1988
Chương 19
Tháng Bảy Năm 1988

    
AVID HENRY NGỒI TRÊN GÁC TRONG PHÒNG LÀM VIỆC TẠI NHÀ của ông. Qua khung cửa sổ đã bao năm mưa nắng dãi dầu và hơi xiêu vẹo, khung cảnh con phố lập lòe, gợn sóng và có phận méo mó. Ông nhìn con sóc nhặt một quả hạch rồi trèo lên cây tiêu huyền tán lá ép sát cửa sổ. Rosemary đang quỳ bên hiên nhà, mái tóc dài đung đưa mỗi khi cô cúi xuống để trồng củ và cây một năm trong những luống hoa vừa đào. Cô đã biến đổi cả khu vườn, mang những cây hoa hiên từ vườn nhà bạn về, trồng lanh cạnh ga ra, ở đó hoa lanh nở rộ, tràn ngập một màu xanh nhạt như sương mù. Jack ngồi gần cô, đang chơi với một chiếc xe thùng. Nó là một đứa bé khỏe mạnh, giờ đã lên năm, tính tình vui vẻ, ngoan ngoãn, với đôi mắt nâu thẫm và mấy vệt hung đỏ trên mái tóc hoe vàng. Thằng bé khá cứng đầu. Trong những buổi tối David trông nó khi Rosemary đi làm, Jack nằng nặc đòi tự làm mọi thứ. Cháu lớn rồi, nó tuyên bố, vài lần trong một ngày, vẻ rất kiêu hãnh và trịnh trọng.
David cho nó được làm mọi thứ nó muốn, trong khuôn khổ an toàn và hợp lý. Sự thật là ông thích ngắm thằng bé. Ông thích đọc truyện cho Jack, cảm nhận sức nặng và hơi ấm của nó, đầu nó tựa lên vai ông khi lơ mơ ngủ. Ông thích cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn đầy tin tưởng của nó khi hai ông cháu đi bộ trên vỉa hè ra cửa hàng. David đau lòng nhận ra rằng những ký ức của ông về Paul ở  tuổi đó rất thưa thớt, rất mờ nhạt. Khi ấy ông còn đang gây dựng sự nghiệp, phải rồi, còn bận bịu với phòng khám của mình - và việc chụp ảnh nữa - nhưng sự thật là chính tội lỗi của ông khiến ông trở nên xa cách. Những khuôn mẫu cuộc sống của ông giờ đã trở nên rõ ràng đến nhói lòng. Ông đã giao con gái mình cho Caroline Gill và cái bí mật ấy đã bén rễ, sinh sôi và đơm hoa kết trái giữa gia đình ông. Trong bao nhiêu năm trời ông về đến nhà để nhìn thấy Norah, đang pha đồ uống hay khoác áo tạp dề, ông đã nghĩ bà đáng yêu làm sao nhưng ông hầu như chẳng hiểu gì về bà hết.
Ông chưa bao giờ có đủ can đảm để cho bà biết sự thật, vì biết rằng mình sẽ mất bà mãi mãi - và có lẽ cả Paul nữa - nếu ông nói ra. Vì vậy ông dành cả đời mình cho công việc và, xét trên những phương diện của cuộc sống mà ông còn kiểm soát được, ông đã rất thành công. Nhưng, đáng buồn thay, ông chỉ còn nhớ một vài khoảnh khắc rời rạc ngắn ngủi trong năm tháng thơ ấu của Paul, với sự chính xác của những tấm ảnh: Paul ngủ gật trên sofa, một tay sã xuống, mái tóc sẫm rối bời. Paul đứng trên ván trượt, kêu ầm ĩ vì sợ hãi và phấn khích khi sóng vỗ quanh đầu gối. Paul ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong phòng chơi, tô màu thật chăm chú, mải mê với nhiệm vụ của mình đến độ không nhận ra David đang đứng ở ngưỡng cửa ngắm nhìn. Paul, quăng dây câu ra xa tít trên mặt nước tĩnh lặng, giữ cần thật chắc, gần như nín thở, trong khi họ chìm trong bóng chiều chạng vạng chờ cá đớp mồi.
Những ký ức ngắn ngủi, đẹp đến gần như không chịu nổi. Rồi đến những năm tháng thiếu niên, khi Paul trở nên xa cách hơn cả Norah, làm rung chuyển cả căn nhà bằng âm nhạc và cơn giận dữ của nó.
David gõ lên cửa sổ, vẫy tay với Jack và Rosemary. Ông đã mua căn nhà này, một căn nhà đôi, rất nhanh chóng, chỉ nhìn qua một lần rồi về nhà gói ghém đồ đạc luôn ngay khi Norah vẫn còn ở công ty. Đó là một căn nhà hai tầng đã cũ, được chia gần như chính xác thành hai phần, với vài bức vách mỏng chia đôi những căn phòng lớn trước đây, ngay cả cầu thang, một thời từng rất rộng rãi và duyên dáng, cũng được chia đôi. David chọn căn nhà rộng hơn và đưa Rosemary chìa khóa căn còn lại, trong sáu năm ròng họ đã sống bên nhau, bị chia cách bởi những bức tường mỏng nhưng ngày nào cũng nhìn thấy nhau. Thỉnh thoảng Rosemary cũng cố trả tiền thuê nhà, nhưng David từ chối tất, ông khuyên cô nên quay lại trường và học lấy mảnh bằng; rồi sau này cô có thể trả lại ông. Ông biết những việc làm của mình không hoàn toàn xuất phát từ lòng vị tha, tuy vậy ông cũng không lý giải nổi nữa, ngay cả với bản thân mình, vì sao cô lại có ý nghĩa quan trọng với ông đến thế. Cháu lấp vào chỗ trống của đứa con gái mà chú đã cho đi, một lần cô đã nói như vậy. Ông gật đầu, rồi ngẫm lại, nhưng cũng không phải, không hẳn. Còn hơn thế nữa, ông cho rằng Rosemary hiểu bí mật của ông. Ông đã kể hết mọi chuyện cho cô với sự gấp gáp nhường ấy, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, cô lắng nghe mà không hề phán xét. Ở đó ông tìm thấy tự do, David có thể hoàn toàn là chính mình khi ở bên Rosemary, người đã nghe hết những gì ông đã làm, không xua đuổi ông và cũng chẳng kể cho ai khác biết. Kể cũng lạ, qua năm tháng, Rosemary và Paul đã xây dựng một tình bạn, ban đầu còn miễn cưỡng, về sau biến thành những cuộc tranh luận tiếp diễn đầy nghiêm túc về các vấn đề cả hai bên cùng quan tâm - chính trị, âm nhạc và công bằng xã hội - tranh luận nảy sinh ngay giữa bữa tối trong những lần ghé thăm hiếm hoi của Paul và kéo dài đến tận khuya.
