1965
Chương 5
Tháng Hai Năm 1965

    
ORAH ĐỨNG BẤP BÊNH TRÊN CHIẾC GHẾ ĐẨU CAO ĐẶT TRONG  PHÒNG KHÁCH, chân để trần, nàng đang mải thắt những dải dây hoa màu hồng lên chiếc đèn chùm bằng đồng. Những dải dây giấy hình trái tim hồng và hồng đậm rủ xuống bàn, vắt lên chiếc bình sứ nàng được tặng hồi mới cưới, lên những bông hồng đỏ thẫm và miệng lọ viền vàng, lên cả tấm khăn trải bàn kết bằng ren và mấy chiếc khăn ăn vải lanh. Trong khi nàng làm việc, chiếc lò sưởi kêu rì rì và những dải giấy nến bay phất phơ, quét lên váy nàng đang mặc, rồi nhẹ nhàng đáp xuống sàn nhà, vẫn còn đu đưa nhè nhẹ.
Paul, đã mười một tháng tuổi, ngồi một góc, bên cạnh là chiếc giỏ đựng nho cũ đầy ắp những mẩu xếp hình bằng gỗ. Thằng bé mới tập đi, suốt cả buổi trưa cu cậu đi lẫm chẫm khắp căn nhà  mới trong đôi giày đầu tiên mình có, lấy thế làm thú lắm. Mỗi căn phòng là một cuộc phiêu lưu. Thằng bé vứt đinh xuống sàn gạch, thích thú trước âm thanh chúng tạo ra. Nó lê cả túi bột bả matit qua bếp, để lại một vệt bột trắng dài dưới chân. Bây giờ thì cu cậu lại tròn mắt nhìn những dải giấy màu xinh xắn và phất phơ như cánh bướm. Nó bám vào ghế đẩu rồi huơ tay để bắt lấy. Vừa túm được một dải giấy màu hồng, nó giật thật mạnh khiến chiếc đèn chùm lắc lư dữ dội.Thằng bé mất thăng bằng ngồi phịch xuống đất. Mất một giây ngơ ngác rồi nó òa lên khóc.
"Ôi, cưng của mẹ," Norah vội trèo xuống đất để bế thằng bé lên.
" Nào, nào," nàng thì thầm và đưa tay lên vuốt mái tóc sẫm mềm mại của con.
Phía ngoài, ánh đèn pha lóe sáng rồi tắt ngay, tiếp đó là tiếng cửa xe sập lại. Cùng lúc đó, chuông điện thoại reo vang. Norah bế Paul vào bếp, vừa nhấc ống nghe thì có tiếng ai đó gõ cửa.
"A lô?" Nàng vừa áp môi lên vầng trán ấm và mềm của Paul, vừa nghiêng người để ngó xem xe ai vừa đi vào. Phải một tiếng nữa Bree mới đến. "Con ngoan," nàng thì thầm. Nói rồi nàng lại quay lại với cái ống nghe, "A lô?"
"Chị Henry phải không ạ?"
Đó là nữ y tá ở chỗ làm mới của David - anh đã chuyển vào làm ở bệnh viện được một tháng - Norah chưa gặp bà ta bao giờ. Giọng nói của bà ta ấm và dày: Norah phác ra hình ảnh một người phụ nữ tuổi trung niên, khỏe mạnh và chắc nịch, tóc búi gọn ghẽ. Caroline Gill, nữ y tá đã nắm chặt tay nàng trong những cơn co thắt đau xé người, với đôi mắt xanh và cái nhìn kiên định theo sát nàng trong suốt buổi đêm điên rồ ngập trong bão tuyết hôm nào - đã biến mất - thật bí ẩn, và cũng tai tiếng nữa.
"Chị Henry, tôi là Sharon Smith. Bác sĩ Henry bị gọi vào xử lý một ca cấp cứu ngay đúng lúc anh ấy chuẩn bị ra cửa để về nhà, tôi xin thề đấy. Có một tai nạn rất kinh khủng trên đường Leestown. Toàn bọn choai choai chị ạ, bị thương nặng lắm. Bác sĩ Henry bảo tôi gọi về cho chị. Anh ấy sẽ cố gắng về nhà trong thời gian sớm nhất có thể."
"Anh ấy có nói bao giờ về không?" Norah hỏi. Không khí tràn ngập mùi thơm của thịt lợn quay, dưa cải bắp và khoai tây bỏ lò: toàn món David thích.
"Không. Nhưng thấy bảo vụ tai nạn này khủng khiếp lắm. Ta nói giữa tôi và chị thôi nhé, chắc phải mất đến vài tiếng là ít."
Norah gật đầu. Đằng xa, cánh cửa trước mở ra rồi đóng lại. Có tiếng chân người khẽ và quen đi qua phòng nghỉ, qua phòng khách rồi tới phòng ăn: Bree đến đón Paul sớm, để Norah và David có cả một buổi tối bên nhau trong ngày kỷ niệm của hai người ngay trước lễ Valentine.
Đó là kế hoạch của Norah, một điều bất ngờ, món quà dành cho anh.
"Cám ơn chị nhé. Cám ơn vì đã báo cho tôi biết." Nàng nói với nữ y tá rồi gác máy.
Bree bước vào bếp, mang theo cả mùi mưa ẩm. Bên dưới áo mưa dài cô đi một đôi bốt đen cao đến đầu gối, cặp đùi dài và trắng muốt mất hút dưới cái váy ngắn nhất mà Norah từng thấy.
"Wow," Bree kêu lên, vứt hết mấy cái túi lên mặt quầy rồi quay ra bế Paul. "Đẹp quá chị Norah ạ. Em không ngờ chỉ trong thời gian ngắn mà chị đã trang hoàng nhà cửa lộng lẫy thế này cơ đấy."
 “Chị làm mất thời gian lắm đấy,” Norah gật gù đồng tình, nghĩ đến mấy tuần cặm cụi gỡ giấy dán tường bằng hơi nước để quét lớp sơn mới. Họ đã quyết định chuyển nhà, cả nàng và David cùng quyết, vì nghĩ rằng nơi ở mới, cũng như công việc mới của anh, sẽ giúp họ quên di quá khứ. Norah vốn chẳng còn thiết tha với bất cứ việc gì, đã dồn hết tâm sức cho công trình này. Dẫu vậy nó cũng chẳng giúp gì nhiều như nàng đã hy vọng lúc đầu; cảm giác mất mát vẫn thường xuyên khuấy động tâm can nàng, như những đóm lửa âm ỉ cháy dưới đám tro tàn. Chỉ mới tháng vừa qua thôi, đã hai lần nàng gọi người đến trông Paul và bỏ mặc căn nhà đầy đồ đạc đang sơn vẽ dở dang cùng những cuộn giấy dán tường ngổn ngang. Nàng lái xe như điên trên những con đường quê nhỏ hẹp tới khu nghĩa trang tư nhân có cánh cổng sắt uốn, đó là nơi con gái nàng đã được chôn cất. Những tấm bia mộ đều thấp lè tè, một số bia đã rất cũ, bị mài mòn tới gần như tròn nhẵn. Tấm bia mộ của Phoebe được làm bằng đá granite hồng giản dị, ngày tháng đánh dấu cuộc đời ngắn ngủi của con bé được khắc sâu ngay bên dưới cái tên. Giữa tiết đông ảm đạm, gió rít giật tung mái tóc nàng, Norah lê gối trên đám cỏ giòn lạnh buốt giống hệt như trong mơ. Nàng đã đau đớn tới gần như đờ dại, quá đau đớn để còn có thể khóc được. Nhưng rồi sau vài giờ liền như thế, cuối cùng nàng cũng đứng dậy, phủi sạch quần áo và quay về nhà.
