PHẦN II
ĐẢO LỘN
Chương 19

36

IMG_0175
- Hóa ra cậu thu mình chờ đợi à? - tôi nghĩ trong đầu với Chacal. - Cậu chờ đến lúc người ta không để mắt đến là nhảy tưng lên và giết cả hai chúng ta à? Thật không ra đâu vào đâu cả.
Chacal không trả lời. Nhưng tôi chắc chắn anh ta đang ở đó. Tôi có thể cảm thấy anh ta đang sưng sỉa ngồi thu lu trong một nếp gấp nào đó trên vỏ não, thu mình lại, bó gối lại, cuộn tròn lại…
- Tôi biết cậu nghe thấy tôi mà, - tôi nghĩ. Cậu đã thưởng thức cảnh tôi sợ phát cuồng lên khi bị tóm trong cuộc săn. Thật vui vẻ, nhỉ? Cảm nhận sự sợ hãi của tôi. Cậu thật đáng khinh. Nhưng nếu muốn tự sát, sao cậu không chiếm lấy quyền kiểm soát bộ óc này trong cuộc săn?
Lặng thinh.
- Cậu đã có thể đập đầu chúng ta vào đá. Nhưng cậu không làm vậy. Cậu muốn bị bắt, phải không? Phải thế không? Cậu muốn tự sát, nhưng không muốn bị một thằng Mèo Rừng nào đó sỉ nhục. Phải không?
Nín thinh.
Hừm. Được thôi, nếu mày muốn hờn thì mặc xác mày.
Lần này thì tôi đang ở đâu đây?
Ờ… trước hết, lần này tôi thực sự bị đánh bả. Hình như là một loại thuốc mê đơn thuần, chiết xuất từ cây bìm bìm hoặc một vài giống cây nào đó cùng họ. Vì vậy tôi không biết gì nhiều lắm để nhớ lại. Tôi biết mình đã bị khiêng đi hồi lâu, đầu tiên là ở tư thế nằm ngang, sau đó là đựng đứng. Còn bây giờ, tôi được đặt nằm trên manh chiếu trong một cái túp sậy, ngửi mùi thì biết là mới cất, hay nói theo cách của người Maya chúng tôi là “mới bó”. Tôi vẫn còn miếng giẻ trong miệng và thứ gì đó dinh dính trên mắt. Hai tay tôi bị trói đằng trước bụng - so với bị trói quặt ra đằng sau thì đây coi như là một sự hưởng thụ - và hai bàn chân hình như cũng bị trói lại với nhau, mặc dù dưới đó tê và nhói đến mức khó có thể nói chắc được. Bộ gạc hươu cùng các bộ phận khác của bộ trang phục hóa trang, theo như tôi thấy, đã biến mất. Có tiếng ào ào đâu đó, chắc là gió thổi qua cành cây trụi lá, và cảm giác có nước chảy. Cả chim nữa, vì tôi khá chắc chắn là trời vừa mới rạng thôi.
Phải chắc chắn là mình đang kiểm soát cơ thể này, - tôi nghĩ. Tôi ngó ngoáy cựa mình một tẹo. Rồi, tôi nghĩ tôi đang kiểm soát tốt, ít ra là lúc này. Khi ý thức của Chacal chỉ huy thì cảm giác…
Hừm… cảm giác thế nào nhỉ? Câu hỏi khó đấy. Về mặt bằng chung, tôi đoán rằng nó giống như… tôi cũng không biết nữa. Nó giống như vị muối. Nó giống như tiếng đàn vi-ô-la. Nó giống như một cầu não bốn chiều.
Có gì đó khác thường.
Bước chân của những người khiêng chúng tôi chậm lại và không còn đều đặn nữa, như thể họ sắp đến đích. Không khí rất khác thường.
- Ta biết nơi này, - Chacal bất thình lình lên tiếng. - Trong anh ta có một cảm giác mà tôi chưa từng cảm thấy, không phải giận dữ, không phải hoảng hốt, mà là sự bất an mỗi lúc một tăng thêm. - Giàn cây của bọn ta, nơi có thứ đất sét của thị tộc ta.
