cố nén cười. Anh nhớ mãi ánh mắt em, hơi ấm trên cánh tay em, và niềm vui khi có em ở bên.
“Hôm qua có chuyện gì cơ?” David hỏi, gạt những ký ức qua một bên, nhưng Bree lờ đi, vẫn nói chuyện với Norah.
“Chị à, em xin lỗi,” cô nói. “Hôm qua mọi chuyện cứ rối tung hết cả lên. Em cư xử hơi quá.”
“Chị cũng xin lỗi,” Norah nói. “Chị rất mừng vì em vẫn đến chơi.”
“Hôm qua có chuyện gì? Em có mặt ở chỗ đám cháy hả Bree?” David lại hỏi. Anh và Norah đã tỉnh giấc giữa đêm khi nghe tiếng còi báo động, ngửi thấy mùi khói cay sè và thấy một khoảng sáng kỳ dị hắt lên bầu trời. Họ ra ngoài đứng bên cạnh những người hàng xóm trên bãi cỏ tối om, im ắng, mắt cá chân ướt đẫm sương, trong khi đó, trong khuôn viên trường đại học, tòa nhà ROTC bốc cháy ngùn ngụt. Đã từ nhiều ngày nay các cuộc biểu tình trở nên gay gắt hơn, không khí căng thẳng bao trùm, vô hình nhưng hiện hữu, trong khi đó những làng mạc dọc sông Mê Kong, bom rơi đạn nổ và người dân chạy loạn, bế những đứa trẻ đã chết trên tay. Bên kia sông ở Ohio, bốn sinh viên đã thiệt mạng. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng nổi chuyện này ở Lexington, Kentucky: một quả bom xăng rồi một tòa nhà chìm trong biển lửa, cảnh sát đổ ra khắp các tuyến phố.
Bree quay sang phía anh, mái tóc dài lúc lắc trên vai và lắc đầu. “Không, em không có ở đó, nhưng Mark thì có.” Cô mỉm cười với chàng thanh niên đi cùng và đưa cánh tay thon dài khoác tay anh ta. “Đây là Mark Bell.”
“Mark đã từng chiến đấu ở Việt Nam,” Norah chêm vào. “Hiện giờ cậu ấy đang tham gia biểu tình phản chiến.”
“À,” David nói. “Một phần tử quá khích.”
“Em nghĩ là người biểu tình thì đúng hơn,” Norah chữa lại, rồi vẫy tay về phía bên kia bãi cỏ. “Kay Marshall kìa,” nàng nói “Xin lỗi mọi người một chút nhé?”
“Thế là người biểu tình hả,” David nhắc lại, anh nhìn Norah quay gót bước đi, gió lùa nhè nhẹ trên tay áo bộ đồ bằng lụa nàng mặc.
“Phải” Mark đáp. Anh ta nói bằng giọng cố ý bỡn cợt bản thân, chất giọng quen quen khiến David nhớ tới giọng của bố anh, trầm và êm. “Cuộc đeo đuổi công bằng và công lý không ngừng nghỉ.”
“Cậu có mặt trên bản tin nữa,” David nói, lập tức nhớ ra ngay anh chàng. “Tối qua. Cậu có phát biểu vài lời. Chà. Chắc cậu rất vui mừng vì đám cháy đó.”
Mark nhún vai. “Không vui. Không hối tiếc. Nó đã xảy ra, thế thôi. Chúng tôi vẫn phải tiếp tục.”
“David, sao anh hằn học thế nhỉ?” Bree hỏi, đôi mắt xanh nhìn anh như đóng đinh.
“Anh không hằn học,” David đáp, nhưng anh biết mình có cảm giác đó ngay cả khi nói ra. Anh cũng nhận ra mình bắt đầu nén bẹt rồi kéo dài các nguyên âm, bị thu hút bởi một sức hút ngôn từ sâu thẳm bên trong, kiểu nói đã quá quen thuộc và hấp dẫn như nước chảy. “Anh chỉ đang thu thập tin tức, thế thôi. Quê cậu ở đâu?”
“Tây Virginia, gần Elkins. Sao?”
“Chỉ tò mò thôi. Gia đình tôi từng sống ở đó.”
“Em không biết chuyện đó đấy, David.” Bree nói. “Em tưởng anh sinh ra ở Pittsburgh”
“Gia đình anh từng sống gần Elkins,” David lặp lại. “Cũng lâu rồi.”
“Thật hả?” Ánh nhìn của Mark đối với anh đã bớt phần đề phòng. “Nhà anh làm than à?”
“Thỉnh thoảng, vào mùa đông thôi. Gia đình tôi có một nông trại. Cuộc sống cũng khó khăn lắm nhưng không vất vả bằng làm than.”