Đôi khi, David nghĩ đây là cách để Paul giữ khoảng cách với ông, cách để có mặt ở nhà ông mà không phải đả động đến những vấn đề quá đỗi riêng tư. Thỉnh thoảng David cũng cố gợi chuyện, nhưng Paul luôn chọn đúng lúc ấy để bỏ đi, đẩy ghế ra và ngáp dài, đột nhiên tỏ ra mệt mỏi.
Giờ thì Rosemary ngẩng đầu lên, đưa cổ tay gạt lọn tóc vương trên má, và vẫy tay chào lại ông. David cất mấy tập hồ sơ rồi đi xuống hành lang hẹp. Trên lối ông đi qua cánh cửa để ngỏ dẫn vào phòng Jack. Lẽ ra cánh cửa này phải bị khóa lại khi căn nhà được ngăn làm đôi, nhưng một tối, không hiểu do điều gì thôi thúc, David đã thử xoay nắm đấm cửa và nhận ra cửa không khóa. Giờ đây, thật nhẹ nhàng, ông đẩy cửa vào. Rosemary đã sơn căn phòng của Jack màu xanh lơ, giường và bàn phấn nằm chỏng chơ một góc, trắng tinh sạch sẽ. Một loạt hình cắt giấy scherenschnitte phức tạp, gồm hình mẹ và các con, trẻ em chơi đùa dưới tán cây, tinh xảo và sống động, được dán trên nền xanh sẫm, đóng khung treo trên bức tường phía xa. Rosemary đã trưng bày những hình cắt này trong một buổi triển lãm nghệ thuật tổ chức năm trước, và điều khiến cô ngạc nhiên, là những đơn đặt hàng bắt đầu được gửi đến tới tấp, hết đợt này đến đợt khác. Tối tối, cô thường ngồi bên chiếc bàn bếp, dưới ánh đèn rực rỡ, cắt hết hình này đến hình khác, mỗi hình đều khác nhau. Cô không thể hứa chắc với mọi người mình sẽ cắt hình gì; cô không chịu bị bó buộc bởi bất cứ hình ảnh nào. Bởi vì hình ảnh đã có sẵn ở đó, cô giải thích, nó ẩn mình trên giấy và trong từng cử động của tay cô, không có hình nào lặp lại lần thứ hai.
David đứng dậy, lắng nghe âm thanh của căn nhà: tiếng nước nhỏ tí tách khe khẽ, và tiếng ì ì của chiếc tủ lạnh cũ kỹ. Mùi nước hoa và phấn trẻ em hăng hắc; một chiếc váy ngủ vắt trên ghế đẩu đặt trong góc. Ông hít vào mùi hương của cô, của Jack, rồi đóng chặt cửa và đi tiếp trên dải hành lang hẹp. Ông chưa bao giờ nói với Rosemary về cánh cửa chưa khóa; nhưng ông cũng chưa bao giờ bước qua cánh cửa ấy. Đó là một giới hạn danh dự đối với ông, dù có vụ tai tiếng kia, ông chưa bao giờ lợi dụng cô, chưa bao giờ tự tiện xâm phạm cuộc sống riêng tư của cô.
Dẫu vậy, ông thấy vui khi biết rằng cánh cửa vẫn ở đó.
Còn nhiều giấy tờ phải giải quyết, nhưng David vẫn đi xuống tầng dưới. Đôi giày chạy của ông để ở hiên sau nhà. Ông xỏ chân vào, buộc chặt dây, rồi đi vòng ra phía trước. Jack đang đứng vặt hoa hồng bên hàng rào mắt cáo. David ngồi xổm xuống và kéo thằng bé lại gần, cảm thấy sức nặng êm ái, nhịp thở đều đặn của nó. Jack sinh vào tháng Chín, lúc chập tối, khi ấy trời vừa mới nhá nhem. David đã lái xe đưa Rosemary tới bệnh viện, và ông đã ngồi với cô trong sáu tiếng trở dạ, cùng chơi cờ và mang đá viên cho cô. Không giống như Norah, Rosemary không hào hứng lắm với việc sinh nở tự nhiên; cô đã yêu cầu được gây tê ngay khi có thể, và khi quá trình co bóp chậm lại, cô được tiêm Pitocin để kích thích chuyển dạ. David đã nắm tay cô khi những cơn đau mạnh lên, nhưng khi họ đưa cô vào phòng sinh ông lại đứng bên ngoài. Nơi đó quá riêng tư, không phải chỗ của ông. Tuy vậy, ông là người đầu tiên sau Rosemary được bế Jack, và ông đã yêu nó như con của chính mình vậy.
"Ông có mùi lạ quá," Jack nói, đẩy ngực David ra.
"Tại cái áo sơ mi cũ hôi rình của ông đấy," David đáp.
"Chú đi chạy bộ à?" Rosemary hỏi. Cô ngồi tựa lên gót chân, phủi đất bẩn trên tay. Dạo này cô hơi mảnh khảnh, gần như xương xẩu, và ông thấy lo lắng về nhịp độ làm việc của cô, cách cô đốt sức vào học tập và công việc. Cô đưa tay chùi những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, để lại một vệt đất.
"Ừ. Chú không thể xem mấy tập hồ sơ bảo hiểm ấy thêm một phút nào nữa."
"Cháu tưởng chú đã thuê người làm rồi."