Giờ Paul còn đang mải nghịch với Bree, cu cậu giơ tay ra túm lấy tóc dì.
“Mẹ con giỏi thật đấy.” Bree nựng thằng bé. “Mẹ con đúng là bà nội trợ kiểu mẫu thời nay, phải không cưng? Không, không, cưng ơi, đừng giật hoa tai của dì,” vừa nói cô vừa giữ lấy bàn tay bé xíu của Paul.
“Bà nội trợ kiểu mẫu?” Norah lặp lại, cơn giận cồn lên trong nàng như sóng trào. “Ý em là sao hả?”
“Em chẳng có ý gì cả,” Bree đáp. Đang mải làm mặt xấu với Paul, giờ Bree mới ngẩng mặt lên vẻ  ngạc nhiên. “Ôi, em nói thật mà Norah. Tươi tỉnh lên xem nào.”
“Bà nội trợ kiểu mẫu?” nàng lặp lại. “Chị chỉ muốn trang hoàng nhà cửa cho đẹp để tổ chức lễ kỷ niệm của bọn chị thôi. Làm thế thì có gì sai?”
“Không có gì đâu.” Bree thở dài. “Trông đẹp lắm. Em chả vừa nói thế còn gì? Mới lại em đến đây để trông con cho chị, nhớ không? Sao chị lại nổi cáu nhỉ?”
Norah phẩy tay. “Thôi kệ đi. Ôi, chết tiệt, kệ nó đi. David phải lo một ca cấp cứu rồi.”
Bree lặng thinh một lúc rồi mới cất lời. “Thảo nào.”
Norah định bênh chồng nhưng lại thôi. Nàng áp chặt hai tay lên má. “Ôi, Bree ơi. Sao lại là tối nay cơ chứ?”
“Thế thì tệ quá,” Bree tán đồng. Mặt Norah cau lại, nàng cảm giác môi mình mím chặt, còn Bree thì cười ầm lên. “Ôi, thôi nào. Nói thật đi. Có lẽ đấy không phải là lỗi của David. Nhưng chị lại cảm thấy đó chính là lỗi của anh ấy, đúng chưa?”
“Không phải lỗi của anh ấy mà,” Norah nói. “Có một vụ tai nạn. Nhưng phải. Em nói đúng. Chị nghĩ thế đấy – thối lắm. Thối không chịu được, sướng chưa?”
“Em biết,” giọng Bree bỗng dịu dàng đến không ngờ. “Nghĩ thế thì tệ thật. Em rất tiếc, chị à.” Rồi cô nhoẻn miệng cười. “Này, em mang quà cho chị với David đấy. Có khi lại làm chị vui lên ấy chứ.”
Nói rồi cô chuyển sang bế Paul trên một tay và khua khoắng chiếc túi thêu to bự, lôi ra mấy quyển sách, một thanh kẹo, một đống tờ rơi quảng cáo buổi biểu diễn sắp tới, một chiếc kính mát đựng trong hộp da sờn cũ, và cuối cùng là một chai rượu. Cô rót cho hai chị em mỗi người một cốc đầy thứ nước óng ánh như hồng ngọc.
“Vì tình yêu,” nói rồi cô đưa Norah một ly và giơ cao ly kia. “Vì hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu.”
Họ cười và cùng cạn ly. Rượu nồng hương quả mọng, thoang thoảng mùi gỗ sồi. Nước mưa nhỏ tong tong trên máng xối. Nhiều năm về sau Norah vẫn còn nhớ mãi cái đêm hôm ấy, nhớ nỗi thất vọng chán chường, nhớ Bree đã mang đến những món quà lấp lánh từ một thế giới khác, nhớ đôi ủng sang bóng, đôi hoa tai, sức sống mơn mởn như một thứ ánh sáng của cô. Trong mắt Norah, những thứ ấy thật đẹp, và cũng khó với tới biết bao. Phiền muộn – nhiều năm sau Norah mới hiểu ra nàng đã sống một cuộc đời tăm tối như thế nào – nhưng không ai thèm đả động đến chuyện đó  vào năm 1965 cả. Thậm chí chẳng có ai nghĩ đến nó. Chắc chắn không phải cuộc đời của Norah rồi, nàng đã có nhà, có con, và cả ông chồng bác sĩ nữa. Nàng phải thấy hài lòng mới đúng.
“Này – cái nhà cũ của chị bán chưa?” Bree hỏi, tay đặt chiếc ly lên quầy bếp. “Chị chịu bán chưa?”
“Chị chẳng biết nữa,” Norah đáp. “Giá thấp hơn bọn chị nghĩ. David muốn đồng ý cho xong, nhưng chị không biết phải làm sao nữa. Đấy là tổ ấm của bọn chị. Thật chị chẳng muốn bán đi.”
Nàng nghĩ đến căn nhà đầu tiên của họ, nằm im lìm và câm lặng với tấm biển đề nhà cần bán trước sân, và cảm thấy dường như mọi vật bỗng trở nên quá mong manh. Nàng bám vào thành quầy bếp để giữ thăng bằng và nhấp thêm một ngụm rượu nữa.
“Chuyện yêu đương của em dạo này sao rồi?” Norah chuyển chủ đề. “Cái cậu mà em đang hẹn hò thế nào rồi – cậu ta tên gì ấy nhỉ - Jeff phải không?”
“À, thằng cha đấy hả.” Khuôn mặt Bree bỗng sầm lại, cô lắc đầu như để xua tan sự nặng nề ấy. “Em chưa kể cho chị à? Hai tuần trước em về nhà thì thấy hắn trên giường – giường của em – với một con ranh rất kháu làm việc cùng bọn em trong chiến dịch của ngài Thị trưởng.”
“Ôi, thế à! Chị rất tiếc.”
Bree lắc đầu. “Kệ đi chị. Em cũng chả yêu hắn đâu mà. Bọn em chỉ hợp nhau thôi. Ít ra thì em nghĩ thế.”
