1989
Chương 24
Mồng Một Tháng Chín Năm 1989

    
HỮNG NỐT NHẠC TRÀN RA TỪ NHÀ THỜ, HÓA VÀO KHÔNG GIAN NGẬP NẮNG. Đối với Paul, người ta đang đứng ngay bên ngoài những cánh cửa sổ sơn đỏ rực rỡ, âm nhạc gần như có thể nhìn thấy được, như đang len qua tán lá dương, vung vãi trên thảm cỏ như những đốm sáng. Nhạc công đang chơi piano là một người bạn của cậu, một phụ nữ đến từ Peru tên Alexandra, mái tóc đỏ tía của cô được cột chặt sau gáy thành một chiếc đuôi ngựa dài và chính cô, trong những ngày trống trải sau khi Michelle ra đi, đã xuất hiện ở căn hộ cậu ở với xúp, trà đá, đoạn vén rèm và mở cửa sổ, vơ bát đĩa bẩn cho vào bồn rửa. Dậy đi, cứ sụt sịt than khóc mãi như thế thì ích gì, nhất là lại vì một ả chơi sáo. Bọn chúng nó toàn loại phù phiếm cả, cậu chưa biết sao? Tôi cũng không ngờ là cô ta lại chôn chân ở đây được lâu đến thế cơ đấy. Những hai năm. Thành thật mà nói, đúng là một kỷ lục đấy.
Giờ đây những nốt nhạc của Alexandra tuôn chảy như dòng nước bạc, nối theo là một đoạn cao trào vui tươi, nốt nhạc lên cao dần, rồi lặng lại một chút trong ánh nắng. Mẹ cậu hiện ra trên ngưỡng cửa, miệng cười vang, một tay vịn nhẹ lên cánh tay Frederic. Họ cùng bước ra ngoài nắng, dưới cơn mưa gạo và cánh hoa sặc sỡ.
“Đẹp quá,” Phoebe đứng bên cậu nhìn theo.
Cô mặc váy màu xanh ánh bạc, tay phải ôm hờ một đóa hoa thủy tiên cô vừa cầm trong lễ cưới. Cô đang cười, đôi mắt nheo lại vui sướng, lúm đồng tiền hằn sâu trên cả hai gò má bầu bĩnh. Những cánh hoa và hạt gạo bay thành hình vòng cung giữa nền trời rực rỡ; Phoebe cười vang thích thú khi chúng rơi xuống. Paul nhìn cô không chớp mắt: cô gái xa lạ này, em gái song sinh của cậu. Họ đã sóng bước bên nhau trên lối đi giữa hai dãy ghế của ngôi nhà thờ nhỏ này để đến trước bệ thờ, nơi mẹ họ đang chờ cùng Frederic. Cậu bước đi chậm rãi, Phoebe chăm chú và nghiêm trang đi bên cậu, cố gắng làm mọi việc thật chỉn chu, bàn tay cô bé vịn quanh khuỷu tay cậu. Chim én chao liệng trên những thanh xà ngang khi cô dâu chú rể trao lời thề nguyện, ngay từ đầu mẹ đã tin tưởng nhà thờ này, vì bà tỏ ra rất cương quyết trong các cuộc tranh cãi kỳ lạ, bất ngờ, thấm đẫm nước mắt về Phoebe và tương lai của cô, rằng cả hai đứa con sẽ đứng bên bà trong lễ cưới.
Một tiếng phụt, rồi hoa giấy bung ra, một tràng cười vang lên rộn rã. Mẹ cậu và chú Frederic hơi cúi đầu xuống, dì Bree phủi những vụn giấy sặc sỡ trên vai, trên tóc họ. Hoa giấu màu mè vương vãi khắp nơi, khiến bãi cỏ trông như sàn lát đá mài.
“Em nói phải,” cậu nói với Phoebe. “Đẹp thật.”
Cô gật đầu, trông có vẻ trầm ngâm, rồi đưa hai tay vuốt phẳng vạt váy.
“Mẹ anh sắp đi Pháp rồi.”
“Ừ,” Paul đáp, dù cậu thấy thắt lòng trước cách cô chọn từ ngữ: mẹ anh. Một cụm từ ta dùng với người lạ, và tất nhiên mẹ con họ đúng là người lạ. Rốt cuộc, đây chính là điều khiến mẹ cậu đau lòng nhất, những năm tháng đã mất chặn giữa họ, những lời họ nói với nhau vừa cẩn trọng lại vừa khách sáo, thế chỗ cho nơi lẽ ra phải là niềm vui và yêu thương. “Cả anh với em nữa, sau vài tháng nữa,” cậu nói, để nhắc Phoebe về những kế hoạch họ đã thống nhất trước đó. “Anh em mình sẽ sang Pháp để gặp hai người.”