"Chú thuê rồi. Cô ấy sẽ làm tốt thôi, chú nghĩ thế, nhưng đến tuần sau cô ấy mới bắt đầu làm việc được."
Rosemary gật đầu, trầm ngâm. Những sợi lông mi nhạt của cô ánh lên. Cô vẫn còn trẻ, mới hai mươi hai tuổi, nhưng cô là người mạnh mẽ và chuyên tâm, cô mang trong mình sự cả quyết của một phụ nữ lớn hơn cô nhiều tuổi.
"Tối nay cháu phải đi học à?" ông hỏi, và cô gật đầu.
"Buổi cuối cùng đấy ạ. Ngày mười hai tháng Bảy."
"À ừ. Chú quên khuấy đi mất."
"Chú bận nhiều việc mà."
Ông gật đầu, cảm thấy hơi có lỗi, bối rối trước ngày tháng. Mười hai tháng Bảy; không thể ngờ được thời gian trôi nhanh đến thế. Rosemary đã đi học trở lại sau khi sinh Jack, cũng vào đúng cái tháng Một ảm đạm năm đó, khi ấy ông đã rời bỏ phòng khám nơi ông đang làm việc vì một người đàn ông từng là bệnh nhân của ông trong suốt hai mươi năm trời đã bị đuổi ra khỏi cửa vì thiếu bảo hiểm y tế. Ông đã gây dựng phòng khám của riêng mình, và nhận chữa bệnh cho bất cứ ai tìm đến, dù có bảo hiểm hay không. Ông không còn chữa bệnh vì tiền nữa. Paul đã học xong đại học, và món nợ của nó đã trả xong từ lâu, nó có thể làm gì tùy thích. Dạo này, giống như các bác sĩ thời xưa, ông được trả công bằng sản phẩm, hoặc rau quả trồng tại nhà, hoặc bất cứ thứ gì người ta có thể trả cho ông. Ông nghĩ rằng mình sẽ tiếp tục sống thế này chừng chục năm nữa, tiếp bệnh nhân hàng ngày nhưng dần dần sẽ giảm bớt số cuộc hẹn, cho đến khi phạm vi hoạt động của ông chỉ còn bó hẹp trong căn nhà này, khu vườn này, những chuyến đi tới tiệm tạp hóa và tiệm hớt tóc. Norah có lẽ sẽ vẫn bay vòng quanh thế giới như một con chuồn chuồn, nhưng cuộc sống như vậy không phải dành cho ông. Ông đã bén rễ ở một chỗ; những cái rễ ăn sâu vào lòng đất.
"Hôm nay cháu có một bài thi Hóa học cuối kỳ," Rosemary nói, đoạn tháo găng tay ra, "và rồi hoan hô, thế là xong." Ong kêu vo vo giữa đám hoa kim ngân. "Cháu còn chuyện này nữa muốn nói với chú," cô nói, rồi kéo thẳng vạt quần soóc, ngồi xuống bên ông trên bậc thềm bê tông ấm áp.
"Nghe có vẻ nghiêm trọng nhỉ."
Cô gật đầu. "Vâng. Cháu vừa được một nơi nhận vào làm hôm qua. Công việc rất tốt."
"Ở đây à?"
Cô lắc đầu, mỉm cười vẫy tay với Jack khi thằng bé cố nhào lộn rồi ngã lăn ra bãi cỏ. "Vấn đề là ở đấy. Chỗ làm đó ở Harrisburg cơ ạ."
"Gần chỗ mẹ cháu ở rồi," ông nói, thấy tim mình se lại. Ông biết cô muốn sống gần ông, và ông cũng mong như thế. Nhưng chuyển đi vẫn luôn là một khả năng có thực. Hai năm trước, sau khi bố cô đột ngột qua đời, Rosemary đã làm lành với mẹ và chị gái, và họ rất mong mỏi cô quay về nhà để nuôi nấng Jack gần với gia đình.
"Vâng. Đấy là công việc rất phù hợp với cháu: tuần làm việc bốn ngày, mỗi ngày mười tiếng. Họ còn trả tiền cho cháu tiếp tục đi học nữa. Cháu có thể lấy thêm bằng vật lý trị liệu. Nhưng cái chính là làm thế cháu sẽ có thêm thời gian dành cho Jack."
"Cháu còn được đỡ đần nhiều nữa chứ," ông nói. "Mẹ cháu sẽ đỡ cho cháu. Cả chị gái cháu nữa."
"Vâng. Được thế thì tốt quá. Dù cháu rất yêu Kentucky, nhưng nơi đây chưa bao giờ là nhà cháu cả, không hẳn."
Ông gật đầu, mừng cho cô, nhưng không đủ tự tin để nói ra. Có những lúc ông đã tưởng tượng, chỉ về mặt lý thuyết thôi, rằng ông có thể sửa lại căn nhà theo ý muốn: ông sẽ cho phá bỏ những bức tường, mở rộng không gian, căn nhà đôi sẽ dần dần chuyển thành ngôi nhà duyên dáng cho một gia đình như trước kia. Nhưng những giả thiết của ông chỉ tính đến mặt không gian và sự thoáng khí, có thể dễ dàng bị gạt sang bên để nhường chỗ cho niềm vui được nghe thấy tiếng bước chân cô và tiếng cử động khe khẽ ở gian nhà bên, hay bị đánh thức giữa đêm tối bởi tiếng khóc của Jack văng vẳng xa xa.
Nước dâng lên mắt ông. Ông cười lớn.
"Chà chà," ông nói, đoạn gỡ mắt kính ra. "Chú nghĩ chuyện này sớm muộn gì cũng xảy ra thôi. Chúc mừng cháu nhé."
"Bọn cháu sẽ về thăm chú," cô nói. "Chú cũng đến thăm mẹ con cháu nữa nhé."
"Ừ, phải rồi," ông đáp. "Chú chắc chắn ta còn gặp lại nhau nhiều mà."