“Em không yêu anh ta sao?” Norah lặp lại, nàng nghe thấy giọng phản đối của mẹ phát ra từ chính miệng mình và thấy ghét nó kinh khủng. Nàng không muốn trở thành người như bà, chỉ ngồi uống hết chén trà này tới chén trà khác trong căn nhà ngăn nắp tĩnh mịch mà chị em nàng sống tuổi ấu thơ. Nhưng nàng cũng chẳng muốn thành người có lẽ nàng sắp trở thành, một người bị nỗi đau làm cho rệu rã, ngày ngày chìm đắm trong một thế giới vô nghĩa.
“Không,” Bree kêu lên. “Không đâu, em không hề yêu anh ta, mặc dù có lúc em cũng tưởng thế thật. Nhưng đấy không phải vấn đề. Vấn đề ở chỗ anh ta biến chuyện yêu đương của bọn em thành một trò sáo không tả nổi. Mà em thì ghét sự sáo rỗng nhất trần đời.”
Bree đặt chiếc ly cạn sạch lên quầy và chuyển Paul sang tay kia. Khuôn mặt cô không hề trang điểm mà vẫn thật tinh tế, xương xương nhẹ nhàng; gò má, làn môi hơi ửng sắc hồng.
“Chị chịu, không sống như em được,” Norah nói. Từ khi Paul ra đời, từ khi Phoebe chết, nàng cảm thấy mình có bổn phận phải luôn giữ cảnh giác, dường như chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể mở rộng cánh cửa để tai họa ập tới. “Chị không tài nào làm thế được – phá vỡ mọi thứ luật lệ. Gạt bỏ tất cả.”
“Chả có ngày tận thế nào cả,” Bree nói khẽ. “Khó tin quá phải không, nhưng thực sự là chả có ngày tận thế nào hết.”
Norah lắc đầu. “Có chứ. Dù là thời điểm nào, mọi chuyện đều có thể xảy ra được hết.”
“Em biết rồi,” Bree lại nói. “Em biết mà chị.” Cơn giận dữ trước đó của Norah giờ đã tan biến, thay vào đó lòng biết ơn vô bờ. Bree là người luôn biết lắng nghe và đáp lại, cô không bao giờ nói điều gì khác những trải nghiệm thực tế của chính mình. “Chị nói đúng, Norah à, mọi chuyện đều có thể xảy ra, vào bất cứ lúc nào. Nhưng những chuyện không may xảy ra không phải do lỗi của chị. Chị không thể nào dành phần đời còn lại để rón rén đi tuần khắp nơi rồi cố gắng đảo ngược mọi thảm họa có thể xảy ra. Không ích gì đâu. Rốt cuộc chị chỉ bỏ phí cuộc đời chị đang có thôi.”
Norah không  biết phải nói sao, vì thế nàng đỡ lấy Paul, thằng bé đang oằn oại trong tay Bree vì đói, tóc nó đã khá dài – rất dài rồi, nhưng Norah vẫn không đành lòng cắt bớt đi – từng lọn tóc phất phơ nhè nhẹ như đang chìm ngập trong nước theo từng cử động của thằng bé..
Bree rót thêm rượu cho cả hai chị em và lấy ra một quả táo trong bát hoa quả đặt trên quầy. Norah cắt mấy lát pho mát cùng bánh mì và chuối rồi xếp rải rác lên chiếc khay đặt trên cái ghế ăn của Paul. Vừa làm nàng vừa nhấp thêm ít rượu. Dần dần mọi vật xung quanh nàng bỗng trở nên rõ ràng hơn, sống động hơn. Nàng thấy đôi bàn tay của Paul thật giống những cánh sao biển nhỏ xinh, mái tóc của thằng bé như ánh lên màu cà rốt. Ánh đèn bếp hắt qua lan can hàng hiên sau nhà, in xuống bãi cỏ những mảng sáng tối lẫn lộn.
“Chị mua cho David một cái máy ảnh làm quà cho ngày kỷ niệm của bọn chị,” Norah nói, thầm ước có thể chớp lấy những khoảng khắc thoáng qua và giữ chúng lại mãi mãi. “Từ lúc nhận việc mới anh ấy bận bịu luôn. Anh ấy cần thứ gì đó để giải khuây. Chị không thể tin nổi là đến đêm nay anh ấy vẫn còn phải làm việc.”
“Chị này?” Bree nói. “Sao em lại không đón Paul về nhà luôn nhỉ? Em nghĩ là, biết đâu đấy, có thể David sẽ về nhà để kịp ăn bữa tối. Nhưng nếu tới nửa đêm anh ấy mới về thì sao? Sao lại không thể nhỉ? Nếu vậy chị có thể bỏ luôn bữa tối, dẹp hết bát đĩa đi rồi làm tình ngay trên bàn ăn ấy.”
“Bree!”
Bree cười phá lên. “Đi mà Norah? Em muốn đón thằng bé về mà.”
“Nó phải tắm nữa,” Norah nói.
“Chuyện nhỏ,”  Bree đáp. “Em hứa sẽ không làm thằng bé chết đuối trong bồn tắm đâu.”
“Không đùa đâu,” Norah nói. “Không đùa thật đấy.”
Nhưng cuối cùng nàng cũng chiều lòng Bree và đi gói đồ cho Paul. Bree bế thằng bé ra khỏi cửa, mái tóc mềm của nó áp vào má cô, đôi mắt đen to tròn nhìn cô ra chiều nghiêm trọng, và rồi thằng bé đi mất. Nàng đứng bên cửa sổ dõi theo cho tới khi ánh đèn chiếu hậu từ chiếc xe hơi của Bree mất hút trên phố, mang theo con trai nàng. Đó là tất cả những gì nàng còn làm được để tự kiềm chế bản thân không chạy theo họ. Sao lại có thể để một đứa trẻ lớn lên và bước vào cái thế giới vừa nguy hiểm vừa khó lường đến thế? Nàng đứng thẫn thờ trong mấy phút, chỉ nhìn chằm chằm vào bóng tối. Sau đó nàng vào bếp, lấy giấy bạc bọc món thịt quay lại, và tắt lò nướng. Bảy giờ. Chai rượu Bree mang tới đã gần cạn. Căn bếp tĩnh lặng đến độ nàng có thể nghe thấy tiếng kim đồng hồ tích tắc, Norah lại mở một chai rượu khác, một chai rượu Pháp rất đắt tiền nàng mua để dành cho bữa tối.
Căn nhà im ắng quá. Nàng đã bao giờ ở một mình chưa, dù chỉ một lần, kể từ khi Paul ra đời? Nàng nghĩ vậy là chưa. Nàng đã cố tránh những giây phút cô độc, những thời khắc bình lặng mỗi khi nghĩ về đứa con gái đã mất bất ngờ trỗi dậy. Buổi lễ tưởng niệm tổ chức trong sân nhà thờ dưới ánh nắng mới gay gắt của tiết tháng Ba đã giúp nàng nguôi ngoai phần nào, nhưng không hiểu sao, đôi lúc Norah vẫn nhận thấy sự hiện diện của con gái nàng, như thể chỉ cần quay lại, nàng sẽ nhìn thấy con bé trên bậc cầu thang hay đang đứng ngoài bãi cỏ.