Một thoáng lo lắng, như một đám mây xám, lướt qua mặt Phoebe.
“Chúng ta sẽ quay lại mà,” cậu nhẹ nhành đế thêm, vẫn nhớ cô đã sợ hãi thế nào khi nghe mẹ cậu đề nghị cô bé chuyển sang Pháp sống cùng bà.
Cô gật đầu, nhưng trông vẫn đầy lo lắng.
“Sao thế em?” cậu hỏi. “Có chuyện gì vậy?”
“Ăn ốc sên ạ.”
Paul nhìn cô, sửng sốt. Cậu đã đùa với mẹ và dì Bree lúc đứng ở sảnh trước giờ hôn lễ, trêu chọc về bữa tiệc họ sẽ dự ở Chateauneuf. Phoebe đứng im lặng bên lề cuộc trò chuyện; cậu không nghĩ rằng cô bé đã lắng nghe. Đó cũng là một bí ẩn nữa, sự hiện diện của Phoebe trên cuộc đời này, những gì cô nhìn thấy, cảm thấy và hiểu được. Tất cả những gì cậu biết chắc về cô chỉ có thể viết gọn trong một tấm thẻ chỉ mục: cô yêu mèo, thích đan lát, thích nghe đài và hát trong nhà thờ. Cô rất hay cười, thích ôm ấp, và, cũng giống như cậu, dị ứng với ong.
“Ốc sên cũng không tệ lắm đâu em,” cậu nói. “Thịt nó dai dai. Hơi giống kẹo cao su ấy.”
Phoebe chun mũi nhíu mày rồi cười phá lên. “Eo ôi,” cô nói, “Ghê quá, anh Paul ạ.” Gió vờn nhè nhẹ trên tóc cô bé, và ánh nhìn của cô vẫn gắn chặt vào khung cảnh bày ra trước mắt họ: khách khứa đi đi lại lại, ánh nắng, những chiếc lá, tất cả đều đan vào nhau cùng âm nhạc. Đôi má cô lấm tấm tàn nhang, giống hệt má cậu. Phía xa xa bên kia bãi cỏ, mẹ và chú Frederic cùng nhấc chiếc dao cắt bánh bằng bạc lên.
“Em với Robert,” Phoebe nói, “bọn em cũng sắp làm đám cưới rồi nhé.”
Paul mỉm cười. Cậu đã gặp Robert ngay trong chuyến đi đầu tiên đến Pittsburgh; họ đã cùng đến cửa hàng tạp hóa để gặp cậu ta, cao và tính tình chu đáo, Robert vận bộ đồng phục màu nâu kèm theo một chiếc thẻ ghi tên. Khi Phoebe thẹn thùng giới thiệu hai người với nhau, Robert ngay lập tức cầm lấy tay Paul và vỗ vai cậu, như thể họ vừa gặp lại nhau sau một thời gian dài xa cách. Gặp anh vui quá, Paul ạ. Phoebe và em, chúng em sắp làm đám cưới, nên chẳng mấy chốc mà chúng ta sẽ thành anh em thôi, anh thấy thế nào? Rồi sau đó, rất hào hứng, không chờ nghe câu trả lời, tin tưởng rằng thế giới đúng là một nơi tốt đẹp và rằng Paul cũng có chung niềm vui như mình, cậu ta quay sang Phoebe, vòng tay quanh người cô, và hai người bọn họ đứng đó, cười rạng rỡ.
“Chán quá, Robert không tới dự được nhỉ.”
Phoebe gật đầu. “Robert thích tiệc tùng lắm.”
“Anh không thấy bất ngờ đâu,” Paul đáp.
Paul nhìn mẹ đút một miếng bánh vào miệng chú Frederic, rồi đưa ngón tay cái quệt nhẹ khóe miệng ông. Bà mặt một chiếc váy màu kem, mái tóc ngắn, vàng óng đã ngả bạc, khiến đôi mắt bà trông càng to hơn. Cậu nghĩ đến bố, tự hỏi không hiểu đám cưới của hai người đã diễn ra thế nào. Cậu đã xem những tấm ảnh chụp, đương nhiên, nhưng đó chỉ là bề mặt. Cậu muốn biết ánh sáng hôm đó ra sao, tiếng cười lúc ấy thế nào; cậu muốn biết liệu lúc đó bố cậu có cúi xuống như Frederic đang làm bây giờ, để hôn mẹ sau khi bà liếm chút kem dính trên môi hay không.
