PHẦN I
THÀNH PHỐ CHẾT MEGACON
Chương 12

22

IMG_0023
Chúng tôi xuống xe trên con đường dẫn vào San Critóbal Verapaz, cách thành phố một dặm. Trời mới vừa sẩm tối. Đã có thể nghe thấy tiếng một dàn mộc cầm chơi nhạc corridos (Một thể loại nhạc có nguồn gốc từ Mexico), ganh đua với tiếng loa oang oang phát bản thu âm cũ bài Thời gian trong chiếc chai của Ricardo Arjona. Chiếc xe quay đầu và đi mất. Chúng tôi tách thành hai nhóm để tránh sự gây chú ý: tôi, Marena, Không Đời Nào, Lisuarte và Ana Vergana ở một nhóm, những người còn lại ở nhóm thứ hai. Chúng tôi khởi hành.
Tôi có nhiều kỷ niệm buồn ở nơi này. Bệnh viện kia là nơi tôi đã nằm khi được biết về vụ thảm sát ở làng T'ozal. Nhưng ở đây đang diễn ra một lễ hội nhỏ tôn vinh thánh San Anselmo, và chúng tôi định sẽ lợi dụng đám đông để cuốc bộ qua thành phố. Như tôi đã nói, bốn nhân viên ES sẽ đợi sẵn ở đó, và khi chúng tôi đi bộ qua, họ sẽ quan sát xem có ai bám theo, dõi theo, hay làm bất cứ điều gì khác với chúng tôi hay không.
Bộ dạng của chúng tôi khiến tôi hơi lo lắng. Lisuarte đội cái mũ to kềnh, nhếch nhác, nhìn cũng ổn. Marena ra dáng một sinh viên thế hệ mới, cô ta ăn mặc xuyềnh xoàng đi, với những chuỗi hạt màu ngọc lam rẻ tiền quấn quanh cổ, một chiếc ba lô hiệu North Face tã nát, dán khẩu hiệu TÂY TẠNG TỰ DO. Nhưng Grgur thì chẳng ăn nhập gì cả. Nhìn hắn như một tay buôn ma túy người Thổ vậy. Thôi, sao cũng được. Chúng tôi đi qua mấy con chó thả rông, rồi đến lợn, rồi đến những người da đỏ đi thành từng nhóm hai hoặc bốn người. Ai cũng nói xin chào. Quanh đây người ta luôn để ý đến những người lạ, nhưng cũng chào đón thân thiện. Thường là vậy. Tôi gặp vài gương mặt mà tôi cho là có quen biết, vì thế, tôi ngả mũ xuống. Nhưng ai mà nhận ra tôi được với cái đầu trọc này. Có lẽ mẹ ruột tôi thì may ra. Chết tiệt! Tôi thấy lo lo cho Không Đời Nào, nhưng chắc cậu ta có cách riêng để không bị phát hiện. Dù sao, cậu ta không về đây đã mười lăm năm nay rồi. Một lão già gầy nhẳng nhăn ra cười với chúng tôi, khoe cái miệng đầy răng bạc, một bộ mặt tiêu biểu cho ngành nha ở Trung Mỹ. Muỗi nhiều kinh khủng. Lũ trẻ xúm lại quanh chúng tôi mời mua pháo hoa.
- Chú ý, đội A, tiến lên thận trọng, - tiếng Ana vọng qua tai nghe. Tôi nhận thấy tất cả đều hơi căng thẳng, cố bước sao cho thật kín đáo. Ánh đèn pha ô tô chạy từ dưới thung lũng chiếu lên thẳng vào chúng tôi, chúng tôi đi dẹp vào vệ đường và gật đầu với bốn tên lính mặc đồng phục xanh lam ngồi trong chiếc xe jeep mui kín. Chúng vượt qua chúng tôi mà chẳng tỏ thái độ gì là nhìn thấy. May quá. Đúng như tôi đoán. Nhưng tôi vẫn khó lòng nhìn chúng mà không tưởng tượng ra cảnh những cái đầu ấy nổ tung qua ống ngắm trên đầu súng. Bình tĩnh nào. Chúng chỉ là lũ lính mới thôi, hồi ấy chúng có ở đây đâu. Hít thở sâu nào.
Tonto, - tôi lại nghĩ. Quái quỷ thật. Tôi viết thế nghĩa là sao nhỉ? Tonto làm cái gì? Điều gì đó rất tệ, chắc thế. Hay có khi tôi ốm yếu và mê sảng thôi. Có lẽ tôi chỉ muốn viết là “Rosabelle, tin tưởng”... nhưng  cuối cùng vẫn có chữ “Tonto làm”. Có phải Tonto chính là tôi? Nhưng từ năm lên mười tôi đã không bị gọi bằng cái tên ấy nữa, và mặc dù hồi ấy nó là cái tên ghẹo phổ biến, nó vẫn không có vẻ giống biệt hiệu dành cho tôi. Hay ý tôi muốn nói: “Đánh bại với Người Da Trắng, Tonto làm”? Trong tiếng Tây Ban Nha, tonto còn có nghĩa lóng là “đồ ngu”. Đồ ngu làm gì? Làm gì? Làm gì? Làm gì?
Con đường rẽ vào một đường phố lớn chạy từ đông sang tây. Những chuỗi đèn màu đỏ và trắng dành cho dịp Giáng sinh nhỏ xíu, lờ mờ, dăng ngang khắp phố cùng với các dây hoa hoa cắt bằng giấy màu, nhưng chiếc đèn lớn treo ở ngã tư đường thì lại tắt ngấm. Và vì ở đây, người ta vốn tự hào về những thứ đèn đóm ấy, nên tôi nghĩ nguyên nhân do lệnh tắt đèn vẫn chính thức có hiệu lực. Cứ làm như nước Anh sắp sửa oanh tạc cái đất nước không đủ giàu để dùng khăn giấy này không bằng. Cứ quan trọng hóa lên. Hai bên đường là những căn nhà hoặc cửa hàng xây bằng gạch xỉ nằm sát vách nhau, mỗi nhà một màu: xanh ngọc, hồng đào, vàng chanh, xanh trứng sáo, với các dị bản logo của Orange Crush, Jupina Gaseosa de Pina và Cerveza Gallo (Các nhãn hiệu nước giải khát) được sơn bằng tay. Căn nhà cuối cùng trên phố là một cửa hàng kem, nhưng trước đây nó từng là oficina del comisariato của hãng United Fruit, tức là một loại cửa hàng bán lẻ sản phẩm của hãng ấy. Nhìn thấy nó, tôi bỗng nổi giận đùng đùng. Mate el Pulpo (Đập chết cái con bạch tuộc ấy đi – tiếng Tây Ban Nha).