“Nhà anh giữ đất đai chứ?”
“Phải.” David nghĩ tới ngôi nhà anh đã không nhìn thấy gần mười lăm năm nay.
“Sáng suốt đấy. Ông già tôi ấy, ông ấy đã bán hết đất đai. Năm năm trước khi ông chết trong mỏ than, chúng tôi chẳng biết phải đi đâu. Chẳng có chỗ nào mà đi.” Mark cười chua chát và ngẫm nghĩ một lát. “Anh đã từng quay lại đó chưa?”
“Cũng lâu lắm rồi tôi chưa về. Còn cậu?”
“Không. Sau khi rời Việt Nam tôi vào đại học Morgantown, theo diện ưu tiên cho cựu binh. Cái cảm giác khi trở lại, lạ lắm. Tôi thuộc về nơi này, rồi không  còn thuộc về nó nữa, không biết anh có hiểu ý tôi không. Khi ra đi, tôi không nghĩ là mình đang lựa chọn, vậy mà lại đúng như thế.”
David gật đầu. “Tôi hiểu,” David nói. “Tôi hiểu ý cậu mà.”
“Ừm,” Bree cất lời, sau hồi lâu im lặng. “Hai anh ở đây nhé. Em càng lúc càng thấy khát. Mark? David? Có ai muốn uống gì không?”
“Anh đi với em.” Mark nói, đoạn chìa tay ra với David. “Thế giới nhỏ quá, phải không? Rất vui được gặp anh.”
“David là một điều bí ẩn đối với tất cả mọi người.” Bree vừa nói vừa kéo anh ta đi. “Anh cứ hỏi Norah mà xem.”
David nhìn họ mất hút vào đám đông đang đi lại náo nhiệt. Một cuộc gặp gỡ bình thường,vậy mà anh lại cảm thấy bị khích động một cách kì dị, thấy mình bị bóc trần và thật mong manh, quá khứ tràn về như biển dâng. Mỗi sáng anh lại đứng hồi lâu trên bậc cửa văn phòng, ngắm nhìn thế giới giản dị sạch sẽ của mình: những dây dụng cụ xếp ngăn nắp, tấm vải trắng bong phủ trên bàn khám. Nhìn bề ngoài, anh là người thành công trên mọi phương diện, nhưng bản thân anh lại chưa bao giờ cảm thấy trọn vẹn niềm kiêu hãnh và sự an lòng như mình mong muốn. Bố nghĩ là đã đến lúc rồi, bố anh đã nói vậy khi sập cánh cửa xe tải và đứng trên vỉa hè kế trạm dừng xe buýt vào cái ngày David khăn gói đi Pittsburgh. Bố nghĩ đây là lần cuối chúng ta trông ngóng tin con, con còn phải thăng tiến và nhiều thứ nữa phải lo. Con sẽ không có thời gian cho chúng ta nữa đâu. Và David, đứng trên vỉa hè, những chiếc lá đầu mùa rụng rơi quanh anh, cảm thấy nỗi tuyệt vọng sâu sắc, bởi vì ngay trong khoảnh khắc ấy, anh đã linh cảm thấy những gì bố anh nói sẽ trở thành sự thực: dù bản thân anh toan tính điều gì, dù anh có yêu họ đến đâu, cuộc đời anh cũng sẽ kéo anh đi xa dần.
“Anh vẫn ổn đấy chứ, David?” Kay Marshall hỏi. Cô ta tiến đến, tay ôm một bình hoa tulip màu hồng phớt, mỗi cánh hoa mỏng manh tựa mép lá gan “Trông anh đăm chiêu thế.”
“À, Kay,” anh đáp. Cô ta khiến anh phần nào nghĩ tới Norah, có gì đó như sự cô đơn ẩn dưới vẻ ngoài trau chuốt cẩn thận của cô. Có lần, sau khi nốc rượu say mèm ở một bữa tiệc, Kay  bám theo anh vào hành lang tối om, vòng tay qua cổ anh và hôn anh. Giật mình, anh đã hôn lại cô ta. Giây phút đó đã qua lâu, và dù vẫn hay nhớ tới làn môi mát lạnh bất thần áp lên môi mình, nhưng mỗi lần nhìn thấy cô ta, David lại tự hỏi liệu nó đã thực sự xảy ra chưa. “Lúc nào trông cô cũng quyến rũ chết người, Kay ạ.”Anh giương mục kỉnh nên nhìn cô. Cô nhoẻn miệng cười vang rồi bước tiếp.