“Em thích hoa hồng lắm,” Phoebe nói. “Em muốn đám cưới của em phải có hàng đống hoa màu hồng.” Rồi cô bé bỗng nghiêm trang, cau mày và nhún vai, chiếc váy xanh hơi tụt xuống xương đòn. Cô lắc đầu. “Nhưng  em với Robert ấy, bọn em phải tiết kiệm tiền trước đã.”
Gió thổi mạnh thêm. Paul chợt nghĩ đến Caroline Gill, cao và dữ tướng, đứng trên sảnh khách sạn ở trung tâm Lexington với chồng bà, Al và Phoebe. Tất cả bọn họ đã gặp nhau hôm qua, trên dải cỏ phân cách. Ngôi nhà của mẹ cậu đã trống trơn, một tấm bảng ghi NHÀ CHỜ BÁN cắm ở sân trước. Đêm nay, bà và Frederic sẽ bay sang Pháp. Caroline cùng Al đã lái xe từ Pittsburgh đến, và sau bữa điểm tâm trưa mang tính xã giao có vẻ không thoải mái lắm, họ đã để Phoebe lại đây tham dự lễ cưới trong khi hai vợ chồng đi nghỉ ở Nashville. Kỳ nghỉ đầu tiên của riêng hai người, họ đã nói vậy, và dường như họ rất vui. Tuy vậy, Caroline vẫn ôm Phoebe tới hai lần, rồi dừng lại trên vỉa hè, ngoái nhìn qua ô cửa sổ và vẫy tay chào.
“Em có thích Pittsburgh không?” Paul hỏi. Cậu đã được một nơi ở đó mời làm việc, một công việc tốt với dàn nhạc, và cậu cũng được một dàn nhạc khác ở Santa Fe mời tham gia.
“Em thích Pittsburgh lắm,” Phoebe đáp, “Mẹ em bảo là ở đó có lắm bậc thang quá, nhưng em vẫn thích.”
“Có khi anh sẽ chuyển đến đấy sống,” Paul nói, “Em nghĩ sao?”
“Thế thì hay quá,” Phoebe nói. “Anh có thể tới dự đám cưới của em.” Rồi cô thở dài. “Mà đám cưới thì tốn nhiều tiền lắm. Thật không công bằng.”
Paul gật đầu. Không công bằng, không. Không có gì công bằng cả. Không phải những thử thách mà Phoebe phải đối mặt trong một thế giới không chào đón cô, không phải sự thuận lợi tương đối của chính cuộc đời của cậu, không phải những gì bố họ đã làm – không gì cả. Đột nhiên, cậu khát khao dành cho Phoebe mọi đám cưới mà cô muốn. Hoặc ít nhất cũng là một chiếc bánh. Đó sẽ là một cử chỉ nhỏ để bù đắp lại những chuyện khác.
“Các em có thể chạy trốn với nhau,” cậu gợi ý.
Phoebe ngẫm nghĩ, xoay xoay chiếc vòng nhựa màu xanh trên cổ tay. “Không được,” cô nói. “Thế thì bọn em sẽ không có chiếc bánh nào cả.”
“Ô, anh không biết đấy. Không được à? Ý anh là, tại sao lại không?”
Phoebe, cau mày rất ghê, rồi liếc nhìn cậu để xem cậu có đang trêu chọc cô không.
“Không được,” cô trả lời dứt khoát. “Đấy không phải là cách để có một đám cưới đâu, Paul ạ.”
Cậu mỉm cười, xúc động trước sự chắc chắn của cô về cách thế giới xoay vần.
“Em biết sao không, Phoebe? Em nói đúng.”
Tiếng cười và tiếng vỗ tay rộn rã khắp bãi cỏ ngập nắng khi chú Frederic và mẹ cắt xong bánh. Dì Bree, mỉm cười, giơ cao máy ảnh để chụp nốt bức hình cuối. Paul gật đầu ra hiệu về phía chiếc bàn nơi bánh đang được xếp lên những chiếc đĩa nhỏ xinh, rồi mọi người chuyền tay nhau. “Bánh cưới có tận sáu tầng cơ đấy. Mâm xôi và kem tươi ở giữa. Thế nào, Phoebe? Em muốn ăn một chút không?”
Phoebe cười toe và gật đầu thay lời đáp.