Chúng tôi đang ở gần Bolocac, ngôi làng của Chacal. Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh một hẻm núi rậm rạp cây cối, tiếng ào ào lúc trước tôi nghe thấy chuyển thành tiếng rãnh nước chảy róc rách, và xa hơn nữa là tiếng ồn đều đều của một con thác.
- Này… cậu có vẻ hơi lo lắng, - tôi bảo với Chacal.
Anh ta không thèm trả lời, nói thẳng ra là vậy.
- Cậu biết đấy, - tôi nghĩ, - tôi chắc chúng ta có thể tìm ra cách chia nhau thời gian chiếm giữ cơ thể này. Cậu xem thế này được không, cậu giữ nó khi chúng ta ăn hoặc ngủ với đàn bà, thời gian còn lại tôi sẽ…
Không khí. Tôi nhận ra mình không thở nữa. Tôi hít một hơi. Không được. Ối giời ơi. Tôi tìm lại được liên lạc với cơ thể mình và hít vào. Lấp đầy vào đi. Nào…
Được rồi. Tôi khịt thông mũi. Không khí ùa ào mang theo mùi đất sét ngọt dịu và nhiều mùi khác từ xa thoảng đến: mùi ngô bị hun nóng, mùi gì đó giống chất crê-ô-zốt và mùi thum thủm của mỡ cháy ôi thiu. Có mùi bạch đậu khấu ở đâu đó, hay đúng hơn là mùi gần như mùi bạch đậu khấu. Hoa phong lan chăng?
- Đó là ta ngửi thấy, - Chacal nghĩ, - là ta.
Ặc. Tôi lại ngạt thở. Nào. Hãy giành lấy quyền kiểm soát. Hãy giành lấy hệ thần kinh. Tôi cảm tưởng như chúng tôi là hai đứa trẻ mẫu giáo to con bằng nhau ngồi trên bập bênh, đứa nào cũng muốn ghì bên mình xuống đất. Chỉ cần một cái ngã nhẹ ra sau hay chuyển trọng tâm một chút thôi cũng đủ làm thay đổi tình thế, quyết định ai ở lại dưới đất và ai bị nhấc bổng lên cao. Cả hai đều vô cùng nhạy cảm trước sức nặng và vị trí của đối thủ, đến mức như hai đứa trẻ sinh đôi dính liền nhau.
Grrrr. Hít vào đi. Nào.
Dù thiên hạ có nói gì đi chăng nữa thì sự thực vẫn là anh không thể tự tử bằng cách nuốt lưỡi mình. Cùng lắm anh chỉ có thể cắn vào đầu lưỡi hoặc môi để máu phun ra và hy vọng trong lúc xỉu đi, anh sẽ mất đủ máu để chết. Nhưng ngay cả cách ấy cũng không đảm bảo. Thực tế, tại Iraq năm 2004, một viên trung úy hải quân đã thử chết theo cách này, ngay sau Salat-al-Isha (Giờ cầu kinh đêm của người Hồi giáo, kết thúc khi trời rạng sáng), nhưng đến sáng hôm sau, quân phiến loạn vẫn tìm thấy và cứu sống được anh ta. Dù sao, cho đến lúc này, miếng giẻ trong miệng tôi/chúng tôi đã ngăn không cho Chacal làm việc đó. Nhưng đã có - hoặc sẽ có - những vụ nạn nhân bị bắt cóc bị nhét giẻ và chết ngạt vì mớ giẻ đó, và đó là điều anh ta đang cố làm.