"Hẳn rồi." Cô đặt tay lên đầu gối ông. "Chú ạ, cháu biết là chú cháu mình chưa bao giờ nói về chuyện này. Cháu còn chẳng biết phải bắt đầu như thế nào, thật đấy. Nhưng việc đó có ý nghĩa với cháu biết bao - những việc chú đã làm để giúp đỡ cháu ấy - cháu biết ơn chú lắm. Cháu biết ơn chú suốt đời."
"Chú thì lại luôn bị buộc tội cố gắng quá sức để cứu giúp mọi người cơ đấy," ông đáp.
Cô lắc đầu. "Về nhiều phương diện, chú đã cứu vớt cuộc đời cháu."
"Ừm. Nếu đúng thế thật thì chú cũng mừng. Chỉ có ông trời mới biết chú đã gây ra bao nhiêu mất mát ở những nơi khác. Dường như chú không bao giờ có thể làm được nhiều điều tốt cho Norah như thế."
Có một khoảng im lặng giữa hai người, tiếng máy cắt cỏ ở phía xa kêu ì ì.
"Chú phải nói cho cô ấy biết," Rosemary khẽ nói. "Cả Paul nữa. Chú phải nói đi." Jack đang ngồi xổm giữa lối đi, vun hàng đống sỏi lại, để đá trôi rơi qua kẽ ngón tay. "Cháu không có tư cách để nói gì cả, cháu biết thế. Nhưng Norah phải được biết về Phoebe. Cô ấy không biết gì, như thế là không được. Cô ấy phải tin là không có chuyện tằng tịu gì giữa chú và cháu nữa."
"Chú đã nói sự thật cho cô ấy biết rồi. Rằng chúng ta chỉ là bạn."
"Phải. Đúng là thế. Nhưng làm sao cô ấy tin được?"
David nhún vai. "Đó là sự thật."
"Không phải tất cả sự thật. Chú David, theo một cách kỳ quặc nào đó, chúng ta vẫn có một mối liên hệ với nhau, chú và cháu, nhờ có Phoebe. Vì cháu biết bí mật đó. Vấn đề là, cháu từng thích cảm giác đó: cháu cảm thấy mình thật đặc biệt vì cháu biết điều không ai biết cả. Chẳng phải đấy cũng là một thứ quyền lực hay sao, biết được một bí mật? Nhưng sau này cháu lại không thích nữa. Dù sao cháu cũng không phải người có quyền được biết, đúng không?"
"Không." David nhặt một cục đất lên và bóp vụn nó giữa các ngón tay. Ông nghĩ đến những lá thư của Caroline, ông đã cẩn thận đốt hết khi chuyển sang căn nhà này. "Chú nghĩ là không."
"Đấy. Chú thấy chưa? Chú sẽ nói chứ? Nói cho cô ấy biết."
"Chú không biết nữa, Rosemary. Chú không hứa chắc được đâu."
Họ ngồi im lặng dưới nắng trong vài phút, ngắm Jack cố lộn vòng vòng trên bãi cỏ. Nó là một thằng bé tóc hoe vàng, nhanh nhẹn, có tố chất vận động viên bẩm sinh, nó rất thích chạy nhảy và leo trèo. David đã trở về từ Tây Virginia để giải thoát mình khỏi nỗi đau đớn và mất mát ông đã giữ kín trong lòng suốt bao năm qua. Khi June ra đi ông đã không có cách nào để nói về những gì đã mất, không thực sự có cách nào để tiếp tục cuộc sống. Thời ấy, nói đến cái chết thậm chí còn là một điều xúc phạm, vì vậy họ chỉ im lặng. Họ đã để mặc cho nỗi đau mãi dở dang như thế. Bằng cách nào đó, việc quay trở lại cho ông cơ hội để xoa dịu nó. Ông đã về tới Lexington trong tình trạng kiệt quệ, phải, nhưng lại thấy thanh thản và vững tin. Sau ngần ấy năm, cuối cùng ông cũng tìm được lòng can đảm để cho Norah quyền tự do làm lại cuộc đời mình.

° ° °
Khi Jack ra đời, David đã lập cho nó một tài khoản đứng tên Rosemary, và một tài khoản cho Phoebe, đứng tên Caroline. Việc đó khá đơn giản; ông vẫn giữ số bảo hiểm xã hội của Caroline, và ông có cả địa chỉ của bà. Thám tử tư mất chưa đến một tuần để tìm ra Caroline và Phoebe, đang sống ở Pittsburgh, trong một căn nhà hẹp cao tầng gần đường cao tốc. David đã lái xe đến đó và đỗ trên phố, ông đã định bước lên những bậc thềm ấy và gõ cửa. Ông muốn cho Norah biết những gì đã xảy ra, nhưng ông không thể làm thế mà không nói cho bà biết nơi Phoebe đang sống được. Norah sẽ muốn được gặp con gái họ, ông chắc chắn vậy, có lẽ ông sẽ không chỉ thay đổi cuộc đời mình, hay cuộc đời của Norah hoặc Paul. Ông đến đây để nói cho Caroline biết điều ông định làm.
Làm như thế có đúng không? Ông không biết. Ông ngồi im trong xe. Trời đã nhập nhoạng tối, ánh đèn pha lấp loáng trên những vòm tiêu huyền. Phoebe đã lớn lên ở đây, những con phố trở nên thân thuộc đến mức con bé coi đó là một điều hiển nhiên, vỉa hè bị lật lên bởi rễ cây, tấm biển báo nguy hiểm khẽ rung lên trong gió, dòng xe cộ tấp nập – tất cả những thứ đó, đối với con gái ông, đều là biểu tượng của chốn quê nhà. Một cặp vợ chồng đẩy chiếc xe nôi đi ngang qua, rồi đèn trong phòng khách ngôi nhà Caroline sống bật sáng. David ra khỏi xe và đứng ở bến xe buýt, cố gắng không tỏ ra quá lộ liễu dù khi ấy ông đang nhìn chằm chằm vào ô cửa sổ qua bãi cỏ tối đen. Trong nhà, đi đi lại lại giữa căn phòng sáng trưng, Caroline đang thu dọn phòng khách, gom nhặt các tờ báo và gấp chăn. Bà đeo một chiếc tạp dề. Những cử động của bà vừa khéo léo vừa chăm chú.Bà đứng dậy và vươn thẳng người lên, ngoái đầu lại nói.