“Bánh của em sẽ có tận tám tầng cơ,” cô nói, khi họ đi qua bãi cỏ giữa tiếng người nói, tiếng cười và tiếng nhạc.
Paul cười vang. “Tám thôi à? Sao không phải là mười?”
“Ngốc. Anh đúng là đồ ngốc, Paul ạ,” Phoebe đáp.
Họ đến bên bàn. Những vụn hoa giấy sặc sỡ vương đầy trên vai mẹ cậu. Bà mỉm cười, từng cử động đều thật dịu dàng, và chạm lên tóc Phoebe, vuốt ra sau gáy, như thể cô vẫn còn là một đứa bé gái. Phoebe né người đi, và trái tim Paul thắt lại; đối với câu chuyện này, chẳng có cái kết giản đơn nào hết. Sẽ có những lần thăm viếng tới phía bên kia bờ Đại Tây Dương và những cuộc điện thoại, nhưng sẽ không bao giờ có những niềm vui bình dị của cuộc sống thường nhật.
“Con làm tốt lắm,” mẹ nói. “Mẹ rất mừng vì có các con ở lễ cưới, Phoebe ạ, con và Paul. Điều đó có ý nghĩa với mẹ lắm. Mẹ không thể tả hết được.”
“Cháu thích đám cưới,” Phoebe nói, đoạn với tay lấy một đĩa bánh.
Nụ cười của mẹ thoáng buồn. Paul nhìn Phoebe, tự hỏi làm sao cô hiểu được chuyện gì đang xảy  ra. Dường như cô chẳng lo lắng mấy về mọi việc, đúng hơn là cô chấp nhận thế giới như một nơi kỳ thú và lạ thường, nơi tất cả mọi chuyện đều có thể xảy ra. Nơi mà một ngày nào đó, một bà mẹ và một người anh trai bạn chưa bao giờ biết tới sẽ xuất hiện trên ngưỡng cửa và mời bạn tham dự lễ cưới.
“Mẹ rất mừng vì con sẽ sang Pháp thăm chúng ta, Phoebe ạ,” mẹ nói tiếp. “Chú Frederic và mẹ, chúng ta đều rất vui.”
Phoebe ngước nhìn lên, lại tỏ vẻ không thoải mái.
“Do bọn ốc sên đấy ạ,” Paul phân bua. “Em nó không thích ốc sên đâu.”
Mẹ cười. “Đừng lo con. Mẹ cũng không thích.”
“Với cả cháu sẽ về nhà,” Phoebe đế thêm.
“Phải rồi,” mẹ dịu dàng đáp. “Ừ. Chúng ta đã thống nhất thế mà.”
Paul nhìn, cảm thấy bất lực trước nỗi đau án ngữ trong cậu như một tảng đá. Trong ánh sáng chói mắt cậu thấy sốc vì tuổi tác của mẹ, da bà trông mỏng hơn, mái tóc vàng óng đã dần nhường chỗ cho những món tóc bạc. Sốc vì cả vẻ đẹp của bà. Bà vừa có vẻ đáng yêu lại vừa mong manh, và cậu tự hỏi, như đã tự hỏi mình bao lần trong suốt những tuần qua, rằng làm sao bố cậu có thể lừa dối bà, lừa dối tất cả bọn họ.
“Làm sao?” cậu hỏi khẽ. “Làm sao bố có thể không nói cho chúng ta biết?”
Bà quay sang phía cậu, mặt nghiêm trang. “Mẹ không biết. Mẹ cũng sẽ không bao giờ hiểu được. Nhưng thử nghĩ xem cuộc đời của bố con đã ra sao, Paul. Mang theo cái bí mật này bên mình trong bao nhiêu năm trời.”
Cậu nhìn sang bên kia bàn. Phoebe đứng bên một cây dương tán lá đang ngả màu dần, cầm nĩa cạo lớp kem tươi phủ trên mặt bánh.
“Cuộc đời của chúng ta có thể đã khác đi nhiều.”
“Phải. Đúng vậy.Nhưng nó đã không khác, Paul ạ. Nó đã diễn ra như thế.”
“Mẹ đang bao biện cho ông ấy,” cậu chậm chạp nói.
“Không. Mẹ đang tha thứ cho bố. Dù sao, mẹ cũng đang cố gắng. Việc đó khác chứ.”
“Ông ấy không xứng đáng được tha thứ,” Paul nói, vẫn sững sờ trước sự cay đắng của bản thân.