Tôi nuốt một hớp không khí. Tao sẽ không để mày làm chúng ta chết ngạt đâu. Tôi tìm được liên lạc với hai lá phổi và lên gân, xiết chặt chân tay như nghiến răng. Tao cũng mạnh mẽ như mày và tao đang làm chủ…
Sang phía đông, hơi thở của chúng ta bị chặn lại,
Sang phía nam, nó ngừng lại,
Hơi thở của chúng ta đã chết,
Nó ngừng, nó chết, nó ngừng…
Hơi thở của ta, - tôi nghĩ. Nhưng chẳng có hơi thở nào hết. Tôi gồng mình và lăn lộn nhưng chẳng có gì vào hết. Anh ta đang điều khiển hai lá phổi. Ối, quỷ thần ơi, tôi chỉ đang khò khè, khục khặc, hai tai tôi ù lên như cái đĩa hát bị nấc ở đúng đoạn chuyển bài của một đĩa nhạc rock. Tim thì như đang chạy lên thang gác. Mười ba nhịp cầu thang. Lưỡi tôi phồng lên thành một tảng tướng, to phải bằng quả bóng tennis. Tôi tái xanh đi…
Nó ngừng rồi, nó dừng lại rồi…
Thở ra đi. Thở ra. Ôi trời ơi. Không hay rồi. Những người suýt chết đuối kể rằng sẽ đến lúc anh buộc phải thở cho dù biết rằng nước sẽ tràn vào và giết chết anh. Nhưng Chacal lại có thứ sức mạnh tinh thần này, anh ta sẽ làm được điều này, sẽ dìm chết cả hai chúng tôi trong thán khí, và trong một giây, tôi cảm giác như đang chìm xuống đáy biển đang cuộn xoáy với san hô màu đỏ ngọc và những con sên biển Phyllidia varicosa xanh biếc. Cứ để nó đến đi. Cứ để mình chìm xuống tiếp đi…
Ọc. Khặc. Dội thẳng vào.
H…i…í…t. Vào thẳng đến dạ dày.
Oa. Aha! Không khí. Phản ứng vô thức.
Những ngón tay đeo găng cậy hàm tôi mở ra, thọc vào miệng tôi, rút miếng giẻ ra, khác nào tháo cái nút chặn cống. Không khí ào vào và ngực tôi căng phồng lên. Thật ngọt ngào. Oái. Hàm sái cả đi. Có sao? Đội ơn giời. Tao cứ tưởng chúng mày bỏ bê công việc rồi chứ. Lũ đần độn. May vừa đúng lúc. Có người tọng một thanh gì đó vào miệng tôi, chống cho nó mở ra, được được… không, không, không, k…h…ô…ô…n…g…
- Im đi, - tôi nghĩ, - họ muốn tao sống. Mày hiểu không?
Chết đi, ta cùng chết đi,
Có vậy thôi, chúng ta chết, chúng ta chết…
Họ đang dựng tôi lên và ai đó ấn mạnh vào bụng tôi như lối thủ thuật Heimlich (Thủ thuật sơ cứu cho những người bị hóc vật gì đó trong họng), nhưng tôi vẫn ngạt tái người đi. Chacal không thể giết chết tôi chỉ bằng ý chí, phải vậy không? Điều đó đơn giản là không thể được. Họ đang cố giữ cho tôi sống, cho tôi sống, cho tôi sống…
Huỵch. Một quả thụi. Tôi thở được liền. H…í…t… h…à. Mấy bàn tay đeo găng lại dựng tôi ngồi dậy. Tôi đang thở, bằng bộ phận nào đó. Tốt quá. Can thiệp thật đúng lúc.
Hoảng sợ, ngươi hoảng sợ,
Ngươi ô uế, dơ bẩn,
Ngươi hoảng sợ, hoảng sợ.
- Ừ đấy, thì sao nào, - tôi đáp trả. Nhưng, thật ngớ ngẩn… tôi cũng cảm thấy… Ờ… thấy xấu hổ. Dĩ nhiên là tôi sợ, và dĩ nhiên Chacal biết tôi sợ, và anh ta biết là tôi biết anh ta biết. Bực một nỗi là chẳng có mấy sự riêng tư trong cái mối quan hệ phải gió này. Nghĩ đi nghĩ lại, quả thực cảm xúc mạnh mẽ và dai dẳng nhất trong tôi từ trước tới giờ luôn là sự xấu hổ.
- Cậu quá lãnh đạm để biết thế nào là sợ, - tôi bảo anh ta. - Cậu cũng như tất cả mọi người thôi. Cậu tin vào mọi thứ người ta nói với cậu lúc cậu còn…
- Ngươi không phải đến từ b’ak’tun mười ba, - Chacal đáp, - ngươi chỉ bịa ra thôi. Ngươi bịa ra toàn bộ câu chuyện về cuộc đời mình. Nghĩ mà xem, những bức tranh phóng đi trong không khí, xuồng bơi trên mặt trăng, chiếc hộp chỉ to bằng cái lưỡi ngươi mà biết nhiều hơn cả ngươi, trò dối trá thật nực cười.