Nhà cửa trong thành phố rất lạ đời. Nếu anh nghĩ chúng không thể chật chội và lộn xộn hơn được, thì mỗi lần quay lại, anh sẽ thấy chúng càng chật chội, càng lộn xộn hơn. Mà đây chưa phải là quê tôi đâu. Hồi tôi còn nhỏ, được đến đây chẳng khác gì từ Far Rockaway lên thăm Manhattan. Ôi chao. Bệnh viện Sacred Heart chỉ còn cách chỗ này có hai dãy phố về phía nam, nếu có thể gọi chúng là dãy phố. Đứng ngay đây tôi cũng nhìn thấy nó. Tôi chăm chăm nhìn một căn nhà hai tầng phía bên kia đường. Những vệt nước mọc rêu xanh trên bức tường sơn hồng dưới mái hiên nhô ra nhìn rất quen mắt. Tôi nhận ra đó là nơi những tên lính bắt tôi đứng khi chúng xếp chúng tôi thành hàng...
Ôi, những hồi tưởng.
Sáng hôm đó, G2 – tức là, hay đúng hơn là lực lượng “chống khủng bố” của quân đội Guatemala – đã ập đến để tổ chức cái mà họ gọi là “celebración” (Lễ kỷ niệm – tiếng Tây Ban Nha). Họ đến trên những chiếc xe tải lớn, cũ kỹ của quân đội Mỹ, đem theo những cái loa phóng thanh to tướng để tập hợp toàn bộ dân chúng, kể cả tôi, trong chiếc áo chùng trắng của bệnh viện, và tất cả những đứa trẻ đang nằm viện khác, miễn sao chúng còn đi lại được. Họ bắt tất cả xếp hàng theo độ cao thấp tương đối – đến bây giờ tôi vẫn chẳng hiểu vì sao – và đứng dưới trời nắng trong lúc ngài chỉ huy đọc một bài diễn văn dài lê thê hai tiếng đồng hồ về việc hội làng T'ozal và hai làng nữa đã lừa dối chúng tôi, và rằng tất cả bọn chúng đều là cộng sản bí mật ăn lương của Castro. Ngài ấy bảo cho chúng tôi hay chúng tôi may mắn đến mức nào vì được sống trong một nền kinh tế thương mại tự do, với mọi thứ chúng tôi hằng ao ước nếu chúng tôi không lười biếng, rằng đất nước này sẽ thay da đổi thịt, không như dưới thời García, rằng chính quyền đương nhiệm đã luôn giữ lời hứa đối xử công bằng với người da đỏ, rằng những tên tù mà họ vừa bắt giữ sẽ được xét xử một cách thỏa đáng trong một phiên tòa minh bạch. Bài hát “Guatemala hạnh phúc” (Quốc ca Guatemala) được phát đi phát lại trên loa phóng thanh. Chính xác là sáu mươi tám lần. Cứ sau vài lượt phát, họ lại bắt tất cả chúng tôi đọc lời tuyên thệ trung thành nhái theo lời tuyên thệ của Mỹ, sau đó lại phát bài hát, que tus aras no profane jamás el verdugo (Chúc cho bệ thánh của người đời đời không bị quân thù giày xéo – lời bài hát Guatemala hạnh phúc), vân vân và vân vân, rồi lại đến một bài diễn thuyết nữa. Cuối cùng, họ đọc cho chúng tôi nghe danh sách những người phải chuyển đến nơi tái định cư. Danh sách đó có tên tất cả dân làng tôi. T'ozal là một trong bốn ngôi làng bị thiêu trụi trong tuần đó vì tội chứa chấp “người Cuba”, đó là từ mà họ gọi cho tất cả những kẻ nào dù chỉ bị nghi là đồng tình với quân nổi dậy. Họ phát bài quốc ca, các bài phát biểu được ghi âm sẵn, lại bài quốc ca, và cả đống ấy cứ được phát đi phát lại hết lần này đến lần khác, cho đến khi chính quân lính của ngài chỉ huy cũng phát chán đến mức quay ra gây gổ đánh nhau và đánh những người khác. Khoảng ba ngàn người da đỏ và lai da đỏ trên quảng trường cứ đứng yên, chẳng mấy ai tìm cách trốn chạy, không phải vì không còn sức kháng cự, mà vì có thể bị bắn bỏ nếu chạy. Xơ Elena – tôi tưởng như vẫn đang nhìn thấy khuôn mặt của xơ ấy, rõ từng đường nét, đến từng lỗ chân lông li ti và vệt lông tơ sẫm màu hơn lờ mờ phía trên môi – và một vài xơ khác đưa lũ trẻ con chúng tôi về bệnh viện. Tôi hiểu chuyện gì xảy ra hôm ấy, một chút thôi, và tôi hoảng loạn vì sợ hãi. Chuyện gì đã xảy ra với cha mẹ tôi?
Không như những đứa trẻ khác trong làng, tôi không phải chứng kiến cảnh ngôi nhà bốc cháy, tôi không thấy cảnh mẹ và các chị em gái bị cưỡng hiếp, cha tôi bị thẩm vấn và hành hình. Tôi không có ở nhà. Tôi thậm chí còn không hình dung được cảnh ấy rất lâu sau khi nó xảy ra. Hồi đó tôi không bao giờ tưởng tượng được mẹ tôi lại sợ hãi điều gì. Còn bây giờ, tôi có trong đầu hình ảnh bà với cặp mắt hoảng loạn, tóc bê bết máu và một can xăng màu đỏ trước mặt. Và tôi biết nó có thật. Todo por mi culpa.
- Más despacio, vos, (Ta đi nhanh quá, cậu ạ) – Không Đời Nào thì thầm vào tai tôi. - Đi chậm lại một chút đi. - Cậu ta không muốn bước chân của chúng tôi tỏ ra có mục đích quá.
Chúng tôi chậm rãi tiến vào quảng trường. Phải có đến năm trăm người tụ tập ngoài này để tham gia đám rước. Một bầy trẻ con nhộn nhạo mặc đồng phục lính thủy của trường dòng, tất cả đều Mỹ hóa với những cái tai nghe Bluetooth đồ chơi và cặp tóc Hello Kitty, chạy túa xung quanh một toán cầu thủ bóng đá khoác áo thi đấu màu xanh da trời đang nghêng ngang đi lại, thằng nào thằng nấy nhìn búng ra sữa và mất dạy. Chúng tôi đi ngang qua một dãy hàng rong bán roscos  và  bunuelos (Bánh rán tròn và bánh rán vòng). Tôi mua ba gói bánh hạt điều, một cho Marena và hai cho tôi. Bốn tên lính đang chơi đô-mi-nô quanh một chiếc bàn xếp dưới mái che bằng vải nhựa. Chúng chỉ liếc mắt lên nhìn chúng tôi. Nom chúng non nớt và vụng về với mấy khẩu súng trường cũ mèm gác chụm vào nhau. Tiếng quân cờ kêu lách cách khiến tôi chợt nhớ lại cảnh hồi xưa, cha tôi và các chú các bác tôi ngối quanh một chiếc bàn nhỏ, xóc xóc những mẩu răng bí ẩn được tô vẽ lốm đốm trong lúc tôi đang dần ngủ gật. Chúng tôi đi qua mấy người nước ngoài đang đứng do dự bên ngoài, một nhóm thì tôi đoán là khách du lịch người Đức, còn một nhóm ba người khác thì tôi đoán chắc là các giáo sĩ truyền giảng kinh Phúc âm. Tôi không nhận ra nhân viên quan sát nào của ES, nhưng dĩ nhiên người ta không thể...