Anh bước vào bầu không khí mát lạnh của ga ra rồi đi lên gác, lấy chiếc máy ảnh trong tủ ra và lắp một cuốn phim mới. Giọng Norah vượt lên hẳn tiếng ồn ào của đám đông. Anh nhớ lại cảm giác trên làn da nàng khi anh chạm vào nàng sáng đó, đường cong mềm mại của sống lưng nàng. Anh nhớ khoảnh khắc nàng và Bree chia sẻ cùng nhau, họ thật sự gắn kết, hơn mọi mối dây tình cảm mà vợ chồng anh từng có. Anh muốn, anh thầm nghĩ, rồi quàng dây máy ảnh qua cổ. Anh rất muốn.
Anh đi quanh các bàn tiệc, cười và chào hỏi, bắt tay, né tránh mọi cuộc trò chuyện để có thể ghi lại những khoảnh khắc của bữa tiệc vào phim. Anh ngừng lại trước bình hoa tulip của Kay, ngắm thật gần, chợt thấy chúng thật sự giống đường nét mỏng mảnh của tế bào gan và hẳn sẽ rất thú vị nếu đóng khung hai bức hình chụp chúng và đặt cạnh nhau. Anh khám phá ra rằng bằng một cách bí ẩn nào đó, cơ thể chính là hình ảnh phản chiếu hoàn hảo của vạn vật. Anh chìm đắm trong đó, những âm thanh của bữa tiệc nhòa dần khi anh say sưa với những bông hoa, và anh bỗng giật mình khi nhận thấy bàn tay Norah đặt lên tay anh.
“Cất cái máy ảnh đi,” nàng nói. “Em xin anh. Đang tiệc tùng mà David.”
“Mấy bông hoa tulip đẹp quá,” anh dợm giọng, nhưng không tài nào giải thích được, anh không biết phải diễn tả lý do khiến những hình ảnh đó mê hoặc anh đến vậy.
“Đang bữa tiệc,” nàng lặp lại. “Anh có thể đứng ngoài mà chụp ảnh, nếu không thì tự lấy cho mình đồ uống và tham gia cùng mọi người.”
“Anh có rượu rồi,” anh phân bua. “Chẳng ai để ý đến việc anh chụp ảnh đâu, Norah.”
“Em để ý. Làm thế là bất lịch sự.”
Họ nói rất nhỏ, và giữa cuộc trao đổi Norah không ngừng mỉm cười. Trông nàng rất điềm tĩnh; vẫn gật đầu và vẫy tay với mọi người ở phía bên kia bãi cỏ. Ngay cả lúc ấy David vẫn có thể cảm thấy sự căng thẳng toát ra từ nàng, và cơn giận mà nàng đang cố kìm nén.
“Em đã phải vất vả bao nhiêu,” nàng nói. “Em đã cắt đặt mọi việc. Em chuẩn bị tất cả thức ăn. Thậm chí em còn phá cả tổ ong. Sao anh không chịu tận hưởng bữa tiệc đi?”
“Em dỡ tổ ong xuống lúc nào?” anh hỏi, cố tìm một chủ đề an toàn, mắt liếc nhìn mái hiên ga ra đã sạch trơn.
“Hôm qua.” Nàng giơ cổ tay ra, vết sưng tấy lên đo đỏ. “Em không muốn anh hay Paul bị dị ứng thêm một lần nào nữa.”
“Bữa tiệc đẹp lắm,” anh nói. Trong cơn bốc đồng, anh đưa cổ tay nàng lên môi và dịu dàng hôn lên chỗ ong đốt. Nàng nhìn anh, đôi mắt mở to ngạc nhiên và lấp lánh niềm vui, rồi rụt tay lại.
“David,” nàng kêu khe khẽ, “trời đất, không phải ở đây. Không phải lúc đâu anh.”
“Bố, bố ơi,” Paul gọi to, David nhìn quanh, cố xác định xem con mình ở đâu. “Bố, mẹ, xem con này. Xem con này!”
“Thằng bé ở trên cây sếu,” Norah kêu lên, mắt tối xầm lại, chỉ tay sang bên kia bãi cỏ. “Kia, ở trên kia, thằng bé leo đến lưng chừng rồi. Sao nó làm được thế nhỉ?”
“Anh cá là thằng bé bám xích đu leo lên. Ê này!” David gọi, đoạn vẫy tay với thằng bé.
“Xuống ngay đi con!” Norah gọi. Rồi nàng quay sang David, “Nó làm em lo quá.”
“Trẻ con mà em,” David nói. “Trẻ con thích leo cây. Nó không sao đâu.”
“Mẹ ơi! Bố ơi! Cứu con với!” Paul gào to, nhưng khi họ ngước lên nhìn thì thằng bé lại cười ngặt nghẽo.