- Ừ, những chuyện đó nghe có vẻ hơi hoang đường, - tôi nghĩ, - nhưng không, tôi không bịa. Tôi không thể bịa ra những chuyện ấy được. Không ai có thể bịa ra cấu trúc dạng xoắn của ADN, hay Trung Quốc, hay Anna Nicole Smith (diễn viên người Mỹ) được. Chúng đều có thật.
- B’aax? Vậy sao? Bên nào hợp lý hơn: những thứ đó có thật hay ngươi là con ác quỷ lừa bịp?
- Cậu chẳng có tí hiếu kỳ nào cả, - tôi nghĩ, - nếu cậu quan tâm đến bản thân nhiều hơn một chút thì chắc cậu đã tò mò về nơi mà từ đó tôi đến. Cậu buồn chán như tỉnh lẻ vậy.
Tôi vừa nghĩ với Chacal câu ấy vừa thấy mình vô duyên, không khác gì ngồi trong phòng thẩm vấn với một tay sheriff (cảnh sát trưởng) người Texas mà giải thích về sự khác nhau giữa Baroque (Phong cách nghệ thuật khởi nguồn từ Rome đầu thế kỷ 17) và Rococo (Phong cách nghệ thuật thịnh hành ở Pháp thế kỷ 18). Hơn nữa, tôi thấy bực mình. Một trong những điều làm tôi thất vọng là Chacal chẳng hề ấn tượng gì trước những điều mà ký ức của tôi đem lại. Tôi những tưởng ngay giây đầu tiên gặp tôi - nếu có thể nói thế - anh ta sẽ tròn mắt ngạc nhiên mà xuýt xoa như kiểu: “Ôi, thần Jed, ôi”. Nhưng anh ta hoàn toàn chẳng có một chút ấn tượng. Hoàn toàn khinh rẻ, ý tôi là, tôi cũng luôn bực bội, khinh ghét và có những cảm giác đại loại như vậy, nhưng ở Chacal là sự khinh miệt thực sự, không gì lay chuyển nổi và không lẫn bất cứ cảm giác nào khác. Sự khinh miệt giai cấp, chủng tộc và tất cả những sự khác biệt khác. Nếu ngươi không phải một Đại Bàng hay một Mèo Rừng thì ngươi thậm chí thích hợp để ăn, ý tôi là để ăn thịt.
Đúng là một thằng khốn nạn, - tôi tự nhủ. Hiểu nhưng không có nghĩa là có thể tha thứ. Mình những muốn giết chết hắn. Nhưng làm thế sẽ chẳng đi đến đâu cả. Nếu tôi có nện vào đầu mình thì đó cũng là điều Chacal muốn. Phải vậy không?
Mặc khác, anh ta cũng có lý của mình… cứ theo cái cách mà tôi đang giẫy giụa ở đây thì thế kỷ 21 đúng là hơi khó tin. Hãy công bằng. Hừ, ngay cả khi tôi có phịa ra một ít…
Ấy. Khoan. Dừng lại đã. Mày lảm nhảm như một thằng điên ấy.
Lúc này, những bàn tay đeo găng đã nhúng vào dầu cọ và họ đang xoa, đang cạo người chúng tôi…
- Ah cantzuc che - Chacal đang gào lên trong đầu (Ngươi có bệnh trong mắt - nghĩa là ngươi điên rồi) - Ah cantzuc che!!!
- Tôi hiểu cậu đang lúng túng, - tôi nghĩ, - thế giới quan bỗng đảo lộn, việc đó không phải ngày nào cũng xảy ra. Những ngày khác, chắc thế. Nhưng…
- B’ukumil bin cu…
- Chết tiệt, - tôi nghĩ, - cậu là thằng chẳng ai cần đến hết. Sọ Đá Quý 2 không quan tâm đến cậu. Ông ta muốn giữ tôi ở lại.