Oái. Xin lỗi. Hai tu sĩ truyền giáo Mormon bỗng từ đâu hiện ra, suýt nữa thì đâm sầm vào chúng tôi. Tôi e là họ nhận ra Lisuarte, nhưng hình như không phải. Dù sao, chắc gì họ đã đến từ Belize Stake. Có cả một đội quân huevo như thế này đạp xe khắp vùng Mỹ La tinh, lôi kéo những con chiên dễ dao động ra khỏi bầy đàn của họ để tiêm nhiễm đầu óc họ. Ai đó...
Ấy, xin lỗi, Huevo. Có lẽ tôi nên giải thích một chút về cách dùng từ này. Huevo là quả trứng, hay là hòn dái, theo lối ẩn dụ. Ở Petén, chúng tôi gọi họ là Mormon  huevo vì họ trắng bợt như những quả trứng, và luôn đi thành đôi, như một cặp hòn dái. Dĩ nhiên, các bạn sẽ thấy cách châm chọc này hài hước hơn sau khi uống cà phê liền tù tì mười bốn tiếng.
Ai đó tắt tiếng nhạc “Top 40” đi và ban nhạc nhỏ bắt đầu chơi bài “Ôi đấng cứu thế”. Chúng tôi  theo ánh mắt nhìn chăm chú của đám đông đi sang con phố chạy theo hướng bắc – nam dẫn lên đồi. Mười ba cofradore, tức là các bô lão, những ông già mặc áo sọc lòe loẹt, đội mũ to tướng, đang đi ra từ một trong các điện thờ nằm cao chót vót ở hướng bắc. Chín người rước những cây thánh giá lớn kết lá xanh, bốn người còn lại khiên một bức tượng thánh Anselmo cũ kỹ nắn bằng bột ngô ngự trên kiệu. Tượng thánh đội một chiếc mũ tế của giám mục, cặp mắt sầu thảm và bộ râu chẽ đôi màu xanh lá cây.
Tôi nhích từng bước một. Tôi nhìn Không Đời Nào đang đi phía trước. Cậu ta quay lại nhìn tôi. Chúng tôi xem đám rước thêm nửa phút nữa rồi Không Đời Nào lặng lẽ chuồn khỏi đám đông, đi về hướng tây. Tôi bám theo. Marena, Lisuarte và Ana cũng theo chân tôi. Ở dãy phố dân cư thứ ba mà chúng tôi đi qua, có một nhóm phụ nữ Quiché – Quiché là một tộc người thiểu số nói tiếng Mayan sinh sống ở vùng này – đi ngang qua trước mặt chúng tôi. Họ mang theo nến, hoa giấy và mấy bao Marlboro chưa xé, vì vậy tôi đoán ra ngay họ đang đến chỗ ai. Tôi chưa nhìn thấy ông ta trong thành phố này bao giờ, nhưng ông ta chỉ ở quanh đây thôi. Có nên không nhỉ? Tôi hỏi Marena xem cô ta còn điếu xì gà Cohiba Pyramide nào không. Cô ta đáp còn mười lăm điếu và moi cái hộp trong ba lô ra. Tôi lấy sáu điếu.
- Chờ tôi một giây thôi, tôi sẽ quay lại ngay. - Tôi quành lại để đuổi theo bốn người phụ nữ kia.
- Pen-pen, anh làm gì thế? - Ana gọi tôi qua tai nghe. - Quay lại đi.
- Tôi phải làm việc này đã, - tôi thì thào
- Không được, - cô ta đáp. - Anh phải quay lại.
- Chờ tôi một phút thôi, tôi đáp. Tôi nghĩ cô ta sắp chạy đến nơi và chặn trước mặt tôi, nhưng Không Đời Nào làm như tình cờ chắn ngang giữa cô ta và tôi, đến khi cô ta vòng qua được thì chúng tôi đã đứng trước lối vào không có cửa của một ngôi nhà xây bằng gạch xỉ. Bốn người phụ nữ đang quỳ bên trong, thêm những cây nến của họ vào số hàng trăm cây nến đã thắp sẵn trên nền nhà. Vị pháp sư đang ngồi trước cửa, bên một chiếc bàn gấp. Nhìn ông ta rất quen, nhưng tôi không biết tên ông ta và ông ta cũng hoàn toàn không nhận ra tôi. Tôi cúi cái đầu trọc xuống chào ông ta. Ông ta nhìn nó hơi ngờ vực, nhưng cũng gật đầu ý nói “vào đi”.
Tôi quay lại nhìn Marena:
- Chắc cô thấy cảnh này ngớ ngẩn.
- Ồ, không đâu, - cô ta đáp ngay, không ngần ngừ.
Những người phụ nữ đã lễ xong và rời đi. Tôi nhón chân len qua những chùm hoa, những chiếc bình và nến thắp dưới sàn nhà bê tông. Marena đi sau. Có một chiếc chậu nhỏ bằng nhựa đựng nước thánh, tôi bất giác nhúng tay vào, làm dấu thánh và tự dưng thấy ngượng vì sau từng ấy năm vẫn không bỏ được thói quen máy móc ấy. Marena liếc xuống chậu nước, và trong một giây đáng sợ, tôi cứ ngỡ cô ta sắp sửa nhổ bã kẹo cao su vào đấy.
Maximón ngồi hút thuốc và nhìn đời (ông thánh này vẫn được tạc với tư thế như vậy) trong một căn điện phía cuối phòng, cạnh cái quan tài tượng trưng trống không. Ông ta đeo kính râm, đội mũ nỉ rộng vành màu đen, áo khoác đen, sơ mi đỏ, quanh cổ và vai quấn hàng tá khăn quàng và cà vạt được tín đồ dâng cúng. Ông ta to lớn hơn bình thường. Đa phần tượng thánh Maximón được đắp bằng đất, nhưng vị pháp sư ở đền này đã dùng một con ma-nơ-canh cũ để làm thần tượng, bàn tay nắm đầu cây gậy bạc vẫn còn là tay đàn bà, với những cái móng sơn đỏ tươi dị hợm, hay màu da cam thì đúng hơn. Khuôn mặt ông ta nom như một cái mâm đặt trên lòng, trên có một chiếc bát đựng những đồng quetzale sứt sẹo, mấy chai nước cam và aguadiente (Rượu mùi – tiếng Tây Ban Nha).