Nàng xòe hai bàn tay ra áp chặt lên tường và lắc đầu để gạt bỏ ý nghĩ ấy. Rồi, với cốc rượu vẫn cầm trên tay, nàng đi quanh nhà ngắm nghía công trình của mình. Dấu chân nàng in hằn lên nền nhà vừa mới đánh xi sáng bóng. Bên ngoài, mưa rơi nặng hạt, ánh đèn bên kia đường nhòe dần. Norah nhớ lại đêm hôm nào, nhớ cơn bão tuyết điên cuồng. David đã đỡ lấy khuỷu tay nàng, giúp nàng mặc chiếc áo khoác xanh đã cũ, chiếc áo ấy giờ đã sờn rách lắm rồi, nhưng nàng vẫn không nỡ bỏ đi. Chiếc áo choàng lúc đó rũ xuống, để hở cái bụng tròn của nàng, và rồi mắt hai người chạm nhau. Anh thật tận tâm, thật nghiêm trang, khuôn mặt anh tràn ngập một vẻ háo hức pha lẫn hồi hộp, trong khoảnh khắc ấy, Norah cảm thấy nàng hiểu anh như chính bản thân mình.
Nhưng mọi thứ đã thay đổi. David đã thay đổi. Có những tối, anh ngồi đọc tạp chí trên sofa ngay bên nàng, vậy mà anh cứ như thể không hiện diện ở đó vậy. Trước đây, khi còn là nhân viên tổng đài điện thoại đường dài, Norah đã điều khiển những núm kim loại lạnh băng, đã lắng nghe tiếng chuông reo ở nơi xa xăm, tiếng cạch khẽ báo máy được nối. Nàng sẽ nói, Xin giữ máy, lời nàng vang vọng, rồi ngưng bặt; tiếng người nói rồi dừng, mở ra khoảng tối tĩnh lặng hoang dại chắn giữa bọn họ. Có đôi khi nàng lắng tai nghe giọng nói của những con người nàng chưa bao giờ gặp mặt, nghe họ thông báo những tin tức nghiêm túc: chuyện sinh nở hoặc cưới xin, ốm đau hoặc tang ma. Nàng cảm nhận được bóng tối của khoảng cách và thấy mình mang quyền năng có thể xóa nhòa chúng.
Nhưng đó là quyền năng nàng đã đánh mất – ít nhất  là trong lúc này, và lại đúng ở nơi đó nó cần có mặt nhất. Đôi khi, vào giữa đêm khuya, ngay sau khi họ vừa ân ái và vẫn nằm bên nhau, trái tim đập sát trái tim, nàng nhìn David và thấy tai mình ong lên những tiếng gào thét từ nơi xa thẳm tăm tối trong vũ trụ.
Đã quá tám giờ. Ranh giới của vạn vật nhòa dần đi. Nàng quay vào bếp và đứng bên lò sưởi, xắn lấy ít thịt lợn khô. Nàng ăn luôn một củ khoai tây ngay trong chảo, lấy nĩa xẻ củ khoai thành nhiều mẩu nhỏ. Món pho mát cải bông xanh đã đông lại và khô đi; Norah cũng nếm thử một miếng. Nó làm cổ họng nàng khô cháy, nàng liền vớ lấy chiếc ly. Cạn sạch. Đứng bên bồn rửa, nàng uống một cốc nước, rồi thêm cốc khác, tay bám vào thành quầy vì thấy thế giới thật quay cuồng. Mình say mất rồi, nàng tự nhủ, ngạc nhiên và có phần hài lòng với chính bản thân. Nàng chưa từng say lần nào, mặc dù đã có lúc Bree đi nhảy về rồi nôn ọe ra đầy tấm vải sơn. Cô nói lại với mẹ là uống nhầm rượu pha, nhưng trong mắt Norah, cô em gái đã tự thú nhận tất cả, cái chai rượu trong túi giấy nâu và lũ bạn của cô túm tụm trong mấy bụi cây, phả ra những làn khói mỏng nồng gắt trong đêm khuya.
Chiếc điện thoại dường như ở rất xa. Khi bước đi, nàng cảm thấy thật khác lạ, như thể nàng đã vượt ra khỏi thân xác mình mà trôi bồng bềnh. Một tay nàng bám lấy gióng cửa tay kia bấm số, chiếc ống nghe ép chặt giữa vai và tai. Bree nhấc máy ngay tiếng chuông đầu tiên.
“Em biết ngay là chị mà,” cô nói. “Paul vẫn ổn. Bọn em đọc sách rồi đi tắm, bây giờ trông thằng bé có vẻ buồn ngủ lắm.”
“Ô, tốt lắm. Phải, tuyệt.” Norah nói. Nàng đã định kể cho Bree nghe về cái thế giới huyền hoặc này, nhưng giờ nó bỗng trở nên quá riêng tư, một bí mật.
“Chị thì sao?” Bree nói. “Chị có ổn không?”
“Chị ổn.” Norah đáp. “David vẫn chưa về, nhưng chị ổn.”
Nàng gác máy thật nhanh, tự rót cho mình một ly rượu nữa rồi đi ra hiên nhà, đứng ngửa mặt nhìn lên trời. Một màn sương mỏng lơ lửng giữa không trung. Bấy giờ rượu cồn dường như lan khắp người nàng, tựa làn hơi nóng hay luồng ánh sáng, rượu chảy theo chân tay nàng tới từng đầu ngón tay, ngón chân. Khi Norah quay lại, cả thân hình nàng cơ hồ trôi đi, như thể nàng đang dần trượt khỏi chính mình. Nàng nhớ đến chiếc xe của họ, chạy trên những con đường phủ băng như đi giữa không trung, bị lệch hướng một lúc cho đến khi David kiểm soát được nó. Mọi người nói đúng: nàng không thể nhớ được cơn đau đẻ, nhưng nàng lại chưa bao giờ quên cảm giác lúc ở trong xe, thấy thế giới cứ trượt đi, quay cuồng, đôi tay nàng bám nhanh lấy mặt táp lô lạnh cóng trong khi David, thật máy móc, dừng xe ở tất cả các chốt đèn đỏ.
Anh đâu rồi, nàng tự hỏi, nước mắt bỗng dâng đầy khóe mi, mà sao nàng lại cưới anh nhỉ? Tại sao anh lại khao khát có được nàng đến vậy? Những tuần yêu đương điên rồ sau ngày họ gặp nhau, hôm nào anh cũng đến căn hộ nàng ở, mang tặng hoa hồng, mời đi ăn tối rồi còn đưa nàng về nông thôn chơi. Đêm Giáng sinh chuông cửa reo vang, nàng mặc nguyên chiếc áo choàng cũ ra mở cửa, nghĩ rằng đấy là Bree. Nhưng không, nàng mở cửa ra thì thấy David, mặt đỏ bừng lên vì lạnh, trên tay ôm mấy cái hộp bọc giấy mày rực rỡ. Cũng muộn rồi, anh biết vậy, nhưng nàng có thể ra ngoài với anh không?