“Có lẽ không,” mẹ cậu nói. “Nhưng con, mẹ và Phoebe, chúng ta có thể lựa chọn. Hoặc cứ đau đớn và giận dữ mãi, hoặc cố gắng sông tiếp. Đó là việc khó khăn nhất đối với mẹ, phải quên đi cơn giận dữ chính đáng ấy. Mẹ vẫn đang cố gắng. Nhưng đó là điều mẹ muốn làm.”
Cậu ngẫm nghĩ một lúc. “Con vừa được mời đến làm việc ở Pittsburgh,” cậu nói.
“Thật à?” Đôi mắt mẹ cậu chăm chú, trông xanh thẳm làm sao dưới ánh sáng này. “Con có nhận lời không?”
“Con nghĩ là có,” cậu nói, nhận ra mình vừa quyết định. “Đó là một công việc tốt.”
“Con không thể sửa được,” bà khẽ nói. “Con không thể sửa lại quá khứ được, Paul à.”
“Con biết.” Cậu biết. Lần đầu tiên đến Pittsburgh, cậu tin chắc rằng việc có giúp đỡ hay không là do mình tự quyết. Cậu đã lo lắng về trách nhiệm cậu sẽ phải gánh vác, cuộc đời cậu sẽ thay đổi ra sao với gánh nặng là một cô em gái thiểu năng, và cậu đã bị bất ngờ - thực ra là sửng sốt – vì thấy chính cô em gái đó nói không, em thích cuộc sống của em bây giờ, không, cảm ơn anh.
“Cuộc đời của con là cuộc đời của con,” bà nói tiếp, giọng vội vã hơn. “Con không phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra. Phoebe vẫn ổn, về mặt tài chính.”
Paul gật đầu. “Con biết. Không phải là con cảm thấy phải có trách nhiệm với em đâu. Thực sự là không. Chỉ là… con nghĩ mình muốn hiểu em hơn. Hàng ngày. Ý con là, đấy là em gái con. Đó là một công việc tốt, và con cũng thực sự cần thay đổi nữa. Pittsburgh là một thành phố đẹp. Thế nên, con nghĩ là – sao lại không nhỉ?”
“Ôi, Paul.” Mẹ cậu thở dài, luồn tay qua mớ tóc ngắn của bà. “Công việc đấy có tốt thật không con?”
“Có. Tốt mẹ ạ.”
Bà gật đầu. “Thế thì được,” bà chậm rãi thừa nhận, “hai anh em con lại ở cùng một nơi. Nhưng con phải nghĩ đến toàn cục nữa. Con vẫn còn rất trẻ, và mới chỉ bắt đầu tìm ra con đường cho mình thôi. Con phải chắc làm thế là tốt cho con.”
Trước khi cậu kịp trả lời, Frederic đã xuất hiện, gõ gõ lên chiếc đồng hồ đeo tay, nói rằng họ phải đi sớm để kịp chuyến bay. Sau khi trao đổi vài câu, Frederic đi lấy xe còn mẹ cậu quay lại với Paul, đặt tay lên cánh tay con trai, và hôn lên má cậu.
“Có lẽ mẹ với chú sắp phải đi đây. Con sẽ đưa Phoebe về nhà hả?”
“Vâng. Caroline và Al nói con có thể ở lại nhà họ.”
Bà gật đầu. “Cảm ơn con,” bà dịu dàng nói, “vì đã ở đây. Chắc đối với con chẳng dễ dàng gì, vì tất cả. Nhưng điều đó có ý nghĩa với mẹ nhiều lắm.”
“Con thích chú Frederic,” cậu nói. “Con chúc mẹ và chú hạnh phúc.”
Bà mỉm cười và vuốt tay cậu. “Mẹ tự hào về con lắm, Paul ạ. Con có biết mẹ tự hào về con thế nào không? Con biết mẹ yêu con nhiều lắm không?” Bà quay lại nhìn sang phía bên kia bàn nơi Phoebe ngồi; cô bé đã kẹp bó thủy tiên dưới cánh tay, gió khẽ lay động lớp váy rực rỡ của cô. “Mẹ tự hào về cả hai con.”
“Chú Frederic đang vẫy kìa,” Paul nói, cậu nói thật nhanh để giấu nỗi xúc động. “Con nghĩ đã đến lúc rồi. Chắc chú ấy sẵn sàng rồi đấy. Mẹ cứ đi và sống hạnh phúc, mẹ nhé.”
Bà nhìn cậu chăm chú thật lâu một lần nữa, mắt bà đẫm nước, rồi hôn lên má cậu.