Tôi quỳ xuống và chạm tay xuống đất.
- Lạy thánh Maximón cao quý.
Tôi đứng đậy và nói tiếp bằng tiếng Tây Ban Nha, đại ý là:
- Con biết ơn ngài từng giờ từng phút. Con cảm tạ thánh Anselmo, vị thánh của ngày hôm nay và pháp sư của San Cristóbal vì đã đưa ngài đến đây ngày hôm nay. Con xin dâng cúng lễ vật này để chiều lòng ngài.
Tôi lại quỳ xuống và đặt mấy điếu xì gà xuống một tấm khăn đựng đồ cúng. Chúng được bảo quản khá tốt trong điều kiện độ ẩm cao như thế này, mặc dù ở đây đầy hương khói nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi thơm dễ chịu tỏa khắp phòng. Maximón vẫn mỉm cười đờ đẫn như thường lệ và hình như gật đầu.
Tôi đứng dậy.
- Con xin đa tạ ngài. Hỡi chư vị thánh thần. Những vị thánh lớn và những vị thánh nhỏ, vị cai quản trái đất và coi sóc bàn chân, bàn tay chúng con. Xin hãy phù hộ cho grandessa của con. Ngài đếm cùng con và những hạt đỏ và hạt đen, Ngài đếm cùng con những viên đá và sọ. Đông, tây, nam và bắc, ngài coi giữ ở các ngã tư đường. Ngài cho chúng con bóng đêm và ngài cho chúng con sức mạnh. Những linh hồn chết đã dạy chúng con cách thờ phụng ngài, đến lượt chúng con sẽ dạy cho những đứa trẻ mới ra đời và chưa ra đời. Chúng con xin đa tạ ngài. Xin cho con quay lưng lại. Xin từ biệt ngài. Don Maximón.
Tôi quay lưng lại và đi ra ngoài, gật đầu chào vị pháp sư và bỏ năm trăm quetzale – bằng khoảng sáu mươi nhăm đô la Mỹ – vào cái hộp đặt cạnh bàn ông ta “để huơng khói”, rồi đi. Chúng tôi quay ra phố lớn. Ana lườm tôi một cái bực dọc. Ừm, thà thế còn hơn phải nuối tiếc, - tôi nghĩ.
- Ông ta... à... có phải một vị thánh Thiên chúa giáo không? - Marena hỏi.
- À, ông ta là vị thánh không được nhắc đến trong kinh thánh, - tôi đáp. - Ông ta không hẳn là thánh của người Thiên chúa giáo ngoan đạo, mà là thánh của người Thiên chúa giáo hơi kém ngoan đạo một chút.
- Ra thế.
- Nhưng ông ta là vị thánh khá cổ xưa. Tôi đoán thế.
Chúng tôi đi bộ theo hướng tây ra khỏi thành phố, với ánh trăng tối mờ dẫn đường phía trước, rồi xuống thung lũng, nơi có nhiều con đường mòn đan nhau chằng chịt dưới chân núi Cuchumatanes. Tại nơi cách thành phố đúng một dặm, con đường rẽ xuống phía nam, dọc theo bờ sông. Tôi nghe thấy tiếng ồn của nó vọng đến từ khoảng cách ngoài tầm mắt, ngửi thấy mùi bùn và lau sậy mới cắt, rồi đến mùi mốc và mùi gừng tươi, cuối cùng là một mùi gì đó chìm dưới tất cả các mùi kia, nhẹ như một thoáng long diên hương tỏa lên từ chỗ cặn trong lọ nước hoa Guerlain Samsara cũ mà có kẻ đã nhặt từ một thùng rác ngoài chợ trời trong một buổi chiều nóng nực, chỉ bởi vì nó giống với lọ nước hoa mẹ anh ta từng để trên bàn trang điểm ở đầu giường ngày bà còn trẻ: mùi của quê nhà.

23

IMG_0032
Hàng mi dài của Sylvana khẽ rung rung chạm vào vai tôi giống như những lúc cô ấy nằm mơ. Nhưng không phải là Sylvana mà là một thứ gì đó khác. Quỷ bắt nó đi? Con gì đó! Con gì đó còn sống! Nào, tóm lấy nó. Khỉ thật, nó bám vào mu bàn tay tôi, chạy ngược lên cẳng tay. Rũ nó đi, rũ nó đi! Tôi đờ cả người vì nỗi khiếp sợ bản năng. Một con thằn lằn nhỏ màu nâu rơi độp xuống từ cổ tay tôi và chạy thoăn thoắt qua tấm ni-lông trải dưới đất. Ghê quá! Về già tôi lại ra đâm thành thị hóa. Không quen với những con vật sống và những nơi bẩn thỉu nữa. Tôi lấy điện thoại ra xem giờ: 3 giờ 4 phút chiều. Chết cha. Muộn rồi.
Tôi đang ở cái chỗ chết toi nào thế này nhỉ? Ánh sáng thì lờ mờ một màu tím than quái gở. Tôi nheo mắt nhìn lên trần. Nó cao, hình vòm có đòn chìa.
Ồ, phải rồi phế tích Ix. Michael nói đây là một trong những cung điện còn sót lại.
Tôi lột cái túi ngủ phải gió ra khỏi người và ngồi dậy. Hình như mọi người đều đã ra ngoài. Căn phòng này là một audiencia- phòng khách- lớn kiểu  cổ Maya, rộng 50 feet, sâu 9 feet, đỉnh trần cao hai mươi feet, với  một ô cửa duy nhất, khá cao, nằm chính giữa bức tường dài ở hướng tây. Cánh cửa được phủ một lớp vải dầu màu xanh tím than. Vào thời cổ Maya đã từng có một bức bích họa lớn trên bức tường cuối phòng mà ngày nay vẫn còn sót lại vài phần.