Không, nàng đáp, rồi Anh điên rồi! Nhưng nàng lại cười không ngớt trước sự điên rồ của hành động ấy, vừa cười vừa lùi lại để anh vào nhà, người đàn ông ấy đứng trên bậc cửa nhà nàng, tay cầm hoa và quà. Nàng thấy ngạc nhiên và dễ chịu, có chút gì đó sững sờ nữa. Có những lúc, nhìn những người khác đi dự tiệc của hội nữ sinh, hoặc ngồi trên ghế đẩu trong căn phòng không có lấy một ô cửa sổ nơi công ty điện thoại trong khi các bạn đồng nghiệp lên kế hoạch cho đám cưới từ bông hoa cài áo tới kẹo bạc hà dùng trong bữa tiệc, Norah khi ấy lặng lẽ và dè dặt làm sao, tin rằng mình sẽ ở vậy cả đời. Nhưng David đã tới, một bác sĩ đẹp trai đứng trên ngưỡng cửa căn hộ nàng sống và khẩn khoản. Đi mà, có một thứ rất đặc biệt anh muốn cho em xem.
Đêm hôm đó trời rất trong, sao sáng lấp lánh. Norah ngồi trên ghế trước khá rộng bọc vinyl trong chiếc xe cũ kỹ của David. Nàng mặc một chiếc váy len màu đỏ và thấy mình thật xinh đẹp. Bầu không khí ngoài trời khô hanh, đôi tay David đặt trên vô lăng và chiếc xe bon bon chạy xuyên bóng đêm, qua giá rét, chạy vào những con đường ngày càng nhỏ dần, đến một nơi nàng không nhận ra. Anh dừng xe lại bên cạnh một cối xay bột mì cũ. Họ ra khỏi xe và bước về phía nước chảy. Dòng nước đen lấp lánh ánh trăng soi và chảy len qua đá sỏi, làm cái guồng quay tròn. Ngôi nhà đứng im lìm trên nền trời đen thẳm, điểm những ánh sao mờ ảo, không khí tràn ngập tiếng nước vỗ ràn rạt và xoáy tròn.
“Em có lạnh không??” David đứng bên kia dòng nước hét to, Norah cười lớn, người run run, nói, Không; không đâu, nàng không lạnh, nàng vẫn ổn.
“Tay em thì sao?” anh hét to, giọng rung lên, dội lại như nước. “Em không mang găng tay mà.”
“Em ổn mà,” nàng hét lên để trả lời anh, nhưng anh đã cầm lấy tay nàng áp lên ngực mình, ủ ấm tay nàng giữa đôi găng tay của anh và lớp len lốm đốm sẫm màu của chiếc áo anh đang mặc.
“Chỗ này đẹp quá!” nàng nói với anh, và anh bật cười. Rồi anh cúi xuống hôn nàng, buông tay nàng ra để luồn tay mình vào áo choàng của nàng, men dần lên lưng. Nước chảy ào ạt, dội âm thanh lên ghềnh đá.
“Norah,” anh hét lên, giọng nói của anh như một phần bóng đêm, xoáy tròn như nước chảy, từng chữ đều rõ ràng dù nghe thật nhỏ bé giữa các âm thanh khác. “Norah! Em lấy anh nhé?”
“Vâng!” nàng cũng hét vang, lại áp lòng bàn tay lên áo khoác của anh. “Vâng, em đồng ý!”
Anh lồng chiếc nhẫn vào ngón tay nàng: một chiếc nhẫn mảnh bằng vàng trắng vừa đúng cỡ của nàng, với một viên kim cương bầu dục đính trên mặt và hai viên ngọc lục bảo nhỏ xíu khảm hai bên. Cho hợp với màu mắt nàng và chiếc áo nàng mặc ngày họ gặp nhau, anh nói vậy.
Giờ nàng lại vào trong nhà, đứng trên ngưỡng cửa phòng ăn, xoay xoay chiếc nhẫn trên ngón tay. Những dải dây giấy đu đưa. Một dây quệt vào mặt nàng; một dây khác nhúng trong ly rượu của nàng. Norah ngắm nghía rượu ngấm dần lên phía trên sợi dây một cách thích thú. Nàng nhận thấy nó có màu gần như giống hệt màu mấy chiếc khăn tay. Bà nội trợ kiểu mẫu, đúng thật: kể cả nếu có chủ ý từ đầu nàng cũng không thể kiếm được bộ đôi nào hợp hơn. Rượu bắn ra ngoài ly  và loang ra tấm khăn trải bàn, làm vấy bẩn cả lớp giấy sọc vàng gói món quà nàng dành tặng David. Nàng cầm cái gói lên và, trong một cơn thôi thúc, xé lớp giấy ra. Mình thực sự đã say lắm rồi, nàng thầm nghĩ.
Chiếc máy ảnh này thuộc dạng máy bỏ túi, vừa đủ nhẹ. Norah đã phân vân hàng tuần trời không biết tặng quà gì cho hợp tới khi nàng nhìn thấy chiếc máy này trên kệ trưng bày ở cửa hàng Sears. Vỏ màu đen và crôm sáng loáng, với những núm nút, cần bẩy và con số phức tạp khắc quanh thân ống kính, chiếc máy ảnh có hình dạng từa tựa như những dụng cụ y tế của David. Anh chàng bán hàng rất trẻ và nhiệt tình, đã quảng cáo với nàng đủ loại thông tin kỹ thuật kiểu như khẩu độ, độ dài tiêu cự, và cả ống kính góc ngắm rộng. Những thuật ngữ đó ào vào đầu nàng như nước lũ nhưng nàng lại chỉ thích sức nặng của chiếc máy trên tay, đường nét thanh lịch của nó, và cái cách thế giới thu lại trong khuôn hình thật chuẩn xác khi nàng ghé mắt qua ống ngắm.
Rồi, thật thận trọng, nàng đẩy chiếc cần gạt bằng bạc. Một tiếng click rồi tách, vang rất to trong căn phòng, khi cửa trập mở ra. Nàng bấm chiếc nút nhỏ, lên phim- nàng còn nhớ lúc người bán hàng nói cụm từ đó, lên phim, giọng anh ta cao vống lên một lúc, vượt lên hẳn dòng âm thanh ồn ã trong cửa hiệu. Nàng nhòm qua ống ngắm, lấy khuôn hình chiếc bàn bẩn một lần nữa, rồi bật hai nút khác để lấy nét. Lần này, khi nàng bật cửa trập, chiếc đèn flash bất ngờ nổ tung, bắn văng ra tận chân tường. Mắt hoa lên, nàng lật máy ảnh lại và xem xét chiếc bóng đèn, giờ đã đen thui lại và vỡ tan. Nàng thay bóng, làm mấy ngón tay bỏng rát, nhưng dường như nàng không cảm thấy đau nữa.
Nàng đứng dậy và liếc nhìn đồng hồ: đã 9h45.