Và rồi David nhìn thấy con bé: Phoebe, con gái ông. Nó ở trong phòng ăn, đang sắp bàn ăn. Nó có mái tóc sẫm và khuôn mặt nhìn nghiêng rất giống Paul, và trong khoảnh khắc trước khi con bé quay ra để lấy lọ muối, David có cảm tưởng như đang nhìn thấy con trai ông. Ông dấn một bước lên, Phoebe biến mất khỏi tầm nhìn rồi trở lại với ba chiếc đĩa. Con bé lùn và vóc người chắc chắn, tóc khá mỏng, được cột gọn lại sau gáy. Nó đeo cả kính nữa. Dù vậy, những điểm tương đồng vẫn rất rõ ràng trong mắt David: kia là nụ cười của Paul, cái mũi của thằng bé, biểu hiện của Paul khi nó đang tập trung đều hiện lên khuôn mặt Phoebe khi con bé chống tay lên hông, ngắm nghía bàn ăn. Caroline bước vào căn phòng đứng bên cạnh Phoebe, vòng tay quanh người nó để ôm một cái thật nhanh và âu yếm, rồi cả hai cùng cười vang.
Lúc ấy trời đã tối hẳn. David đứng đó, đờ đẫn, ông mừng vì không có nhiều người đi bộ lắm. Từng đám lá bay xào xạc trên vỉa hè khi gió thổi qua, ông kéo chiếc áo choàng sát vào người thêm. Ông nhớ rõ cảm giác của mình trong cái đêm vợ trở dạ, như thể ông đang đứng ngoài chính cuộc đời mình và nhìn mình đi qua từng sự kiện. Giờ đây ông hiểu rằng mình không thể kiểm soát được tình hình lúc này, ông hoàn bị gạt ra ngoài lề, cứ như ông chưa hề tồn tại vậy. Phoebe là vô hình đối với ông trong suốt những năm qua: chỉ còn là một ý niệm, không phải một đứa bé. Nhưng nó ở đây, đang đặt những cốc nước lên bàn. Con bé ngước mắt lên, một người đàn ông với mái tóc lởm chởm sẫm màu bước vào nói gì đó khiến nó mỉm cười. Rồi họ ngồi xuống bàn, ba người bọn họ, bắt đầu ăn uống.
David quay lại chiếc xe của mình. Ông hình dung ra cảnh Norah, đứng bên ông trong bóng tối, nhìn con gái họ sống cuộc sống của nó, không mảy may biết đến sự tồn tại của họ. Ông đã gây cho Norah nỗi đau này; sự lừa dối của ông đã khiến bà đau khổ nhiều hơn mức ông có thể tưởng tượng nổi và ngoài tầm chủ định. Nhưng ông có thể tránh cho bà lần này. Ông có thể lái xe đi và để mặc quá khứ. Và đó là điều ông đã làm, rốt cuộc, ông đã lái xe cả đêm xuyên vùng Ohio bằng phẳng.

° ° °
“Cháu không hiểu” Rosemary nhìn ông “Sao chú không hứa được? Đấy là việc nên làm cơ mà.”
“Nó sẽ gây ra quá nhiều đau đớn.”
“Chú làm sao biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu không thử làm.”
“Nhưng chú có thể đoán được.”
“Nhưng chú David à – hứa với cháu là chú sẽ suy nghĩ về việc đó đi?”
“Ngày nào chú cũng nghĩ về nó.”
Cô bối rối lắc đầu, rồi nở một nụ cười nhẹ nhàng, buồn bã.“Thế thì thôi vậy. Còn một chuyện nữa.”
“Ừ?”
“Stuart và cháu sắp làm đám cưới.”
“Cháu vẫn còn quá trẻ để lập gia đình mà,” ông đáp ngay, và cả hai người cùng cười phá lên.
“Cháu già khọm như những ngọn đồi rồi ấy chứ,” cô nói. “Quá nửa thời gian cháu đều cảm thấy thế.”
“Ừ,” ông đáp. “Thôi lại chúc mừng cháu vậy. Không bất ngờ lắm, nhưng cũng là tin vui.”Ông nghĩ đến Stuart Wells, cao ráo, dáng thể thao. Lực lưỡng là từ hiện lên ngay trong đầu ông lúc ấy. Stuart là bác sĩ chuyên khoa hô hấp. Anh ta đã yêu Rosemary nhiều năm nay, nhưng cô đã bắt anh phải chờ đến khi cô học xong. “Chú mừng cho cháu, Rosemary ạ. Đó là một chàng thanh niên tử tế. Mà cậu ấy cũng yêu Jack nữa. Cậu ấy có làm việc ở Harrisburg không?”
“Chưa ạ. Anh ấy đang tìm. Hợp đồng của anh ấy sẽ kết thúc trong tháng này.”
“Thị trường lao động ở Harrisburg thế nào?”
“Cũng bình thường thôi ạ. Nhưng cháu cũng chẳng lo lắm. Stuart rất giỏi.”
“Chú chắc là cậu ta phải giỏi lắm.”
“Chú đang giận kìa.”
“Không. Không, không hề. Nhưng tin cháu báo làm chú thấy buồn. Buồn và già.”
Cô cười. “Già khọm không?”
Ông cũng cười theo: “Già hơn thế nhiều chứ.”
Họ im lặng một lúc. “Mọi việc chỉ mới xảy ra thôi,” Rosemary nói. “Tất cả đến cùng một lúc trong tuần vừa rồi. Cháu không muốn nói gì trước về công việc đó cho đến khi nào thật chắc chắn. Thế rồi, khi cháu được nhận vào làm, Stuart và cháu quyết định sẽ làm đám cưới. Cháu biết như thế thì đột ngột quá.”
“Chú thích Stuart,” David nói. “Chú cũng mong được chúc mừng cậu ấy.”
Cô mỉm cười. “Thật ra, cháu tự hỏi không hiểu chú có dẫn cháu đến cho chú rể trong lễ cưới được không.”