Người ta chỉ có thể thấy lờ mờ một hình người nhỏ bên phía tay trái đang leo lên những bậc cầu thang, thấy loáng thoáng một căn điện bên tay phải với những hình trang trí xoắn ốc tạo hình nữ thần Cóc Đất  nhô ra. Nhưng gần đây, nhất là trong mấy thập kỷ gần đây, nước đã thấm vào và rửa trôi lớp vữa ở đó. Tuy vậy, căn phòng vẫn khá khô ráo với thời tiết mùa này. Đội tiền trạm của Ana đã xúc hết phân dơi đổ đi nhưng tôi vẫn ngửi thấy cái mùi ẩm lại. Họ cũng chuyển sẵn phần lớn thiết bị vào đây. Một phần ba diện tích phía bắc phòng chất đầy ống khoan dầu, ống truyền dẻo, các hộp đựng mũi khoan, bốn động cơ Honda 90 mã lực, sáu chiếc đòn bẩy Volvo và hai chiếc hòm lớn màu vàng trong đựng hai con rô bốt đào hầm và lấy mẫu mà công ty dịch vụ dầu khí Schlumberger đã đặc cách cho chúng tôi mượn, môt trong hai con đã được lắp cả đèn và máy quay phim. Nơi này chả khác gì một cửa hàng tiêu thụ đồ ăn trộm,có điều là ở thời kỳ tiền Columbia. ở gần chỗ ngủ hơn có hai chiếc máy tạo khí gas không gây tiếng ồn, một lô máy ổn áp, một dây cáp to tướng chạy  theo hướng bắc ra phía cửa đến Gò A, hai chiếc tủ lạnh phòng thí nghiệm cỡ vừa, một hộp chân không, một máy đóng gói chân không., mấy cuộn lá nhôm để đựng các mẫu phóng xạ cácbon, một hộp găng tay, một ống dẫn khí nén còn nguyên đai nguyên kiện, hai máy bơm nước, một máy ép (tất cả đều có thể mua tại cửa hàng bán thiết bị an toàn phòng thí nghiệm), hai chiếc hộp đựng cưa đá và lưỡi cưa dự phòng(cũng là của công ty Schlumberger) và các dụng cụ khảo cổ khác như thuổng, xẻng, máy dán nhãn, đèn ác quy, các cuộn xốp hơi, hộp đựng đèn mỏ, đèn thăm dò, đi-ốt phát quang, chổi, bút lông và sàng –nhìn chung  đủ cho cả một khóa sinh viên và thực tập sinh đào bới trong mười năm liền chứ không phải cho một cuộc nghiên cứu có tính chất lý thuyết. Có đến một nửa trong số này sẽ không bao  giờ được sờ đến – tôi nghĩ. Hừ, lần sau, đừng…
Khoan đã.
TONTODID.(Tonto làm)
Hừm, cũng có thể là DON TOD IT…
Hoặc là… DON’T DO IT.(đừng làm thế)
Tôi đã cố cảnh báo mình.
Trời ơi.
Đừng quay về quá khứ. Đừng tin đám người này. Đừng nhúng tay vào trò điên rồ này. Đừng làm thế.
Hừm.
Tôi nằm đó và ngẫm nghĩ, mắt liếc nhìn cái bóng màu xanh dài, chính là tấm vải dầu căng ngang cánh cửa duy nhất của căn phòng cổ. Răng tôi hơi lập cập một tí. Sao lại “đừng làm thế”? sao tôi không viết rõ thêm một tí chứ? Vì đó là một việc làm ghê tởm trước chúa chăng? Vì nó không hay ho gì chăng? Vì nếu nán lại viết kỹ thêm một tí, tôi sẽ bỏ qua tập cuối Gossip Girl chăng?
Chậm hiểu đến thế là cùng – tôi tự rủa. Mất đến bốn ngày tiềm thức mới giải đoán được một câu ghép chữ đơn giản đến như vậy. Đáng ra có thể dùng điện thoại mà giải ra trong bốn phút sáu giây.
Và đêm nay tôi lại sắp có hẹn với một người chết.
Bây giờ thì mày làm thế nào đây? Rút lui? Trốn vào bụi rậm với Không Đời Nào và chạy về Honduras? Giả vờ suy sụp thần kinh? Hay đơn giản là nói “không”?
Chả trách Tony Sic chả buồn rầu mấy tí khi biết tôi sẽ đi thay hắn. Lúc đó, tôi thực sự cảm thấy hơi ngại, còn hắn thì dửng dưng như không và không hề lúng túng. Có lẽ hắn đã nghĩ lại. Jed, mày là thằng ngu, thằng ngu…
Thôi đừng đi, chả ích gì đâu.
Phù. Được rồi.
Tôi gãi mắt cá chân và nhìn thấy một chiếc tất màu đen bị kéo ra khỏi túi, lăn qua đầu và rơi xuống tấm nệm của tôi đêm qua. Bên trong chiếc tất có năm gói nhỏ buộc túm lại với nhau bằng dây chun. Tôi dùng răng nanh xé gói cà phê và dốc cả đám bột ấy lên lưỡi. Kinh quá! Không sao. Tôi rửa trôi nó xuống họng bằng hai viên kẹo dẻo. Tôi xé gói thuốc tổng hợp sát khuẩn lao, khuẩn Salmonella, SARS và HIV, lau khắp mặt và mọi bộ phận cơ thể mà tôi với tới được mà không sái tay. Sau đó tôi mở cái gói đề “Không cần chải” bằng chữ to màu xanh nhợt. Tôi dùng nó để lau ba mươi mốt cái răng trong miệng và lật mặt kia của tờ giấy nhám để xát cho sạch lưỡi. gói thứ tư đựng một miếng gạc dài sáu inch, rộng bốn inch tẩm sữa tắm làm ẩm da, giúp trung hòa tác dụng làm khô da của thuốc sát trùng. Tôi xé nốt miếng gạc chống bọ chét ra khỏi bao và quấn nó quang ðầu gối phải. ðộng vật chân ðốt và bệnh máu khó ðông chung sống với nhau không ðýợc hòa bình lắm. Tôi vo tất cả đống vỏ bao thành một cục tròn, nhét vào túi áo, nhét tai nghe vào lỗ tai trái và bò ra ngoài qua cánh trái của tấm vải dầu.
- Làm một chén trà không? - Michael hỏi,phúc tổ là không phải qua micro. Lão ta, Lisuarte và gã Commado ngồi trên một tấm vải trải dưới đất như đang đi pinic. Tôi không nhìn thấy Không Đời Nào nhưng cậu ấy cũng báo trước là sẽ đi thám thính xung quanh. Tôi đáp cảm ơn, tôi uống rồi. Nhưng câu hỏi của Michael giống như một lời mời nên tôi ngồi xệp xuống cạnh họ. Chúng tôi đang ngồi dưới bóng râm của tòa nhà dài, trước đây từng là phía tây của một khu nhà xây quây thành hình tứ giác rộng tám mươi yard; theo lời Michael, nó có thể là một phần lâu đài của thị tộc Mèo Rừng Ix. Các tòa nhà kia bị cây bụi che phủ, nom không khác gì những gò đống nhỏ, tòa nhà mà chúng tôi đóng đại bản doanh cũng sẽ như thế nếu người của ES không dọn quang lối vào. Khu sân trong nom có vẻ như được dùng làm bãi trồng ngô cách đây vài năm. Còn bây giờ, tầm ma và dương xỉ mọc kín mít. Toàn bộ công trình này nằm lưng chừng một triền núi trước đây được đẽo thành hình bậc thang, cách con sông một phần tư dặm, và cách kim tự tháp lớn nhất của quần thể - tức công trình mà Sylvanus Morley (Nhà khảo cổ học người Mỹ) vĩ đại đặt tên là Gò A, và ngày nay, với sự tiến bộ trong ngành nghiên cứu chữ khắc cổ, chúng ta biết nó là mul (có nghĩa là ngọn đồi, suy rộng ra là “kim tự tháp” hay “núi lửa”(chú thích của tác giả)) của dòng họ Mèo Rừng- chừng một trăm dặm về phía nam. Nhưng với cả rừng lá lẩu um tùm như thế này, anh chẳng thể nhìn thấy cả dòng sông lẫn mul, thậm chí chẳng thấy giời đâu nữa, chỉ thấy những mảnh xanh xanh rời rạc.