- Không phải.
- Đúng thế đấy, cậu biết thế mà.
- Ông ta giữ ngươi ở lại chỉ để hành hạ ngươi thôi.
- Không, ông ta giữ tôi lại vì tôi có thể có ích. Cậu là kẻ ngoài cuộc rồi, đồ thất bại.
- Ah cantzuc che, ah cantzuc che…
Oái. Mẹ kiếp. Họ đang khâu ngực tôi. Mặc dù nói là “khâu” thì to tát quá, vì cứ như họ đang dùng kim đan và dây loa vậy. Sau một triệu mũi khâu, họ lại xoa dầu, lật lên lật xuống người tôi hệt như đang thay tã cho trẻ con. Chúng tôi thấy họ quấn cho mình một chiếc khố thêu quanh hông và xâu những sợi chỉ màu sắc rực rỡ qua hai cái dái tai sưng phồng. Họ chải và tết lại mớ tóc cụt lủn của chúng tôi. Chắc họ đang nối dài nó ra. Tôi thấy mình chẳng khác gì con chó Nhật trong cuộc thi hoa khôi chó. Họ đeo những chiếc vòng bằng đá xếp vảy quanh hai cổ tay, dùng dây da buộc một miếng đá trang sức hình lưỡi rìu của người chơi bóng hông quanh lòng bàn tay phải. Chúng tôi được phục sức bộ trang phục đội đầu khá nặng và đeo một sợi xích bằng đá quanh hông, chắc nó được dùng trong dịp lễ hội bóng thôi chứ thế này thì quá nặng để đeo khi chơi thật. Cuối cùng, họ thoa lên người chúng tôi một thứ bột mà ngửi mùi, Chacal biết đó là tro xương trộn chu sa. Đương nhiên có cả mùi vani thoang thoảng nữa. Tôi quả quyết rằng chúng tôi đủ thơm tho và ngon mắt để làm thức ăn, thậm chí cho một vị thần. Thế nhưng, chúng tôi được đưa đến đây không phải để dùng vào việc đó.
Mấy gã hầu trang phục xốc chúng tôi đứng dậy, giúp Chacal lấy thăng bằng - anh ta đã lấy lại kiểm soát cơ thể, nhưng ngay lúc này chưa gây chuyện gì. Họ dẫn chúng tôi đi qua một cánh cửa thấp, bước chín bước ra ngoài ánh sáng. Họ đặt chúng tôi xuống một chiếc chiếu cứng, mặt trơn. Tên cầm đầu - tôi nhận ra hắn không dùng găng tay - lột những dải băng dinh dính hay cái của nợ gì đó ra khỏi mắt tôi và chùi hết những vết dính còn bám lại. Mắt tôi mở được ra.
Chúng tôi đang ở sâu trong một hẻm núi cây cối rậm rạp, mặt quay về hướng đông, cách bờ một con lạch nhỏ chừng hai mươi bước chân. Chúng tôi không nhìn thấy nhưng nghe thấy tiếng thác nước đổ xuống qua nhiều tầng từ đỉnh một vách đá cao chừng một trăm feet - “tuy bây giờ đã là cuối mùa khô” - tôi, hoặc Chacal, nghĩ.
Quanh chiếc chiếu, một vạt cỏ vuông vắn rộng chừng mười lăm sải tay đã được đốt quang và rắc đầy cánh hoa mộc lan dại như muốn giả làm tuyết. Những chiếc giỏ nông nhiều kích cỡ khác nhau được đặt rải rác, chiếc nào chiếc nấy đựng đầy hạt san hô, “lưỡi rìu tiền” bằng đá xanh, xì gà, hạt vani, hạt ca cao và những cuộn vải bông chưa nhuộm; quả là một kho của ra trò đối với một anh chàng như Chacal, người rốt cuộc cũng chỉ là một tay nhà quê kiết xác mới kiếm được chút thành đạt. Năm người đàn ông ngồi ở cạnh phía đông vạt cỏ, Sọ Đá Quý 2 ngồi chính giữa, trên chiếc chiếu dày bện hình da rắn dành cho dịp lễ, đeo mặt nạ và trang phục đội đầu hình con yêu quái đại bang harpy. Ông ta giữ một con diều hâu đuôi đỏ trên cổ tay trái, nó không bị bịt mắt như những con chim được thuần dưỡng ở cựu thế giới (Tức là châu Âu, châu Á và châu Phi) mà bị xích chân vào một chiếc vòng tay bằng gỗ dày. Chỉ có thể thoáng nhìn thấy tí da dưới những chuỗi ngọc bích quấn kín mít, và giữa ngực ông ta đeo một mảnh gương lớn hình bầu dục, tựa như gương Claude (Loại gương hơi lồi, bề mặt nhuộm đen), gắn trên một khối quặng sắt.