Ông quay sang nhìn cô, làn da cô tai tái, niềm hạnh phúc không thể kìm nén thêm nữa tỏa sáng rạng ngời qua nụ cười của cô.
“Chú rất lấy làm hân hạnh,” ông trịnh trọng đáp.
“Lễ cưới sẽ được tổ chức ở đây. Một buổi lễ nhỏ, đơn giản và rất kín đáo thôi. Hai tuần nữa.”
“Cháu không bỏ phí chút thời giờ nào nhỉ.”
“Cháu còn chẳng phải nghĩ ngợi gì nữa,” cô nói. “Mọi việc hình như đều suôn sẻ cả.” Cô liếc nhìn đồng hồ và thở dài. “Cháu phải đi đây.” Cô đứng dậy, phủi sạch hai tay. “Đi nào, Jack.”
“Nếu cháu muốn, chú sẽ trông chừng thằng bé cho, trong khi cháu đi thay quần áo.”
“Thế thì may quá. Cảm ơn chú.”
“Rosemary.”
“Dạ?”
“Thỉnh thoảng gửi ảnh cho chú nhé? Ảnh của Jack khi nó lớn lên ấy? Ảnh của hai mẹ con cháu khi cháu chuyển sang nhà mới nữa, được không?”
“Vâng. Tất nhiên rồi.” Cô khoanh tay lại và đá chân lên mép bậc thềm.
“Cảm ơn cháu,” ông nói giản dị, lại cảm thấy bối rối trước những cách ông đã vận dụng để bỏ lỡ chính cuộc đời mình, ông chìm đắm suy tư như khi làm việc với ống kính máy ảnh hay lúc ngập chìm trong nỗi đau buồn. Mọi người cho rằng ông ngừng chụp ảnh vì người phụ nữ tóc sẫm ở Pittsburgh và bài bình luận không chút xu nịnh của bà ta. Ông không được yêu mến nữa, họ lạm bàn thêm, từ đó ông mất hết hứng thú. Không ai có thể tin được rằng chỉ đơn giản là ông không quan tâm nữa, nhưng đó là sự thật. Ông đã không động đến máy ảnh kể từ ngày ông đến đứng bên ngã ba sông. Ông đã từ bỏ, nghệ thuật và thủ thuật, từ bỏ cái nhiệm vụ tinh tế nhưng mệt mỏi, cố gắng biến đổi thể giới xung quanh thành một thứ hoàn toàn khác, chuyển những bộ phận cơ thể sang sự vật và chuyển những sự vật thành bộ phận cơ thể. Đôi khi tình cờ bắt gặp những tấm ảnh mình đã chụp, in trong sách, treo trên tường văn phòng hay ở nhà, ông giật mình bởi vẻ đẹp lạnh lẽo, sự chính xác máy móc của chúng – và thậm chí nhiều khi, giật mình bởi cuộc kiếm tìm đầy khao khát ẩn trong sự trống rỗng của từng bức ảnh.
“Cháu không thể ngăn thời gian ngừng trôi được,” ông nói. “Cháu không thể giữ ánh sáng lại. Cháu chỉ có thể ngẩng mặt lên và để ánh sáng tràn lên mặt cháu. Thế nên, Rosemary ạ, chú muốn có mấy tấm ảnh. Của cháu và Jack. Dù sao bằng cách này chú còn được nhìn thấy hai mẹ con. Khi nhìn vào đấy chú sẽ vui lắm.”
“Cháu sẽ gửi thật nhiều,” cô hứa, tay chạm lên vai ông. “Cho chú ngập trong ảnh thì thôi.”
Ông ngồi trên bậc thềm chờ cô thay quần áo, lười biếng phơi mình dưới nắng. Jack chơi với cái xe của nó. Chú nên nói cho cô ấy biết. Ông lắc đầu. Sau hôm nhìn căn nhà của Caroline như một kẻ tọc mạch, ông đã gọi một luật sư ở Pittsburgh và cho lập các tài khoản thụ hưởng kia. Khi ông chết, họ sẽ không phải trải qua bất cứ thủ tục chứng thực di chúc nào. Jack và Phoebe sẽ được lo lắng đến nơi đến chốn, còn Norah không cần phải biết.
Rosemary quay lại, người sực nức mùi xà phòng Ivory, cô mặc váy và đi giày bệt. Cô cầm tay Jack và quàng chiếc ba lô màu xanh ngọc lên vai. Trông cô thật trẻ trung, mạnh mẽ và mảnh mai, mái tóc cô ướt đẫm, khuôn mặt hơi cau lại chăm chú. Cô sẽ gửi Jack ở nhà người trông trẻ trên đường đi.
“Ôi”, cô nói  “mải nói chuyện, cháu suýt thì quên mất: Paul vừa gọi đấy ạ.”
Tim David đập nhanh hơn. “Thật à?”
“Vâng, sáng nay. Ở chỗ cậu ấy lúc đấy là nửa đêm rồi; cậu ấy vừa đi biểu diễn về. Cậu ấy nói đang ở Seville. Cậu ấy đã đến đấy được ba tuần nay rồi, giờ đang học ghi ta kiểu flamenco với ai đấy – cháu chả nhớ lắm, nhưng có vẻ cũng là người nổi tiếng lắm.”
“Thằng bé có vui vẻ không?” 
“Có ạ. Nghe chừng cậu ấy vui lắm.Cậu ấy không để lại số điện thoại. Chỉ nói là sẽ gọi lại thôi.”
David gật đầu, ông mừng vì Paul vẫn khỏe mạnh. Mừng vì nó đã gọi về.
“Chúc cháu thi tốt nhé,” ông nói, đoạn đứng đậy.
“Cảm ơn chú. Chỉ cần cháu thi đỗ là ổn ấy mà.”