Cạnh Michael có một chiếc hòm bằng da rái cá to tướng, để mở, đựng đầy các gói thạch, mật ong, hộp nước quả, bim bim ngô, kẹo thanh và nhiều thứ đồ ăn khác. Tôi nhặt lấy một gói đồ ăn sẵn hiệu Land O’ Lakes và một hộp giấy tráng kim loại cỡ gần nửa lít ghi chữ Undine, tôi đoán nó là một loại đồ uống tăng lực thể thao giàu positron kiểu mới nhất. Tay trái tôi vướng phải cái túi đựng thuốc và vitamin đủ loại, nhưng tôi vẫn xoay xở để bóc được miếng dán trên nắp hộp. có tiếng xì xì phát ra khi mẩu CO2 đẩy bật cái nút chèn và lập tức làm mát chất lỏng. Tôi đổ vốc thuốc vào miệng, chiêu nước và phát hiện ra tay trái bị dính chặt vào lớp băng bám ngoài vỏ hộp, tôi gỡ tay ra, cầm lại cái hộp và nuốt trôi nắm thuốc với hai phần ba hộp nước, chả biết là nước nặng, nước nhẹ hay cái nước chết tiệt gì. Bàn tay Michael chìa cho tôi cái gì đó. Một thanh granola (loại thức ăn trộn từ lúa mạch, mật ong và hạt dẻ). Tôi xé giấy bọc và cắn rôm rốp. Trên giấy bọc viết:
Bổ dưỡng! Chúng tôi đem nó đến cho bạn. với lượng đạm giàu gấp rưỡi loại granola thông thường. Không cần bận tâm năng lượng đến từ đâu, chỉ cần bận tâm ta sẽ dùng nó vào việc gì. Chúng tôi, Bear NakedTM Granola, tin rằng sức mạnh thật sự nằm ở tinh thần coi nơi kết thúc là điểm xuất phát mới. hãy đặt mục tiêu cao hơn một chút. Không quan trọng đích đến cách bao xa, miễn là bạn luôn hướng đến nó. Và chính granola sẽ đưa bạn đến đích.
Hay đấy, tôi nghĩ. Uống nốt một phần ba chỗ nước còn lại trong hộp, bóp bẹp cái vỏ, vứt vào cùng đống túi và vỏ bao, rồi ném cái nút chèn vào túi đựng rác riêng.
- Au, - tiếng Marena vang lên đâu đó, - mẹ kiếp.
Tôi thận trọng ngó ra milpa. Ana và Marena đang đánh nhau giữa bãi. Không họ đang tập hup kwon do (môn võ phát triển từ taekwondo) hay gì đó. Ana đang dạy cho Marena một miếng đá thấp rất hiểm. Không khác gì chương trình “Những đoạn phim bạo lực nhất nước Mỹ”- tôi nhận xét thầm.
- Bột ngô không? Michael hỏi.
Xin lỗi – tôi nghĩ.
- Xin lỗi? – tôi hỏi.
Lão ta chỉ vào một gói Arco mở sẵn. tôi nhòm vào. Eo ơi, sau có vài thập kỷ mà đồ ăn của Corn Maiden chán hẳn đi như thế này sao.
- Sao lại phải ăn cái này?- tôi thắc mắc.
- À, thỉnh thoảng tôi vẫn mời những người không quen đi bộ ăn món này. Họ thường phát cáu nếu phải ăn thịt hộp.
- Ồ, phải. nhưng không cảm ơn.
- Anh chỉ ăn cái món bơ ấy thôi à? - gã Commando hỏi tôi.
- Hở? - tôi nhìn xuống cái vỏ bánh. – à … ờ thì…
- Anh chỉ ăn bơ không thôi à?
- Ờ… có những thói quen khó bỏ lắm, - tôi đáp.
- Này, - hắn nói, - tôi cá là anh đoán được trong túi tôi còn bao nhiêu điếu thuốc lá đấy. Hắn vỗ vỗ vào bên ngực trái.
- Không tôi đoán làm sao được. Tôi có phải máy chiếu từ xa đâu.
- Chúng tôi vẫn còn hai gói bánh mì dẹt đậu xanh đấy. –Michael nói.
Tôi từ chối và hỏi xem latrina (nhà xí) được đặt ở đâu. Hắn chỉ về phía bắc cánh đồng. Tôi đứng dậy và đi ra đấy.
- Nhớ xóa dấu vết nhé, - Ana nhắc nhở qua tai nghe. Tôi gật đầu tỏ ý cảm ơn. Đồ không ra con chẳng ra thằng. Tôi cóc cần biết cô đã loại bỏ bao nhiêu kẻ đối địch cho Bill Carsey. Tôi mò mẫm tiến lên phía trước, hơi trượt chân một tí. Tôi đoán là Ana từng là một trong rất nhiều những nhân vật nữ từng phục vụ trong binh chủng lính thủy đánh bộ và muốn tham gia chiến đấu, và khi không được chính phủ Mỹ cho phép, họ rời quân ngũ và làm thuê cho các chính phủ khác dễ tính hơn hoặc cho tư nhân. Dù sao chắc chắn hai bên vai cô ta thường đeo quân hàm khá to. Mẹ nó chứ. Tôi không rút được tờ giấy chùi ra khỏi bao. Giá cứ ở yên trong túi ngủ có hơn không…
Tai tôi run lên bần bật.
- Khởi động hệ thống, - tôi ra lệnh.
Hệ thống được mở.
- Kozo đây, -Michael nói- có tin tốt, về xem nhé.
Tôi uể oải lết về, chui vào audiencia. Hitch và gã Commando đứng ngay sát cửa, loay hoay chắp nối các thiết bị âm thanh. Michael và Lisuarte ở phía cuối gian, cúi lom khom cạnh một màn hình máy tính.
- Chúng tôi nhận được tin báo từ văn phòng chính, - Michael thông báo. Tôi ngồi xuống. - Anh biết gì về các dấu hiệu chạm khắc trong gian điện của ahau không?
- Có, - tôi đáp. Tôi thuộc lòng chúng, mà tôi biết lão biết thừa chuyện ấy.
- Ừ, phải. Vậy thì, lễ tái đăng quang, nghi lễ đổi thủ phủ k’atau ấy, được tổ chức vào một buổi sáng sớm của năm trị vì thứ hai mươi, phải không? Năm 664?
- Chính xác, tôi đáp. Khi ấy, chúng tôi sẽ tiến hành chuyển tín hiệu trong vòng hai mươi phút trước lúc mặt trời mọc, khi Chim Ruồi Có Nanh 9 ngồi trong gian điện, chờ đợi đến giây phút xuất hiện trước dân chúng tập trung trên quảng trường.