“Anh có nhớ lần nó làm thế ở tiệm tạp hóa không?” Norah hỏi. “Anh có nhớ hồi mới tập nói, nó cũng hay kêu cứu giữa cửa hàng không? Mọi người đã nghĩ là em bắt cóc nó.”
“Nó cũng từng làm thế ở phòng khám mà,” David nói. “Em nhớ không?”
Họ cùng cười vang. David cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui.
“Anh cất máy ảnh đi nhé,” nàng nói, bàn tay đặt trên cánh tay anh.
“Rồi,” anh đáp. “Để anh cất đi.”
Bree lang thang quanh cây cột hoa và nhặt một dải dây duy băng hồng tím lên. Một vài người khác thấy có vẻ thú vị, bèn tham gia trò chơi của cô. David quay gót trở lại ga ra, mắt ngắm nhìn những đầu ruy băng tung bay dập dờn. Anh nghe thấy tiếng lá cây thốt nhiên lay động, và một cành cây gãy rắc rất to. Anh thấy Bree giơ hai tay lên, dải duy băng tuột khỏi ngón tay khi cô với lên cao. Một khoảng im lặng kéo dài dằng dặc, rồi Norah thét lên. David quay lưng lại vừa đúng lúc Paul ngã bịch xuống đất, rồi khẽ nẩy lên, lưng chạm đất, chiếc vòng cổ xâu mảnh hóa thạch huệ biển vỡ vụn, những mảnh đá quí rơi vãi trên mặt đất. David xô đẩy khách khứa chạy đến, và quì gối xuống bên con. Đôi mắt sẫm của Paul tràn đầy nỗi sợ hãi. Thằng bé túm chặt lấy tay David, cố gắng thở.
“Không sao đâu,” David nói, rồi vuốt nhẹ lên trán Paul. “Con bị ngã từ trên cây xuống nên thấy khó thở thôi, không sao đâu. Thả lỏng người đi con. Hít một hơi đi. Con sẽ ổn thôi mà.”
“Con có sao không anh?” Norah hỏi, quỳ xuống bên thằng bé, nàng vẫn bận bộ đồ màu san hô. “Paul, con yêu, con có sao không?”
Paul thở hổn hển và ho hung hắng, nước mắt ầng ậng dâng lên mắt thằng bé. “Tay con đau quá,” nó cất tiếng, khi bắt đầu nói trở lại được. Người nó tái nhợt, một đường tĩnh mạch xanh mảnh hằn trên trán, David đoán được ngay thằng bé đang gắng hết sức để không khóc. “Tay con đau lắm.”
“Tay nào hả con?” David hỏi bằng giọng bình tĩnh nhất có thể. “Con chỉ cho bố xem nào.”
Đó là tay trái, và khi David thận trọng nhấc cánh tay này lên, đỡ lấy khủy tay và cổ tay, Paul hét lên đau đớn.
“David!” Norah kêu lên. “Tay con có bị gãy không?”
“Ừm, anh cũng không chắc,” anh bình tĩnh đáp, mặc dù khá chắc chắn cánh tay đã gãy. Anh nhẹ nhàng đặt cánh tay Paul lên ngực nó, rồi đặt tay lên lưng Norah để xoa dịu vợ. “Paul, bố sẽ bế con lên. Bố sẽ bế con ra xe. Rồi chúng ta đến phòng khám của bố nhé? Bố sẽ chỉ con xem tia X.”
Chậm rãi, nhẹ nhàng, anh bế Paul lên. Con trai anh nằm trên tay thật nhẹ. Khách khứa rẽ ra cho anh bước qua. Anh đặt Paul vào ghế sau, lấy một chiếc chăn trong cốp xe và quấn quanh người nó.
“Em đi cùng hai bố con,” Norah vừa nói vừa ngồi vào nghế trước bên cạnh anh.
“Còn bữa tiệc thì sao?”
“Còn rất nhiều thức ăn và rượu,” nàng đáp. “Họ chỉ cần tự tìm lấy thôi.”
Họ lái đi trong bầu không khí xuân rạng rỡ thẳng hướng bệnh viện. Thỉnh thoảng Norah vẫn hay trêu chọc anh về đêm nàng sinh, cách anh lái xe chậm và máy móc thế nào qua những con phố vắng tanh, nhưng đến hôm nay anh cũng không tài nào ép nổi mình tăng tốc.
Họ lái xe qua tòa nhà ROTC vẫn còn âm ỉ cháy. Làn khói bốc lên như những dải đăng ten tối màu. Những cây sơn thù du đang vào độ nở hoa, cánh hoa nhàn nhạt và mỏng mảnh nổi bật trên nền những bức tường đen kịt.