Frederic đi qua bãi cỏ và bắt tay Paul. Paul nhìn mẹ ôm chặt lấy em gái cậu và đưa Phoebe bó hoa của bà; cậu nhìn Phoebe ngập ngừng ôm lại bà. Mẹ và chú Frederic ngồi vào trong xe, mỉm cười vẫy tay chào giữa một cơn mưa hoa giấy khác. Chiếc xe biến mất sau khúc cua, và Paul len lỏi quay lại bàn, dừng lại chào hỏi hết vị khách này đến người khách khác, mắt vẫn nhìn Phoebe. Khi lại gần hơn, cậu nghe thấy cô đang hớn hở nói với một người khách khác về Robert và đám cưới của chính cô. Tiếng cô to, giọng hơi dấp dính khó nghe, vẻ hào hứng không chút giấu giếm. Cậu nhìn thấy phản ứng của vị khách – một nụ cười gượng gạo, không rõ ràng, kiên nhẫn – và cau mày. Vì Phoebe chỉ muốn nói. Vì chính cậu cũng đã phản ứng với cách nói chuyện này đúng kiểu ấy, chỉ cách đây có vài tuần.
“Sao rồi, Phoebe,” cậu nói, đoạn bước tới ngắt lời cô. “Em muốn đi chưa?”
“Vâng,” cô nói, và đặt đĩa xuống.
Họ lái xe qua vùng nông thôn trù phú. Đó là một ngày ấm áp. Paul tắt điều hòa nhiệt độ và hạ cửa kính xe xuống, nhớ lại những lúc mẹ đã lái xe như điên xuyên qua chính khung cảnh này để thoát khỏi nỗi cô đơn và đau đớn của bà, gió phần phật thổi tung tóc bà. Có lẽ cậu đã đi hàng ngàn dặm cùng mẹ, ngược xuôi khắp bang, lưng dựa vào ghế, cố gắng đoán xem họ đang ở đâu bằng cách nhìn những tán lá, đường dây điện thoại, bầu trời lướt qua trước mắt. Cậu còn nhớ mình đã nhìn thấy một con tàu hơi nước lừ đừ trôi trên dòng Mississippi ngầu bùn, những chiếc chân vịt sáng màu loang loáng ánh sáng và nước. Cậu đã không bao giờ hiểu được nỗi buồn của bà, mặc dù sau đó cậu đã mang nó theo bên mình, tới bất cứ nơi đâu.
Giờ đây nó đã xa rồi, nỗi buồn ấy: cuộc sống ấy cũng đã kết thúc, đã lùi xa.
Cậu lái xe rất nhanh, hơi thở mùa thu ngập tràn khắp nơi. Những cây sơn thù du đã đổi màu lá, từng đám mây đỏ rực rỡ nổi bật trên nền đồi. Phấn hoa khiến mắt Paul ngứa ngáy và hắt xì mấy lần liền, nhưng cậu vẫn để cửa kính mở. Mẹ cậu có lẽ sẽ bật điều hòa nhiệt độ lên, cả chiếc xe lạnh toát như trong hộp bảo quản của người trồng hoa. Bố cậu sẽ mở túi tìm thuốc chống dị ứng. Phoebe, ngồi ngay ở ghế bên cạnh cậu, làn da thật trắng, gần như trong suốt, lấy một chiếc khăn giấy Kleenex trong gói nhỏ từ chiếc túi nhựa đen của mình và đưa cho cậu. Những đường tĩnh mạch, xanh nhạt, nhìn rõ ngay dưới làn da cô. Cậu có thể nhìn thấy mạch cô đập trên cổ, từ từ, đều đặn.
Em gái của cậu. Em gái song sinh của cậu. Sẽ ra sao nếu cô không sinh ra với bệnh Down? Hoặc sẽ ra sao nếu cô đã sinh ra như thế, đơn giản là chính cô, và bố cậu đã không ngước mắt lên nhìn Caroline Gill, tuyết rơi ngoài trời và đồng nghiệp của ông thì kẹt dưới một cái mương? Cậu mường tượng cảnh bố mẹ, trẻ trung và hạnh phúc, đặt cả hai anh em cậu vào xe, lái chậm rãi xuyên qua những con phố sũng nước ở Lexington trong ngày tuyết tan tháng Ba sau khi hai đứa trẻ chào đời. Căn phòng đồ chơi ngập nắng sát vách với phòng cậu có thể đã thuộc về Phoebe. Cô bé đã có thể đuổi cậu chạy xuống cầu thang, chạy qua bếp và ra khu vườn hoang, khuôn mặt cô luôn sát bên cậu, tiếng cười của cậu là âm vang tiếng cười của cô. Rồi cậu sẽ trở thành người như thế nào nhỉ?