- Anh nhớ San Martín không?
- Có. - Tôi đáp.
- Max chào mọi người đấy, - tiếng Marena nói. Tôi không nhìn thấy cô ta bước vào. Chúng tôi cùng đáp “xin chào”. Cô ta nhắn thêm vài tin nữa, tắt máy và bỏ vào túi.
- Xin lỗi đã chen ngang, - Marena nói, - thế San Martín là cái gì thế?
- Một ngọn núi lửa trên bờ biển thuộc Veracruz (một bang của Mexico), - Michael đáp, - có một vụ phun trào xảy ra vào đúng khoảng ngày mà chúng ta quay về.
- Ồ, phải. Đúng rồi.
- Tôi đang nói với Jed rằng phương pháp dựa vào tuổi thọ của cây không giúp xác định được chính xác ngày đó. nhưng nhóm Connecticut Yankee vừa phát hiện được một thứ hết xảy. Nhòm cái này đi – Micheal quay màn hình về phía tôi, nó hiển thị dòng đầu tiên của bản scan từ một tài liệu gì đó về nghi lễ:

1
Tôi nhấn chuột vào chữ BẢN GỐC
kalendis aprilius[,] postridie quinque panum
multiplicationem [,] anno consecrationis
praesulis nostril wilfredi[,] anno domini
DCLXIV[,] indictione V…
Hừ, được rồi. Muốn là gì thì là. Tôi nhấn vào chữ DỊCH SANG TIẾNG ANH
[Biên niên sử về Thánh Columcille (Tu viện đảo Iona, Scottish Herbrides)]
Vào ngày đầu tiên của tháng tư, tức ngày kỳ diệu của năm ổ bánh (Theo kinh phúc âm, chúa Jesus đã ban phép lạ cho năm ổ bánh mì để phân phát cho 5000 người ăn no), vào năm đức giám mục Wilfred của chúng ta nhận sắc phong, tức năm Thiên chúa 664, vào dịp triệu tập định kỳ thứ năm, đơn thỉnh nguyện đã được trình lên Lãnh chúa Oswiu (Xứ Northumbria): Chúng tôi thỉnh cầu ngài gia hạn việc nộp hoa lợi thêm sáu mươi ngày(,) bởi Thiên chúa đã giáng trần, cảnh báo cho các con chiên của Người về tai họa của Trái đất và Phiên tòa Phân xử đang sắp đến gần (.) bằng chứng là (:) Thứ nhất (.) cách hôm nay bảy buổi sáng vào ngày Chúa nhật thứ ba sau Thứ tư lễ tro tức ngày 24 tháng 3 năm 664 Công nguyên), các tu sĩ mới nhập đạo kết thúc hành lễ vào giờ Thánh Martin (khoảng 7 giờ 15 phút sáng) đã phát hoảng vì một tiếng nổ lớn như tiếng sấm bão mùa hè (,) dù vòm trời vẫn xanh trong. Thứ hai: ngày hôm sau, trước nửa ngày (tức buổi trưa), mục sư Paulus (của đảo Iona) và một vài làng nhỏ khác trên bờ biển trong đất liền, (đi cùng với một vài) thầy tu hành khất (ý chỉ những người tị nạn), đã cuốc bộ một chặng dài đến thư viện của chúng tôi xin bố thí trong sự hoảng loạn và đau đớn (,) những tiếng rền rĩ duy nhất lặp đi lặp lại trong miệng họ là họ nghĩ họ bị đức Chúa của chúng ta bỏ rơi(,) vì trước giờ thánh Martin (khoảng 5 giờ sáng), một cơn sóng khủng khiếp như mình con thủy quái đã tràn xuống khắp bờ biển phía tây(,) tiếp đến là hai (đợt sóng) tương tự, rồi đến vô số (đợt sóng) khác ngày một dữ dội hơn(,) đến mức cầu cảng của cả hai thành phố cùng toàn bộ cầu đánh cá và tàu buôn cũng bị phá hủy(,) bốn thị dân tự do và mười chín đứa trẻ (ám chỉ nô lệ) bi chết chìm(,) vô số người đang và đã chết đói, và sự thương xót của Chúa dành cho họ…
- Chẳng phải cực kỳ sao? – Michael hỏi. - Như thế có nghĩa là chúng ta có thể xác định được thời điểm của vụ phun trào chính xác đến từng giờ.
- Ừ…, - tôi đáp.
- Tuyệt đấy, - Ana nói giọng không mấy tin tưởng. Cô ta cũng đã lại gần và đang đọc ghé qua vai tôi. Bên ngoài tấm vải dầu che cửa màu xanh, trời đang tối dần.
Có tiếng sấm ầm ì, khe khẽ.
- Phải mất bao lâu để những đợt sóng ấy vượt qua đại dương? – Marena hỏi.
- Ờ… Ireland cách Veracus khoảng … ờ … năm ngàn dặm, sóng biển di chuyển với tốc độ khoảng bốn trăm dặm một giờ, - tôi đáp, - phải không? Vậy nếu…
- Họ đã tính ra rồi, - Michael nói, - Đợt phun trào lớn nhất xảy ra vào … chờ tí. Nó xảy ra vào khoảng bốn giờ ba mươi phút sáng ngày 22 tháng 3. Giờ địa phương.
- Ra trò đấy, - tôi nhân xét.
- Phải, tuyệt quá, - Marena nói.
- Hơn nữa, - Michael nói tiếp, - Taro nói các cụ xưa không đoán được sự kiện này trước khi nó xảy ra. Các vị biết đấy, cờ Hiến tế không tác dụng mấy với hiện tượng thiên nhiên.
- Trừ khi người đếm mặt trời hiểu rõ các hiện tượng thiên nhiên, - tôi nói.
- Phải.
- Họ có nói họ chắc chắn là những người ở Ix cũng cảm nhận được trận động đất? – tôi hỏi
- Họ nói đó là trận động đất tám phẩy năm độ rich- te, - Michael đáp, - ở tận Panama cũng cảm nhận được ấy chứ.
- Phải.
- Hơn nữa, các vị biết đấy, hiện tượng nhật thực xảy ra sau đó chỉ vài tuần.
- Phải.
Ý lão ta muốn nói đến hiện tượng nhật thực xảy ra tại khu vực ấy vào ngày mà bây giờ chúng ta gọi là ngày mùng 1 tháng 5 năm 664 Công nguyên. Hiện tượng này cũng có thể quan sát thấy ở cả Châu âu, thậm chí là ở cả Bede. Dĩ nhiên, cũng có thể những người đếm mặt trời Maya có biết trước hiện tượng này. Thực ra, họ có thể tính toán được nó trong vòng một giờ. Nhưng ngày nay, chúng ta chỉ mất một giây nên tôi cũng có lợi thế hơn một chút.