Cô mỉm cười, rồi vẫy tay chào và dắt Jack đi theo con đường đá hẹp dẫn ra vỉa hè. David nhìn cô đi, cố gắng ghi vào đầu khoảnh khắc này – chiếc ba lô sinh động, tóc cô phất phơ sau lưng, bàn tay không của Jack giơ ra để nhặt lá và que – mãi mãi. Tất nhiên, làm vậy cũng vô ích mà thôi; ông quên dần mọi thứ sau mỗi bước cô đi. Đôi khi những tấm ảnh của mình khiến ông sửng sốt, những bức ảnh ông tình cờ tìm thấy trong các hộp cũ hoặc cặp tài liệu, những khoảnh khắc ông thậm chí không nhớ nổi mình đã nhìn thấy lúc nào: ảnh chụp chính ông cười với những người ông không nhớ tên, Paul với nét mặt David chưa bao giờ thấy trong đời mình. Rồi sau một năm nữa, hay năm năm nữa, ông sẽ còn nhớ gì về giây phút này đây? Ánh nắng rải trên tóc Rosemary, cặn đất bẩn trong móng tay cô, mùi xà phòng thơm thoang thoảng.
Và dù sao, như thế cũng đã là quá đủ.
Ông đứng dậy, vươn vai, rồi chạy ra công viên. Chạy được chừng một dặm, ông bỗng nhớ ra một việc khác đã luẩn quẩn trong đầu ông suốt cả buổi sáng, một sự kiện quan trọng trong ngày hôm nay, hơn cả bài thi của Rosemary: mười hai tháng Bảy. Sinh nhật Norah. Bà đã bốn mươi sáu tuổi.
Không thể tin nổi. Ông chạy, những sải chân dài thoải mái, nhớ đến Norah trong ngày cưới của họ. Họ đã bước ra ngoài, dưới ánh nắng hanh cuối đông, và đứng trên vỉa hè bắt tay khách khứa. Gió thổi mạng che mặt của bà tung bay, quệt nhẹ lên má ông, những bông tuyết muộn từ trên cây sơn thù du rơi rơi như những cánh hoa bay.
Ông vẫn chạy, nhưng không theo con đường tới công viên nữa, mà chuyển hướng quay về khu nhà cũ của mình. Rosemary nói đúng. Norah nên biết. Ông sẽ nói cho bà biết ngay hôm nay. Ông sẽ đến căn nhà cũ của họ, Norah vẫn còn sống ở đó, và chờ đến khi bà về nhà, ông sẽ nói cho bà biết, dù ông không tưởng tượng ra Norah sẽ phản ứng ra sao.
Tất nhiên chú không thể biết được, Rosemary đã nói vậy. Cuộc sống là thế mà, chú David. Liệu trong nhiều năm trước, chú có thể tưởng tượng được mình sẽ sống trong căn nhà đôi chật chội u ám này không? Trong một triệu năm nữa, liệu chú có bao giờ tưởng tượng ra sẽ gặp cháu không?
Phải, cô nói đúng: cuộc sống ông đang sống không phải cuộc sống mà ông đã tưởng tượng ra cho mình. Ông đã đến thành phố này như một người lạ, nhưng giờ đây những con phố vụt qua trước mắt ông thật quá quen thuộc: không một bậc thềm nào hay một hình ảnh còn sót lại nào mà không gắn với một kỷ niệm. Ông đã nhìn thấy những cái cây này được trồng xuống, thấy chúng lớn lên. Ông chạy qua những ngôi nhà ông biết rõ, những ngôi nhà ông đã ghé thăm để cùng ăn tối hoặc uống trà, những nơi ông đã tới ngay khi nhận được điện thoại báo cấp cứu, đứng trong đêm khuya trên hành lang hay phòng chờ, ghi đơn thuốc, gọi xe cứu thương. Từng lớp, từng lớp ngày tháng và hình ảnh, cô đặc và đan xen, thật đặc biệt đối với riêng ông. Norah có thể đi qua nơi này, hoặc Paul cũng vậy, và nhìn thấy điều gì đó hoàn toàn khác biệt nhưng cũng chân thực y như vậy.
David chạy xuống con phố cũ. Ông đã không ghé qua đây nhiều tháng rồi, và ông ngạc nhiên khi thấy những hàng cột ngoài hiên đã gẫy gục, mái nhà giờ đây được đỡ bằng hai thanh dầm hai nhân bốn. Sàn lát hiên có vẻ đã mục, nhưng không thấy có thợ sửa chữa. Lối vào trống không; Norah vẫn chưa về. Ông rảo chân qua bãi cỏ vài lần để lấy hơi, rồi ra chỗ chiếc chìa khóa được giấu dưới viên gạch kế bên bụi đỗ quyên. Ông vào nhà và uống một ít nước. Căn nhà xông lên mùi ẩm mốc. Ông mở một ô cửa sổ ra. Gió thổi tung tấm rèm trắng mỏng manh. Đó là rèm mới, cả gạch lát sàn và chiếc tủ lạnh cũng vậy. Ông lấy thêm một cốc nước nữa. Sau đó ông đi quanh nhà, tò mò muốn biết xem còn thứ gì thay đổi nữa không. Những thứ nhỏ nhặt, ở khắp nơi: một tấm gương mới trong phòng ăn, bộ xa lông kê trong phòng khách đã được bọc vải mới và kê lại.
Trên gác, các phòng ngủ vẫn như cũ, căn phòng của Paul là ngôi đền của những tội lỗi tuổi trẻ, với áp phích của nhóm tứ tấu vô danh dán trên tường, những cuống vé đính trên một tấm bảng, tường sơn màu xanh sẫm ghê rợn, chẳng khác nào một cái hang. Thằng bé đã theo học trường Juilliard, và mặc dù David đã chúc nó thành công và trả một nửa học phí cho nó, Paul vẫn chỉ nhớ đến thời quá khứ xa xưa trước đó, hồi David chưa tin tưởng tài năng của con trai có thể đảm bảo cho nó một chỗ đứng trong cuộc đời này. Nó luôn gửi những tờ bướm giới thiệu chương trình và các bài bình luận, cùng với bưu ảnh từ tất cả các thành phố nó đã đến lưu diễn, như để nói Đấy bố nhìn đi, con đã thành công rồi đấy. Như thể chính bản thân Paul cũng không thể tin nổi. Đôi khi David vượt hàng trăm dặm đường hoặc hơn, đến Cincinnati, Pittsburgh, Atlanta hoặc Memphis, để ngồi ở tận hàng ghế cuối trong khán phòng tối om xem Paul biểu diễn. Đầu nó cúi xuống chiếc ghi ta, những ngón tay khéo léo, những nốt nhạc như một thứ ngôn ngữ vừa bí ẩn vừa đẹp đẽ, khiến David xúc động trào nước mắt. Nhiều khi tất cả những gì ông có thể làm là ngăn mình không sải bước dọc lối đi tối om giữa hai hàng ghế, chạy đến ôm chặt lấy Paul. Nhưng tất nhiên ông không bao giờ làm thế; nhiều lúc, ông chỉ lặng lẽ rời đi.