“Thế giới đang vỡ ra từng mảnh, cảm giác đúng là như vậy”, Norah khẽ nói.
“Không phải lúc này, Norah.” David liếc nhìn Paul qua gương chiếu hậu. Thằng bé im lặng, không phàn nàn nửa câu, nhưng nước mắt chảy dài trên hai gò má nhợt nhạt của nó.
Đến phòng cấp cứu, David dùng ảnh hưởng của mình để đẩy nhanh thủ tục nhập viện và chụp X-quang. Anh đỡ Paul nằm lên giường, để Norah đọc cho thằng bé những mẩu chuyện trong một cuốn sách nàng chộp lấy nơi phòng chờ, rồi đi lấy bản chụp X-quang. Khi nhận bản chụp từ tay kỹ thuật viên, anh thấy tay mình run lên, anh đi dọc hành lang yên tĩnh đến kì lạ trong buổi chiều thứ Bảy đẹp đẽ, tới thẳng văn phòng của mình. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng, trong khoảnh khắc David đứng đơn độc trong bóng tối, cố gắng trấn an bản thân. Anh biết những bức tường sơn màu xanh biển nhạt, mặt bàn ngổn ngang giấy tờ. Anh biết những dụng cụ, bằng thép và crôm, sắp thành hàng trên khay bên dưới chiếc tủ ốp kính mặt tiền. Nhưng anh không nhìn thấy chúng. Anh đưa tay lên và áp lòng bàn tay vào mũi, ngay cả ở khoảng cách gần đến thế anh cũng không nhìn thấy những thớ thịt của mình, chỉ có thể cảm thấy mà thôi.
Anh rờ rẫm công tắc đèn; nó bật lên ngay khi anh chạm tới. Một tấm bảng gắn trên tường rung lên rồi tràn ngập ánh sáng trắng khiến mọi vật trông đều có màu nhợt nhạt. Trên nền sáng đó là những tấm phim âm bản anh rửa tuần trước: một seri ảnh chụp tĩnh mạch người, được chụp liên tục, với độ sáng giảm dần từng chút một, độ tương phản cũng thay đổi rất tinh tế qua từng bức ảnh. Điều khiến David vô cùng phấn khích là sự chuẩn xác mà anh đã đạt tới, và trông những bức ảnh như không phải là hình chụp bộ phận trên cơ thể con người mà giống như một vệt sét chạy thẳng xuống mặt đất, như những dòng sông trôi lững lờ, như những đợt sóng trào nơi biển cả.
Tay anh run run. Anh cố ép mình hít mấy hơi thật sâu, rồi gỡ những tấm phim âm bản xuống và kẹp bản chụp X-quang của Paul lên. Những đốt xương nhỏ bé của con trai anh, cứng cáp nhưng cũng rất mỏng manh, nổi bật hẳn lên với một sự sắc nét ma quái. David lần đầu ngón tay theo những hình ảnh tràn ngập ánh sáng. Đẹp quá, xương cậu con trai bé bỏng của anh, tuy mờ đục nhưng hiển hiện ngay đây như thể được lấp đầy trong ánh sáng, những hình ảnh mờ ảo bồng bềnh trong bóng tối phòng làm việc, vừa mạnh mẽ vừa mong manh như hai nhánh cây bện xoắn vào nhau.
Chấn thương khá rõ ràng: xương trụ chỗ khuỷu và xương quay gãy rời. Những đốt xương này chạy song song với nhau; nhưng chỗ nguy hiểm nhất cũng chính là ở đó, khi lành lại, hai xương này có thể bị dính vào nhau.
Anh bật chiếc đèn trên đầu và quay lại hành lang, mông lung nghĩ về thế giới tuyệt đẹp bên trong cơ thể người. Rất nhiều năm trước, trong một cửa hiệu bán giày ở Morgantown, trong khi bố anh thử một đôi ủng lao động và nhăn mặt trước mác giá thì David lại đứng trên cái máy chụp X-quang bàn chân, khiến những ngón chân bình thường biến thành những hình ma quái, bí ẩn. Mê mẩn, cậu bé ngắm nghía những đường sáng, vòng sáng mờ ảo phản ánh chính ngón chân, gót chân của cậu.