- Dù sao, đó cũng là hai dự báo mà anh có thể dựa vào, - Michael nói.
- Rất xuất sắc, -tôi đáp.
Micheal đặt một màn hình máy tính lớn hơn xuống sàn, giữa chúng tôi.
- Anh sẵn sàng xem thành quả của chúng tôi rồi chứ? – lão ta hỏi với giọng làm như mình lọ mọ dậy sớm và làm việc trong khi những người khác ngủ khì. Tôi gật đầu. – Đây là tấm bản đồ dưới bề mặt của khu vực này, bản mới nhất đấy.
Trên màn hình xuất hiện hình ảnh ba chiều của thành phố Ix được tái hiện lại. Người ta thậm chí có thể nhìn thấy các lớp đất, đá và nước bên dưới các tòa nhà được viền màu xanh. Marena và Ana ngồi xuống. Không Đời Nào đứng xem.
- Ưu điểm của phần mềm này là anh có thể chọn xem các thành phần nhất định với tỷ trọng nhất định, - Michael nói, - như thế này chẳng hạn, nó sẽ cho anh xem chủ yếu là những gì làm từ đá.
Lão ta chọn và xóa tất cả những gì có tỷ trọng dưới 2,6g/ cm3 tức là dưới tỷ trọng của đá vôi. Hình ảnh còn lại nom giống một miếng bọt biển lỗ chỗ, bề mặt bị cắt bằng, bên trên rải rác các lâu đài và đền thờ đổ nát, bao quanh là đất đá và mảnh vụn. Tôi vốn đã nghĩ Michael hẳn cũng có tí gì đó khá khẩm hơn một tay làm chương trình truyền hình bình thường, nhưng lần này, tôi thật sự thấy ấn tượng.
- Rồi. Còn đây là hiện trạng của hệ thống hang hốc. Chúng tôi đã tái hiện lại bằng cách vẽ lại bản đồ của toàn không gian mở dưới lòng đất như một thể thống nhất. Lão ta xóa tất cả những thứ có tỷ trọng lớn hơn 1,25kg/m3 hoặc có nhiệt độ trên sáu mươi độ. Tất cả những gì còn lại là một cấu trúc bán trong suốt màu tía nom như một phiến đá cảnh bị đục lỗ chỗ. Lão ta cho nó quay chậm rãi.
- Tất cả được xử lý chỉ trong hai tiếng đồng hồ vừa rồi sao? – tôi hỏi.
- Vâng, thưa sếp, - lão ta đáp, - Nó đẹp đấy chứ, nhỉ?
Tôi đáp phải. Nó khá đẹp nhưng theo một lối ngớ ngẩn. Vào những năm chín mươi, tức là thời sóng ra đa nhìn xuyên mặt đất mới được phát minh, người ta phải vác theo mình chiếc chảo to bằng khoảng cái lốp xe đi khắp nơi, nhưng thời nay chỉ cần một chiếc ăng-ten nhỏ đặt trên đỉnh Gò A, thế là đủ để chúng tôi thấy được toàn cảnh dưới mặt đất trong vòng bán kính gần hai dặm, dù chỉ dưới dạng thô cứng như hình ảnh trong mắt loài dơi. Nó tạo ra loại sóng định vị giống như vòng tròn tạo ra khi dùng gậy khoắng xuống nước.
- Có vẻ như vào b’ak’tun thứ mười, các hang động rộng hơn bây giờ, - Michael nói. – Rất nhiều trong số đó mới sập gần đây thôi. Xét theo địa chất học thì chỉ trong vài trăm năm trở lại đây. Bây giờ, chúng ta sẽ đi xa hơn về phía tây, dưới dãy núi. Thấy gì không? Đó là một chuỗi hang động bên dưới. Hình như những cái hang thấp hơn vẫn đang hoạt động, nghĩa là chúng vẫn ẩm ướt và đang hình thành.
- Thực ra là tôi vừa vào xem qua mấy cái hang ấy, - tôi nói.
- Ồ, hay đấy, - lão ta nói. – chúng ta xem xét tỉ mỉ hơn nhé. Lão ta chiếu gần vào và di chuyển một thanh công cụ trên màn hình có dòng chữ “máy quét đường hầm âm học”. nó quét chậm lại và chiếu sâu vào trong lớp đá. Ta kiểm tra thử thành phần can-xi xem sao.
Lão ta đánh vào mấy chữa vào MÔ – ĐUN PHÂN TÍCH XƯƠNG. Phần mềm bắt đầu phân tích hình ảnh dựa trên sự khác nhau giữa lượng can-xi trung bình trong đá vôi (thành phần chủ yếu là can-xi các-bon-nát, can-xi chiếm khoảng 40%) và hydroxylapatite (can-xi chiếm khoảng 33%). Trong xương có khoảng 70% hydroxylapatite,còn trong men răng thì chiếm tới 97%. Mô- đun loại dần các chất được xác định là đá vôi, hình ảnh mờ dần đi và cuối cùng chỉ còn lại đám gì đó nhìn như những bọc trứng ếch, trồi lên rải rác khắp các hang động, và tạo thành từng mảng lớn ở những chỗ gần mặt đất hơn.
- Đa phần những thứ này là xác động vật, - Michael giải thích,- Nhưng một vài trong số đó chắc chắn đã được chôn cất. Đặc biệt là dưới các gò lớn hoặc những hang đá chạy qua dưới các khu tàn tích đổ nát. Và có ba kẻ vô danh này đây… nhìn này. – Lão ta tô đậm ba hình thù có hình dạng gần như vuông vắn nằm dưới gò A, chếch về phía tây. – Chúng rất giàu chất xương. Và từ kích thước nhìn nghiêng mà chúng tôi thấy được dưới độ sâu này, cái này không phải động vật. Nhìn nó có vẻ như gồm bốn mươi cá thể khác nhau. Thực tế, cứ theo số liệu mà suy đoán, thì nó giống như một hầm mộ của người La Mã.
- Ái dà, - tôi nói.
- Vì vậy, tôi nghĩ cầu thang bên trong có thể được dùng để dẫn xuống những nơi này. Chúng là một phần của hang động mà họ đã đào rộng thêm ra, và rồi, đến một lúc nào đó, sau thời điểm những bộ xương kia được đưa vào, chúng bị sập. Dĩ nhiên, chúng ta có thể đoán được niên đại khá chính xác mà không cần đào bới.
- Phải.
- Nhưng điểm quan trọng nhất mà tôi muốn nói ở đây là: tôi gần như chắc chắn chúng là hầm mộ hoàng gia. Vì thế, chúng tôi hy vọng anh có thể xuống dưới một trong ba chỗ đó. Ý tôi là nên thế, anh biết đấy. Đó là nơi chúng ta có thể tìm… anh biết đấy…
- Cái xác của tôi, - tôi tiếp lời.
- Chí phải