Phòng ngủ lớn được sắp đặt vô cùng ngăn nắp, không được dùng tới. Norah đã chuyển sang căn phòng ngủ nhỏ hơn ở phía trước; trong phòng tấm trải giường đã nhăn nhúm. David giơ tay ra định vuốt cho phẳng, nhưng rồi đến phút cuối ông rút tay lại, dường như đó là một sự xâm phạm quá thô bạo. Sau đó ông quay xuống nhà dưới.
Ông không thể hiểu nổi; đã chiều muộn rồi và lẽ ra Norah phải về đến nhà rồi chứ. Nếu bà không về sớm, ông đành rời khỏi đây thôi.
Có một tập giấy nhớ đặt trên bàn cạnh điện thoại, mảnh giấy trên cùng chi chít những ghi chú khó hiểu: Gọi Jan trước 8:00 để sắp lại lịch; Tim vẫn chưa chắc chắn làm; giao hàng, trước 10:00. Đừng quên – Dunfree và vé. Ông xé tờ giấy đó ra thật cẩn thận, vuông vắn, đặt ở chính giữa bàn, rồi mang cả tập giấy ra bàn ăn sáng, ngồi xuống, và bắt đầu viết.
Con gái chúng ta chưa chết. Caroline Gill đã đưa con bé đi và nuôi nấng nó ở một thành phố khác.
Ông xé tờ đó đi.
Anh đã đem cho con gái của chúng ta.
Ông thở dài và đặt bút xuống.Ông không thể làm được điều này; ông không thể tưởng tượng nổi cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có gánh nặng bí mật mà ông đang mang. Ông nghĩ nó giống như một kiểu hành xác. Làm thế là tự hủy hoại bản thân mình, ông biết thế, nhưng đời là vậy. Có người hút thuốc, có người nhảy từ trên máy bay xuống, có người uống tràn cung mây rồi nhảy vào xe phóng như điên mà không cài dây an toàn. Đối với ông, là bí mật này. Tấm rèm mới quét lên cánh tay ông. Xa xa, vòi nước trong phòng tắm dưới nhà nhỏ từng giọt tí tách, thứ âm thanh đã khiến ông muốn phát điên bao nhiêu năm nay, ông đã luôn muốn sửa nó. Ông giật tờ giấy khỏi tập giấy nhớ, xé vụn ra rồi nhét vào túi để vứt đi sau. Sau đó ông ra ga ra sục sạo những đống dụng cụ mà ông đã bỏ lại cho tới khi tìm thấy một cây cờ lê và một bộ vòng đệm. Có lẽ trong một ngày thứ Bảy nào đó ông đã mua chúng vì chính mục đích này.
Phải mất hơn một tiếng ông mới sửa xong vòi nước trong phòng tắm. Ông tháo rời từng món ra và cọ sạch cặn bẩn bám trên lưới lọc, thay gioăng, siết chặt các vít. Nấm đấm cửa bằng đồng đã mờ đục. Ông đánh lại cho bóng, dùng chiếc bàn chải đánh răng cũ tìm thấy trong lon cà phê dưới bồn rửa. Khi ông làm xong thì đã sáu giờ, vẫn còn sớm trong buổi tối giữa mùa hè, ánh nắng vẫn tràn qua cửa sổ nhưng giờ góc chiếu thấp hơn, xiên xiên trên sàn nhà. David đứng trong phòng tắm một lúc, cảm thấy vô cùng hài lòng trước cái nắm đấm cửa sáng bóng, trước không gian tĩnh lặng. Chuông điện thoại đổ dồn trong bếp và một giọng nói xa lạ vang lên, hối hả báo về những tấm vé đi Montreal, rồi tự ngắt lời mình và nói, Ôi chết tiệt, phải rồi, tôi quên mất chị đang đi nghỉ ở châu Âu với Frederic. Ông cũng nhớ việc này – bà đã nói cho ông biết, nhưng ông để nó tự trôi khỏi tâm trí mình; không, ông đã cố gạt nó ra khỏi đầu – rằng bà đã đi nghỉ ở Paris. Rằng bà đang hẹn hò với một người khác, một người Canada sống ở Quebec, ông ta làm việc ở tòa nhà của hãng IBM và nói tiếng Pháp. Giọng nói của bà thay đổi khi bà nói về ông ta, dường như dịu dàng hơn, thứ giọng ông chưa từng nghe bà nói bao giờ. Ông tưởng tượng ra Norah, vừa kẹp điện thoại trên vai vừa nhập thông tin vào máy vi tính, rồi chợt ngước mắt lên và nhận ra rằng đã quá giờ ăn tối. Norah, sải những bước dài trên hành lang sân bay, dẫn các đoàn khách ra xe buýt, đến nhà hàng, khách sạn, theo những cuộc thám hiểm, tất cả đều được bà chuẩn bị thật chỉn chu.
Chà, ít ra thì bà cũng sẽ vui vì mấy cái vòi nước. Cả ông cũng vui – ông đã làm rất cẩn thận, tỉ mỉ. Ông đứng trong bếp, vươn dài hai tay để chuẩn bị kết thúc buổi chạy bộ, rồi nhặt tập giấy lên.
Anh đã sửa bồn rửa trong phòng tắm rồi, ông viết. Chúc mừng sinh nhật.
Rồi ông ra khỏi nhà, khóa cửa lại sau lưng, và chạy đi.