Dù sao sau nhiều năm trời anh mới nhận ra, nhưng đó thực sự là một khoảnh khắc quyết định. Rằng có những thế giới khác, chưa được nhìn thấy, chưa được biết tới, thậm chí nằm ngoài sức tưởng tượng, lại là những điều anh sẽ khám phá. Trong mấy tuần tiếp đó, khi ngắm nai chạy, chim vỗ cánh, lá rung rinh và thỏ chạy vọt lên từ dưới bụi cây David đều ngắm thật kỹ, cố gắng nhìn thấy cấu trúc xương bên trong của chúng. Và June- ngồi trên bậc thềm, lặng lẽ lột vỏ đậu hay tẽ ngô, hai bờ môi hé ra chăm chú - anh cũng ngắm cả cô bé nữa. Vì em vừa giống anh lại vừa không giống anh, và điều gì phân biệt giữa hai anh em vẫn còn là một bí ẩn lớn.
Em gái của anh, em yêu gió, em cười với nắng nhảy nhót trên khuôn mặt mình và không sợ rắn. Em chết khi mới mười hai tuổi, và giờ đây em đã là hư vô, chỉ còn trong kí ức yêu thương - đã không còn gì, ngoài một nắm xương tàn.
Và con gái anh, sáu tuổi, đang bước đi ngoài kia, nhưng anh không biết đến.
Khi anh quay lại, Norah đang ôm Paul trong lòng, mặc dù thằng bé đã hết cái tuổi để được ôm ấp kiểu ấy, nó khó khăn ngả đầu trên vai nàng. Cánh tay thằng bé run rẩy trong cơn co giật nhẹ do chấn thương.
“Có phải gãy xương không anh?” nàng hỏi ngay.
“Phải, anh sợ là thế,” David đáp. “Em ra xem đây này.”
Anh kẹp mấy bản chụp X-quang lên bàn đèn và chỉ vào những đường tối của vết nứt.
Bộ xương trong tủ, như mọi người vẫn nói, và khô như xương, và Tôi cần bàn với anh một vấn đề rất xương xẩu. Nhưng thật ra xương là vật thể sống; chúng tự sinh trưởng và hàn gắn; những phần bị gãy rời có thể tự liền lại.
“Em đã dè chừng lũ ong kỹ đến thế cơ mà,” Norah vừa nói vừa giúp anh đỡ Paul nằm lên bàn khám. “Mấy con ong vò vẽ ấy. Em đã dỡ cả tổ, và giờ thì thế này đây.”
“Tai nạn thôi mà,” David nói.
“Em biết,” nàng đáp, gần như bật khóc. “Thì mới là vấn đề.”
“David không đáp. Anh đã lấy đủ các dụng cụ cần thiết, giờ anh chỉ tập trung vào bó bột. Đã từ lâu anh không động tay vào việc này - thường anh chỉ nắn xương vào đúng chỗ và để y tá lo phần việc còn lại- như thế thì dễ chịu hơn. Cánh tay Paul nhỏ và lớp bột bó ngoài dày dần lên, trắng phớ như cái vỏ sò bị tẩy màu, sáng lóa và hấp dẫn chẳng khác nào một tờ giấy. Chỉ vài ngày nữa nó sẽ ngả sang màu xám nhạt, rồi chi chít những hình vẽ vui nhộn của trẻ con.
“Ba tháng,” David nói. “Sau ba tháng con sẽ được tháo bột.”
“Thế thì hết cả mùa hè rồi còn gì,” Norah nói.
“Thế còn các giải đấu mini?” Paul hỏi. “Bơi nữa?”
“Không bóng chày,” David đáp. “Không cả bơi luôn. Bố rất tiếc.”
“Nhưng Jason với con đã lên kế hoạch tham gia giải Little League rồi mà”
“Bố rất tiếc,” David đáp,.còn Paul thì khóc thút thít.
“Anh có nói sẽ không xảy ra chuyện gì,” Norah nói, “thế mà thằng bé bị gãy tay. Thế đấy. Biết đâu còn có thể là cổ nó. Lưng nó.”
David bỗng cảm thấy vô cùng mệt mỏi, một phần anh thấy đau lòng vì Paul, phần khác bực bội vì Norah.
“Chuyện đó đã có thể xảy ra, phải rồi, nhưng chưa hề. Thế nên em hãy thôi đi. Được chứ? Thôi ngay đi, Norah.”
Paul nín thít và chăm chú nghe ngóng, đề phòng trước giọng điệu thay đổi của bố mẹ. David tự hỏi Paul sẽ nhớ lại ngày hôm nay như thế nào? Cứ nghĩ tới việc con trai mình dấn bước vào một tương lai chẳng lấy gì làm chắc chắn, bước vào một thế giới nơi ai cũng có thể tham gia biểu tình và rồi ngã xuống với một viên đạn găm trên cổ, David thấy cảm thông với nỗi lo sợ của Norah. Nàng nói đúng. Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Anh đặt tay lên đầu Paul, món tóc húi cua cọ vào lòng bàn tay anh gai gai.