Mưa nhỏ, rơi rả rích. David đã đi bộ đến chỗ làm, và nàng mường tượng ra cảnh anh uể oải lê bước về nhà trên những con phố tối tăm. Trong một cơn thôi thúc, nàng vớ lấy áo khoác và chùm chìa khóa xe- nàng sẽ tới bệnh viện để làm anh bất ngờ một phen.
Trong xe lạnh cóng. Nàng lùi xe ra khỏi lối vào, mò mẫm tìm máy sưởi và theo thói quen cũ lại quay xe sai hướng. Ngay cả sau khi nhận ra mình đã nhầm, nàng vẫn tiếp tục lái xe trên những con phố hẹp mưa giăng kín, trở về ngôi nhà cũ của họ, nơi ấy nàng đã từng trang hoàng căn phòng trẻ với hy vọng trong trẻo biết bao, nơi ấy cũng chính là nơi nàng ngồi ru Paul trong bóng tối. Nàng và David đã nhất trí rằng chuyển chỗ ở là một quyết định sáng suốt, nhưng sự thực là nàng không thể chịu được cái cảm giác phải bán nơi này đi. Hầu như ngày nào nàng cũng ghé qua đây. Cuộc sống mà con gái nàng đã nếm trải, những gì Norah đã có với con bé đều diễn ra trong căn nhà ấy.
Căn nhà hầu như không thay đổi gì, chỉ khác là tối om mà thôi: hiên trước rộng rãi với bốn cây trụ sơn trắng, phiến đá vôi đẽo thô và chỉ có một đốm đèn còn sáng. Kế bên là nhà bà Michaels, chỉ cách có vài bước chân, bà đang đi đi lại lại trong bếp, rửa bát đĩa và chăm chú nhìn vào đêm tối; kia là ông Bennett ngồi trên chiếc ghế tựa, rèm cửa để ngỏ, tivi vẫn bật. Norah hầu như tin chắc rằng, chỉ cần đi vài bước nữa thôi, nàng sẽ lại sống ở nơi này. Nhưng cánh cửa mở ra những căn phòng trống trơn, lạnh lẽo, nhỏ bé đến se lòng.
Rảo bước quanh căn nhà vắng lạnh, Norah cố hết sức để suy nghĩ tỉnh táo. Dường như lúc này rượu càng ngấm sâu vào nàng hơn và nàng hầu như không nhận thức được thời gian nữa. Một tay nàng cầm chiếc máy ảnh mới của David. Thực tế, chứ không phải quyết định. Máy còn chụp được mười lăm tấm hình nữa và trong túi nàng cũng có sẵn đèn flash dự phòng. Nàng chụp một tấm hình chiếc đèn chùm, khi đèn flash lóe lên, nàng cảm thấy thật thỏa mãn, vì từ giờ nàng có thể giữ mãi hình ảnh ấy bên mình, sau hai mươi năm nữa, nàng sẽ không bao giờ phải choàng dậy giữa đêm khuya mà không nhớ nổi từng chi tiết, từng đường viền vàng duyên dáng ấy.
Nàng đi hết phòng này tới phòng khác, vẫn say trong hơi men nhưng có chủ đích hẳn hoi, những ô cửa sổ, giá treo đèn, những đường vân xoắn trên nền nhà. Dường như việc nàng ghi lại từng tiểu tiết  đều vô cùng hệ trọng. Lúc ấy, một chiếc đèn dùng rồi đã bị cháy rơi tuột khỏi tay nàng và vỡ tan tành; khi nàng lùi bước, những mảnh thủy tinh cào rách gót chân nàng. Nàng xem xét bàn chân lồng trong bít tất một lúc, thích thú và ấn tượng vì mình đã say đến mức này- chắc nàng đã bỏ đôi giày ướt ngoài cửa trước, do thói quen cũ. Nàng lang thang khắp căn nhà thêm hai lần nữa, ghi nhớ những công tắc đèn, cửa sổ, đường ống từng dùng để dẫn khí gas lên tầng hai. Chỉ đến khi đi xuống cầu thang nàng mới nhận thấy chân mình đang rỉ máu, để lại một vệt bẩn: những dấu hình trái tim gớm ghiếc, biểu tượng Valentine nhỏ xíu vẽ bằng máu. Norah thấy sốc và bỗng sởn gai ốc trước sự tàn phá mà nàng đã chủ định gây ra.
 
Về sau, nàng không còn nhớ mấy về chuyến xe, chỉ còn hình ảnh những con phố hẹp tối tăm, gió thổi xào xạc qua tán lá, ánh đèn loang loáng trên những vũng nước và nước táp vào bánh xe. Nàng không còn nhớ tiếng kim loại va vào nhau, chỉ còn hình ảnh cái thùng rác sáng lấp lánh bất thần bay vèo tới phía trước xe. Ướt đầm trong nước mưa, chiếc thùng dường như lơ lửng một lúc cho tới khi bắt đầu rồi xuống. Nàng nhớ là nó đập lên mui xe rồi lăn ngược lên và đập vỡ tấm kính chắn gió; nàng nhớ chiếc xe đã nẩy bật trên lề đường và từ từ dừng lại chính giữa gốc một cây sồi lá kim. Nàng không còn nhớ mình đã va vào kính chắn gió, nhưng trông nó giống một cái mạng nhện, những đường nứt lan rộng ra xung quanh, mỏng manh, tinh tế và chuẩn xác. Khi nàng áp tay lên trán, tay nàng từ từ trượt xuống, vấy đầy máu.
Nàng không ra khỏi xe. Cái thùng rác nằm lăn lóc trên đường. Những hình hài đen thẳm - những con mèo - lấp ló bên rìa thùng, đứng rải rác thành một vòng cung. Ánh đèn lóe lên trong căn nhà ở bên phải, và một người đàn ông bận áo choàng và dép lê chạy ra, hối hả bước xuống vỉa hè tới chỗ chiếc xe của nàng nằm.
“Cô có sao không?”, anh ta cúi xuống để nhìn qua cửa xe khi nàng chậm chạp quay kính xe xuống. Không khí buổi đêm mát lạnh táp vào mặt nàng. “Ngoài này có chuyện gì vậy? Cô có sao không? Trán cô đang chảy máu kìa”, anh ta nói tiếp, đoạn rút một chiếc khăn tay từ trong túi ra.
“Không sao đâu”, Norah đáp, đưa tay gạt chiếc khăn tay của anh ta, nó nhàu nhĩ một cách đáng ngờ. Nàng lại áp nhẹ lòng bàn tay lên trán, quệt sạch một vệt máu khác. Chiếc máy ảnh, vẫn còn lủng lẳng trên cổ tay nàng, đập vào vô lăng. Nàng tháo ra và cẩn thận đặt xuống ghế bên cạnh mình. “Ngày kỷ niệm của tôi đấy”, nàng thông báo với người lạ mặt. “Gót chân tôi cũng bị chảy máu nữa.”.