Nhưng mẹ nói đúng; cậu không bao giờ biết chuyện gì có lẽ đã xảy ra. Tất cả những gì cậu có là thực tế. Bố đã phải đỡ đẻ cho chính hai đứa con sinh đôi của mình giữa cơn bão bất ngờ, thực hiện những thao tác nằm lòng, chú tâm vào mạch đập và nhịp tim của người phụ nữ nằm trên bàn sinh, làn da căng cứng, cái đầu nhô ra. Hơi thở, màu da, những ngón tay và ngón chân. Một bé trai. Nhìn bề ngoài trông thằng bé thật hoàn hảo, một tiếng hát khẽ cất lên, sâu thẳm trong suy nghĩ của bố. Một giây sau đó, đến đứa trẻ thứ hai. Và kể từ đó tiếng hát trong tim bố câm lặng mãi mãi.
Họ đã về đến rất gần thành phố. Paul chờ xe cộ đi vãn, rồi đánh xe sang nghĩa trang Lexington, đi qua cổng xây bằng đá. Cậu đỗ xe dưới bóng một cây đu đã sống qua hàng trăm năm hạn hán và dịch bệnh, rồi ra khỏi xe. Cậu đi vòng sang cửa xe phía Phoebe ngồi và mở cửa, giơ tay ra. Cô nhìn tay cậu, ngỡ ngàng, rồi ngước nhìn cậu. Sau đó cô tự ra khỏi chỗ ngồi, tay vẫn cầm bó thủy tiên, cuống hoa giờ đã gãy và mềm nhũn ra. Họ đi theo con đường mòn một lúc, qua những tượng đài và cái ao với bầy vịt, cho đến khi cậu dẫn cô qua bãi cỏ tới một tấm bia đánh dấu mộ của bố họ.
Phoebe lướt ngón tay trên dòng tên họ và ngày tháng khắc trên tấm đá granite đen sẫm. Cậu lại tự hỏi không biết cô đang nghĩ gì. Al Simpson là người đàn ông cô gọi là bố. Ông chơi xếp hình với cô mỗi tối, và mang về cho cô những album cô thích sau mỗi chuyến đi; ông từng cõng cô trên vai để cô có thể với tới những chiếc lá tiêu huyền. Nó có thể chẳng có ý nghĩa gì với cô cả, phiến đá granite này, cái tên này.
David Henry McCallister. Phoebe chậm rãi đọc to từng chữ. Chúng choán đầy miệng cô và rơi xuống nặng trịch trong không gian.
“Bố của chúng ta,” cậu nói.
“Lạy Cha chúng con ở trên trời,” cô nói, “chúng con nguyện danh Cha cả sáng[18].”
“Không,” cậu nói, ngạc nhiên. “Bố của chúng ta. Bố của anh. Bố của em”
“Bố của chúng ta,” cô lặp lại, và cậu cảm thấy giận điên người, vì những từ cô nói thật dễ dãi, máy móc, chẳng có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của cô cả.
“Anh đang buồn,” sau đó cô nhìn cậu. “Nếu bố em mà mất, em cũng buồn lắm.”
Paul giật mình. Phải, đúng vậy – cậu đang buồn. Nỗi oán giận của cậu đã tiêu tan, và đột nhiên cậu có thể nhìn bố theo một cách khác. Ngay chính sự hiện diện của cậu chắc chắn cũng đã nhắc nhở bố trong từng cái nhìn, từng hơi thở, về sự lựa chọn mà ông đã đưa ra và không thể thay đổi được. Những tấm ảnh polaroid chụp hình Phoebe mà Caroline đã gửi đến suốt bao năm qua được tìm thấy tít sâu trong ngăn kéo buồng tối sau khi các nhân viên quản lý phòng tranh đã đi hết, một tấm ảnh chụp cả nhà ông bà nội nữa, tấm ảnh mà Paul vẫn còn giữ, hình cả gia đình bố đứng trên hiên ngôi nhà đã mất. Và hàng ngàn tấm ảnh khác, cái nọ nối tiếp cái kia, bố đã xếp lên từng lớp từng lớp hình ảnh, cố gắng xóa nhòa cái khoảnh khắc ông không bao giờ thay đổi được, thế nhưng, quá khứ vẫn trỗi dậy, dai dẳng như những ký ức, mãnh liệt như những giấc mơ.