“Bố ơi, con xin lỗi,” Paul nói, giọng lí nhí. “Con không cố tình làm hỏng mấy tấm ảnh đâu.”
Sau một giây lúng túng, David mới nhớ ra cách đây mấy tiếng anh đã gầm lên khi đèn phòng tối đồng loạt bật sáng, Paul đứng đó tay vẫn còn đặt trên công tắc, sợ đến cứng đơ cả người.
“À, không. Không, con ạ. Bố không giận chuyện đó đâu, con đừng lo.” Anh vuốt lên má Paul. “Chuyện mấy tấm ảnh chẳng có gì đâu. Sáng nay bố mệt quá thôi mà. Con hiểu không?”
Paul di di ngón tay dọc lớp bó bột.
“Bố không định làm con sợ đâu,” David đáp. “Bố không giận đâu mà.”
“Con nghe thử ống nghe được không?”
“Được chứ.” David gài hai cái ống nghe màu đen vào tai Paul rồi ngồi xổm xuống. Anh áp miếng đĩa kim loại mát lạnh lên tim mình.
Qua khóe mắt anh có thể thấy Norah đang dõi theo hai bố con. Rời khỏi bữa tiệc vui vẻ, nàng đem theo nỗi u buồn của mình như một hòn đá đen vẫn nắm chặt trong tay. Anh khao khát được an ủi nàng, nhưng không biết phải nói gì. Anh ước mình có thể nhìn xuyên thấu trái tim con người: trái tim Norah và cả trái tim anh.
“Anh chỉ mong sao em được hạnh phúc hơn,” anh nói khẽ. “Anh ước gì mình có thể làm điều gì đó.”
“Anh không phải lo đâu,” nàng đáp. “Không phải lo cho em.”
“Không ư?” David hít một hơi thật sâu, sâu đến mức chính Paul cũng có thể nghe thấy luồng khí bị hút vào.
“Không. Em vừa nhận một công việc hôm qua rồi.”
“Một công việc?”
“Phải. Một công việc rất tốt.” Rồi nàng nói cho anh nghe tất cả về công việc đó: tại một đại lý du lịch, tất cả các buổi sáng. Nàng sẽ về kịp lúc đón Paul ở trường. Nghe nàng nói, David có cảm tưởng như nàng đang bay xa khỏi vòng tay anh. “Em tưởng như đã phát điên,” Norah nói bằng thứ giọng chì chiết khiến anh sững sờ. “Phát điên vì có quá nhiều thời gian. Đây sẽ là một chuyện tốt.”
“Thôi được,” anh nói. “Cũng tốt thôi. Nếu em mong có một công việc đến thế, thì cứ làm đi.” Anh cù Paul và giơ tay lấy chiếc ống nghe. “Đây nhé,” anh nói. “Nhìn vào tai bố xem nào. Xem bố có để quên con chim nào trong đó không.”
Paul cười, và chất kim loại mát lạnh áp lên dái tai anh.
“Em biết là anh sẽ không thích mà,” Norah nói.
“Ý em là sao cơ? Anh đã bảo em nhận việc rồi mà.”
“Ý em nói là cách anh nói cơ. Anh cứ thử nghe mà xem.”
 “Chà, vậy em muốn sao đây?” anh nói, cố gắng giữ giọng điềm tĩnh, vì Paul. “Khó mà không cảm thấy những lời này có tính tiêu cực lắm.”
“Chỉ tiêu cực nếu liên quan đến anh thôi,” nàng đáp. “Đấy là điểm anh vẫn chưa hiểu. Nhưng nó không liên quan đến anh. Vấn đề ở đây là tự do. Vấn đề là em nên có cuộc sống cho riêng mình. Em chỉ mong sao anh có thể hiểu cho em.”
“Tự do?” anh nói. Hẳn nàng đang ám chỉ em gái mình, anh đoán chắc là thế. “Em nghĩ có ai được tự do không, Norah? Em có nghĩ anh tự do không?”
Im lặng rất dài, và anh cảm thấy nhẹ nhõm khi Paul phá tan bầu không khí ấy.
“Chẳng có con chim nào cả, bố ạ. Toàn là hươu cao cổ thôi.”
“Thật hả? Bao nhiêu con?”
“Sáu.”
“Sáu con! Cha chả! Con xem nốt tai kia xem.”