“Cô có cần đi gặp bác sĩ không?”, người đàn ông hỏi.
“Chồng tôi là bác sĩ”, Norah đáp, nàng nhận thấy người đàn ông tỏ vẻ ngập ngừng và biết có lẽ mình vừa cư xử rất ngớ ngẩn. Có lẽ là đang cư xử rất ngớ ngẩn ngay lúc này ấy chứ. “Anh ấy là bác sĩ đấy”, nàng lặp lại với giọng cả quyết. “Tôi sẽ đi tìm anh ấy”.
“Tôi không chắc cô có lái xe được không,” người đàn ông nói. “Sao cô không để xe lại đây và để tôi gọi xe cấp cứu?”.
Mắt nàng đẫm lệ trước cử chỉ tử tế của anh ta, nhưng rồi nàng tưởng tượng ngay ra cảnh ấy, ánh đèn, tiếng còi hú và những bàn tay dịu dàng. David sẽ vội vã chạy đến và thấy nàng trong phòng cấp cứu, rũ rượi, bê bết máu me và vẫn còn say xỉn: một vụ tai tiếng và một nỗi nhục nhã.
“Không!”, nàng nói, thận trọng với từng ngôn từ của mình. “Tôi ổn mà, thật đấy! Có một con mèo chạy qua làm tôi giật mình đấy mà. Nhưng nói thật là tôi ổn. Tôi sẽ về nhà, để chồng tôi sẽ xử lý về thương này. Không sao thật mà!”
Người đàn ông ngập ngừng một lúc lâu, đèn đường hắt ánh bạc lên mái tóc anh ta, rồi anh nhún vai, gật đầu một cái và bước lùi lại nơi lề đường. Norah lái xe thật cẩn thận, chậm rãi, bật đèn xi nhan trên con phố vắng tanh. Qua kính chiếu hậu, nàng nhìn thấy anh ta, tay khoanh lại, mắt theo dõi nàng cho tới khi nàng rẽ ở góc đường và biến mất.
Không gian tĩnh lặng khi nàng lái xe về qua những con phố quen thuộc, hơi men bắt đầu tan dần. Căn nhà mới của nàng sáng sực ánh đèn trên tất cả các ô cửa sổ, tầng trên và tầng dưới, ánh sáng tràn ra ngoài như một loại chất lỏng, như thứ gì đó đã đày tràn không thể bị giữ lại nữa. Nàng đậu xe trên lối vào nhà và bước ra, nàng đứng một lúc trên bãi cỏ ướt sũng, mưa rơi rả rích và đọng thành hạt trên mái tóc, trên áo choàng của nàng. Trong nhà, nàng thoáng thấy David ngồi trên sofa. Paul nằm trong vòng tay anh, thằng bé đang ngủ say, đầu khẽ tựa lên vai bố. Nàng nghĩ đến quang cảnh lúc nàng đi, rượu đổ tung tóe và dây giấy vắt ngổn ngang, món thịt quay nham nhở. Nàng xốc lại áo choàng và hối hả bước lên bậc cửa.
“Norah!”, David gặp nàng ở cửa, tay vẫn bế Paul. “Norah, chuyện gì xảy ra với em vậy? Em đang chảy máu kìa!”.
“Không sao đâu. Em ổn mà”, nàng nói, đoạn gạt tay David ra khi anh cố đỡ nàng. Chân nàng đau nhói, nhưng nàng thấy vui vì cơn đau rứt buốt, nó cân bằng lại cơn chấn động trong đầu nàng, dường như cơn đau ấy chạy dọc cơ thể nàng trong một chuỗi liền lạc và giữ cho nàng đứng vững. Paul ngủ có vẻ say, hơi thở của thằng bé chậm và đều. Nàng nhẹ nhàng áp lòng bàn tay lên cái lưng nhỏ xíu của nó.
“Bree đâu rồi anh?”, nàng hỏi.
“Nó đi tìm em đấy”, David nói. Anh liếc mắt qua phòng ăn và nàng dõi theo hướng nhìn của anh, thấy bữa tối tanh bành, những dải dây rơi vương vãi trên sàn nhà. “Thấy em không có ở nhà, anh sợ quá nên gọi cho nó. Nó đưa Paul sang đây, rồi ra ngoài tìm em.”
“Em ở nhà cũ đấy,” Norah nói. “Em đâm phải một cái thùng rác”. Nàng đưa tay lên trán và nhắm mắt lại.
“Em đã uống rượu.” Anh tuyên bố bằng giọng điềm tĩnh.
“Uống rượu và ăn tối. Anh đã về muộn.”.
“Có tận hai chai rượu cạn sạch cơ mà, Norah”.
“Bree đã ở đây. Chờ anh lâu quá!”.
Anh gật đầu. “Bọn choai choai đêm nay, mấy đứa bị tai nạn ấy? Bọn nó nốc bia bí tỉ. Anh rất hoảng, Norah ạ”.
“Em có say đâu”.
Chuông điện thoại reo vang và nàng nhấc máy, ống nghe nặng trĩu trong tay. Là Bree, giọng cô hối hả như nước chảy, nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra. “Chị ổn mà,” Norah nói, cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh và rõ ràng. “Chị ổn”. David nhìn nàng, xem xét đường sẫm màu trên lòng bàn tay nàng nơi đọng lại những giọt máu khô. Nàng co ngón tay che lại và quay đi.
“Đây,” khi nàng gác máy, anh chạm lên tay và nàng nói thật dịu dàng: “Em ra đây”.
Họ đi lên gác. Trong khi David đặt Paul vào nôi, Norah xoa xoa chỗ tất rách và ngồi xuống thành bồn tắm. Mọi vật đã trở nên rõ ràng và vững chãi hơn, và nàng thấy lóa mắt trước ánh đèn sáng rực, cố gắng sắp xếp lại những sự việc đã xảy ra trong buổi tối theo đúng trình tự. Khi David quay lại, anh bèn gạt mấy món tóc vương trên trán nàng, động tác của anh nhẹ nhàng và chính xác, và bắt đầu lau rửa vết thương.
“Hy vọng em đã bỏ lại người kia trong tình trạng tồi tệ hơn thế này,” anh nói, và nàng tưởng tượng ra có lẽ anh cũng nói câu tương tự với những bệnh nhân đã tới phòng khám của anh: dăm ba mẩu chuyện trò lặt vặt, rồi đùa cợt, những câu vô thưởng vô phạt để phân tán tâm trí người bệnh khỏi công việc anh đang làm.
“Chẳng còn ai nữa đâu,” nàng nói, thầm nghĩ tới người đàn ông tóc ánh bạc đã cúi xuống nhìn vào cửa xe nàng. “Một con mèo làm em giật mình, rồi em bị lạc tay lái. Nhưng tấm kính chắn gió- au!” nàng kêu lên khi anh rịt thuốc sát trùng lên vết thương. “Au, David, đau quá.”