Phoebe, em gái cậu, bí mật đã bị giữ kín trong suốt một phần tư thế kỷ.
Paul đi vài bước quay lại con đường mòn rải sỏi. Cậu dừng lại, tay thọc sâu vào túi, những chiếc lá bị cuốn lên cao trong gió lốc, một mẩu báo rách bay lơ lửng qua những hàng bia mộ trắng. Mây lững lờ trôi trong nắng, in bóng lên mặt đất, ánh mặt trời loang loáng chiếu trên những tấm bia, bãi cỏ và cây cối. Lá reo xào xạc trong gió nhẹ, lớp cỏ cao khẽ sột soạt.
Ban đầu những nốt nhạc còn rất khẽ, gần như là một luồng chảy ẩn dưới làn gió, tinh tế đến mức cậu phải căng hết tai ra để nghe. Cậu quay sang Phoebe, cô bé vẫn đứng bên tấm bia mộ, bàn tay đặt trên rìa đá granite đen sẫm, bắt đầu cất tiếng hát. Đám cỏ mọc trên mộ lay động, những chiếc lá rung rinh. Đó là một bài Thánh ca, nghe quen quen. Lời cô hát không rõ ràng, nhưng giọng cô trong trẻo và ngọt ngào, những người khách khác đến viếng nghĩa trang đang nhìn về phía cô, về phía Phoebe với mái tóc xám và chiếc váy phù dâu, dáng đứng vụng về, những từ ngữ dấp dính, vẻ vô tư, và giọng hát du dương của cô. Paul nốt nước bọt, nhìn chằm chằm xuống đôi giày của mình. Trong suốt phần đời còn lại, cậu nhận ra, mình sẽ bị giằng xé như thế mãi, cậu thấy được sự vụng về của Phoebe, những khó khăn mà cô phải đối mặt chỉ vì là kẻ khác biệt trong thế giới này, nhưng dẫu vậy cô đã vượt qua hết thảy bằng tình yêu ngây thơ và thẳng thắn của mình.
Bằng tình yêu của cô, phải. Và, cậu nhận ra, chìm ngập giữa những nốt nhạc, bằng tình yêu thương mới mẻ và phức tạp kỳ lạ cậu dành cho cô bé.
Giọng cô cao và trong vắt, xuyên qua kẽ lá, qua ánh nắng. Nó vương vãi trên lớp sỏi, trên thảm cỏ. Cậu mường tượng từng nốt nhạc rơi vào không trung như đá ném xuống nước, khiến cái bề mặt vô hình của vạn vật gợn sóng lăn tăn. Những đợt sóng âm thanh, những đợt sóng ánh sáng, bố cậu đã cố gắng giữ chặt mọi thứ, nhưng thế giới chảy trôi và không thể bị kìm nén.
Lá reo xào xạc; ánh nắng chan hòa. Lời bài Thánh ca cũ ùa về trong cậu, và Paul ngân lên giai điệu. Phoebe dường như không để ý. Cô tiếp tục hát, hòa vào giọng hát của cậu như hòa cùng tiếng gió. Lời hát của họ hợp làm một, âm nhạc chảy trong cậu, ngân nga trong từng thớ thịt, và nó cũng vang giữa không gian, giọng của cô chính là thứ giọng song sinh của cậu. Khi bài hát chấm dứt, họ đứng nguyên tại chỗ trong ánh nắng chiều trong trẻo, nhợt nhạt. Gió lướt qua, ép món tóc của Phoebe vào cổ, cuốn những chiếc lá vàng dọc theo chân rào đá mòn vẹt.
Vạn vật chậm lại, cho đến khi tất cả đứng yên trong một khoảnh khắc lơ lửng. Paul đứng thật im, chờ xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Trong vài giây, không có gì cả.
Sau đó Phoebe chậm rãi quay lưng lại, vuốt phẳng chiếc váy nhăn nheo.
Một hành động giản dị, nhưng nó đưa vạn vật trở lại với chuyển động.
Paul để ý thấy móng tay cô ngắn và cụt làm sao, cổ tay trông thật mảnh mai trên nền tấm bia đá granite. Đôi bàn tay của em gái cậu nhỏ nhắn, giống y như tay mẹ họ. Cậu bước qua bãi cỏ và đặt tay lên vai cô, đưa cô về nhà.

---HẾT---
[18] Trích Kinh Thánh

Xem Tiếp: ----