“Có voi trong lỗ tai mất rồi,” David nói, rồi lấy lại chiếc ống nghe. “Ta phải về nhà ngay mới được.” Anh cố nở một nụ cười, rồi ngồi xổm xuống nhấc Paul lên, cùng cái tay bó bột. Khi anh cảm nhận được sức nặng của con trai mình, hơi ấm của cánh tay trần lành lặn vòng quanh cổ anh, David lại thả mình trong suy tư, tự hỏi liệu cuộc sống của họ sẽ ra sao nếu sáu năm trước anh quyết định làm khác đi. Tuyết đã rơi và anh đứng trong im lặng, hoàn toàn cô độc, rồi trong một thời khắc quan trọng anh đã tự quyết mọi việc. David, Caroline Gill đã viết trong bức thư mới nhất gửi cho anh, giờ tôi đã có bạn trai. Anh ấy rất tốt, còn Phoebe vẫn khỏe; con bé rất thích đuổi bướm và hát.
“Anh mừng vì em đã có việc,” anh nói với Norah trong lúc họ đứng ngoài hành lang chờ thang máy. “Anh không muốn tỏ ra khó khăn. Nhưng anh không tin là chuyện này không có dính dáng gì tới anh.”
Nàng thở dài. “Không,” nàng đáp. “Anh không chịu tin, phải không?”
“Thế nghĩa là sao?”
“Anh cứ cho mình là cái rốn của vũ trụ,” Norah nói. “Là điểm bất biến mà mọi vật khác phải xoay quanh.”
Họ thu nhặt tư trang và bước vào thang máy. Bên ngoài thời tiết vẫn dễ chịu, ngày ngả chiều muộn, trời trong và đầy nắng rực rỡ. Khi họ về đến nhà, khách khứa đã ra về hết. Chỉ còn lại Bree và Mark, khệ nệ bê những đĩa đầy thức ăn vào nhà. Những dải ruy băng treo trên cây cột hoa bay phất phơ trong gió. Chiếc máy ảnh của David nằm trên bàn, mấy mảnh hóa thạch của Paul xếp gọn gàng ngay cạnh đó. David dừng bước, ngắm nhìn bãi cỏ rải rác ghế. Đã từng có thời, cả vùng đất này chìm ngập dưới một biển nước nông. Anh bế Paul vào nhà và đi lên gác. Anh lấy cho nó một cốc nước cùng một viên aspirin vị cam nhai được mà thằng bé vẫn thích rồi ngồi bên nó trên giường, cầm bàn tay nó. Nhỏ quá, bàn tay này, thật ấm áp và tràn đầy sức sống. Nhớ đến hình ảnh những đốt xương của Paul tràn ngập trong ánh sáng, David bỗng thấy dâng tràn một cảm xúc sững sờ. Đó là những gì anh vẫn khao khát ghi lại trong từng thước phim: những khoảnh khắc hiếm hoi khi vạn vật dường như thu về một mối, gắn bó, mỗi vật đều được bao chứa trong một dáng hình thoáng hiện. Một điều giản dị giúp níu giữ mọi nét đẹp, hy vọng và chuyển động - như một bài thơ bàng bạc, cũng giống như cơ thể chính là một bài thơ kết thành từ máu thịt và xương vậy.
“Bố ơi, bố kể chuyện đi,” Paul nói, David bèn nằm xuống giường, vòng tay ôm Paul, giở quyển Cậu George hiếu kỳ, đoạn cậu bé phải nằm trong bệnh viện với cái chân gãy. Dưới nhà, Norah đi khắp các phòng để dọn dẹp. Cánh cửa lưới mở ra rồi đóng lại, mở ra rồi đóng lại. Anh tưởng tượng nàng bước qua khung cửa ấy, mặc bộ vest, hướng tới công việc mới của mình và một cuộc sống không có bóng dáng anh. Trời đã ngả chiều muộn, ánh sáng vàng rực tràn ngập căn phòng. Anh lật từng trang và ôm chặt Paul, cảm nhận rõ hơi ấm, hơi thở đều đặn của nó. Một làn gió nhẹ khẽ lay động những tấm rèm. Bên ngoài, cây sơn thù du như một đám mây sáng nổi bật trên nền đen sẫm của hàng rào. David ngừng đọc, ngắm những cánh hoa trắng rời cành chao xuống. Anh thấy nhẹ lòng và cả rối bời chính bởi vẻ đẹp của chúng, anh cố hết sức để xua đi cảm giác rằng, từ đây nhìn lại, trông chúng chẳng khác nào những bông tuyết.
------------
[12] nguyên bản: maypole, cây cột kết đèn hoa, được dựng lên để chào mừng ngày Quốc tế Lao động 1/5. Đây là phong tục truyền thống ở Mỹ và nhiều nước phương Tây. Ngoài ra người ta còn đan những chiếc giỏ cắm hoa và đặt trước nhà hàng xóm trong ngày này