“Không đau lâu đâu em”, anh nói, đoạn đặt tay lên vai nàng một lúc. Sau đó anh quỳ xuống bên bồn tắm và nắm lấy bàn chân nàng trong tay.
Nàng ngắm anh gắp những mảnh thủy tinh ra. Anh làm thật cẩn thận và bình tĩnh, hoàn toàn đắm chìm trong những suy nghĩ của riêng mình. Nàng biết anh sẽ chữa chạy cho bất cứ một bệnh nhân nào khác với những cử chỉ y như vậy.
“Anh tốt với em quá!”, nàng thì thầm, hòng mong có thể nối lại khoảng cách giữa hai người, khoảng cách chính nàng đã tạo ra.
Anh lắc đầu và tạm ngưng việc đang làm, ngẩng đầu lên.
“Tốt với em,” anh chậm chạp nhắc lại. “Sao em lại về đấy hả Norah, về ngôi nhà cũ của chúng mình ấy? Sao em lại không muốn rời bỏ nó?”
“Bởi vì đó là thứ cuối cùng”, nàng đáp ngay, thấy ngạc nhiên trước giọng nói chắc chắn và đầy đau buồn của mình. “Cách cuối cùng để chúng ta rời bỏ con bé.”.
Trong chớp ánh mắt trước khi anh nhìn lảng đi, nét căng thẳng, giận dữ thoáng vụt qua trên khuôn mặt David rồi nhanh chóng bị kìm lại.
“Có điều gì em nói mà anh không làm không? Anh nghĩ căn nhà mới này sẽ khiến cả hai ta hạnh phúc. Nó sẽ giúp hầu hết mọi người hạnh phúc, Norah ạ!”.
Nghe giọng anh nói, trong Norah tràn ngập nỗi sợ hãi, nàng có thể đánh mất luôn cả anh nữa. Bàn chân nàng giần giật, và đầu nàng nữa, nàng nhắm mắt lại thật nhanh trước ý nghĩ về khung cảnh mà nàng vừa gây ra. Nàng không muốn mắc kẹt vĩnh viễn trong cái đêm câm lặng tăm tối này, khi David dường như ở một nơi rất xa mà nàng không tài nào với tới được.
“Thôi được rồi,” nàng nói. “Mai em sẽ gọi cho đại lý nhà đất. Chúng ta nên đồng ý bán thôi!”.
Cuốn phim quá khứ giờ đã khép lại sau những lời nàng vừa nói, một hàng rào mong manh và yếu ớt như băng tuyết đã thành hình. Nó sẽ ngày càng dày lên và vững chắc hơn. Rồi nó sẽ trở thành bất khả xâm phạm, và mờ đặc. Norah cảm thấy điều ấy đang xảy ra và nàng e sợ nó, nhưng điều khiến nàng sợ hãi hơn lúc này là điều gì sẽ xảy ra nếu nó đổ vỡ. Phải, họ sẽ tiếp tục sống. Đây sẽ là món quà của nàng, cho David và cho Paul.
 
David lấy một chiếc khăn bông quấn bàn chân nàng lại và ngồi tựa  trên hai gót chân.
“Em ạ, anh không nghĩ chúng ta nên quay lại đó”, anh nói, giọng anh đã dịu hơn sau khi nàng tỏ ra biết lỗi. “Nhưng chúng ta có thể. Nếu em thực sự muốn như vậy, chúng ta có thể bán căn nhà này đi và quay lại đó.”.
“Không”, nàng nói, “Chúng ta đang sống ở đây kia mà”.
“Nhưng em cứ buồn rầu như thế,” anh nói. “Đừng buồn! Anh không quên đâu, Norah à. Không quên ngày kỷ niệm của chúng ta. Không quên con gái của chúng ta, không quên một chút gì hết.”
“Ôi, David”, nàng nói, “Em để quên quà của anh trong xe rồi.”. Nàng nghĩ đến chiếc máy ảnh, nhớ chính xác từng cái nút và cần gạt của nó. Người giữ ký ức, trên chiếc hộp đựng ghi mấy dòng này, bằng những chữ in nghiêng màu trắng; nàng bỗng nhận ra đó là lý do khiến nàng mua nó - để anh có thể lưu giữ lại mọi khoảnh khắc, để anh không bao giờ quên.
“Không sao đâu,” anh nói, rồi đứng dậy. “Em đợi nhé. Ngồi đây đợi anh!”.
Anh chạy xuống tầng dưới. Nàng ngồi trên thành bồn tắm một lúc lâu, rồi đứng dậy và tập tễnh lê qua hành lang để tới phòng Paul. Tấm thảm xanh sẫm dày dặn trải dưới chân nàng. Nàng đã vẽ những đám mây lên bức tường màu xanh lơ và treo một giàn sao trên chiếc nôi. Paul ngủ yên dưới những ngôi sao lơ lửng, tấm chăn bị đạp ra, còn đôi bàn chân nhỏ xíu thõng xuống. Nàng dịu dàng hôn thằng bé và gài lại chân cho nói, rồi đưa tay lên vuốt mái tóc mềm mại, chạm nhẹ ngón trỏ vào lòng bàn tay của nó. Giờ thằng bé đã lớn lắm rồi, đã đi được và đang bập bẹ tập nói. Những buổi tối hôm nào dường như đã trôi xa hàng năm trời, những lúc Paul được chăm chút bế ẵm từng tí một còn David đem hoa thủy tiên vào bày khắp nhà: “Những ngày ấy đâu rồi?”. Nàng nhớ đến chiếc máy ảnh, và nhớ lúc nàng lang thang trong căn nhà vắng lạnh của họ, quyết tâm ghi lại từng chi tiết nhỏ như một cách chống lại thời gian.
“Norah?” David bước vào phòng và đứng sau lưng nàng. “Em nhắm mắt lại đi.”.
Một dải dây mát lạnh sáng lấp lánh trên da nàng. Nàng nhìn xuống và nhìn thấy một viên ngọc lục bảo, một viên đá dài sẫm màu, tiệp với sợi dây vàng nổi bật trên nền da. Cho hợp với chiếc nhẫn nàng đeo, anh nói. Cho hợp với màu mắt nàng.
“Đẹp quá”, nàng thì thầm và sờ tay lên chất vàng âm ấm. “Ôi, David.”.
Rồi anh đặt tay lên vai nàng, và trong chớp mắt nàng lại đứng giữa tiếng nước vỗ nơi cối xay bột, hạnh phúc bao trùm lấy nàng như bóng đêm. Đừng thở, nàng tự nhủ. Đừng cử động. Nhưng chẳng thể nào ngăn được vạn vật. Ngoài trời, mưa rơi nhè nhẹ, và hạt giống cựa mình dưới lớp đất đen ẩm ướt. Paul thởi dài và trở mình trong giấc ngủ. Sớm mai nó sẽ thức dậy, lớn lên và thay đổi. Họ sẽ sống cuộc sống của mình ngày này qua ngày khác, mỗi ngày lại đưa họ đi thêm một bước rời xa dần đứa con gái đã mất.