Ái chà, nhìn đẹp ra trò.
Hai đại diện của Hội Bóng Hông nhà Đại Bàng ngồi bên phải ông ta. Người thứ nhất là Hun Xoe với khuôn mặt đẹp giai và tươi tỉnh. Nó từng là người chơi chính ở vị trí cuối sân, tức hậu vệ, của Chacal. Rồi đến một k’iik lớn tuổi hơn rất nhiều, nom giống phiên bản thu nhỏ và lôi thôi của Người Đá trong phim Bộ tứ siêu nhân. Một luồng thiện cảm từ Chacal chạy sang tôi, bất chấp, hoặc có thể chính vì, ông ta đã nhiều lần đánh bại Chacal, chỉ cách cái chết có vài inch. Tên và danh hiệu của ông ta thình lình hiện lên trong óc tôi: Sấm Rền 3, người quản lý vòng hông của đội bóng nhà Đại Bàng. Chức danh ấy có nghĩa ông ta là huấn luyện viên. Đó là người chú thứ hai của Chacal và là em họ nuôi của Sọ Đá Quý 2. Ông ta có biệt hiệu là Tinh hoàn 3, đơn giản vì ông ta có nhiều chất đàn ông hơn bất cứ ai. Trước khi trở thành thầy dạy kiêm cha nuôi thứ nhất của Chacal, ông ta từng là một hậu vệ huyền thoại, chưa từng bị đánh bại nhưng đã bị thương nặng trong trận đấu cuối cùng, cách đây mười chín mùa chiến tranh. Trong trận đấu đó, ông ta bị tơi tả chưa từng thấy, nên bây giờ cánh tay trái của ông ta vẫn tê liệt thành một cái vuốt không cử động được nữa. Nhưng nhìn ông ta vẫn như thể nếu anh lại quá gần, ông ta có thể bóp nát cổ anh bằng bàn tay lành lặn và dùng lợi cắn đứt đầu anh. Hai người dân địa phương ngồi bên tay trái Sọ Đá Quý 2. Đầu tiên là một ông già nhà quê trong chiếc mũ ống chóp cao màu xanh nước biển, vị chức sắc đương nhiệm của ngôi làng nhỏ này. Ông ta là một “người ở nhà tròn” - tức là người thuộc tầng lớp phải ở trong những túp lều tròn thay vì những ngôi nhà xây vuông vắn của tầng lớp quý tộc - và ông ta thuộc tầng lớp kém xa trong nhóm người này, nhưng vẫn có vẻ được kính trọng. Chacal dĩ nhiên biết ông ta, nhưng cả tôi (tức là tôi, Jed ấy) cũng cảm thấy khắc khoải nhớ nhà - cảm giác khắc khoải nhất kể từ lúc đến đây - khi nhìn ông ta bởi ông ta gần như giống hệt Diego Xola, một bô lão ở Tozal, ngôi làng nơi tôi lớn lên. Các bô lão qua bao đời vẫn chẳng thay đổi gì mấy. Bên cạnh ông ta-ngồi bệt dưới đất vì không xứng ngồi chiếu-là người sinh ra tôi, tức sinh ra Chacal. Nom ông ta thô kệch, một nông dân trồng ngô, còn trẻ tới mức không ngờ, với hàm răng lởm chởm và cái trán nhăn lại vì thường xuyên phải vác thúng nặng. Chiếc mũ rơm rộng vành của ông ta nhìn như mũ đội khi đi chơi ngoài bãi biển và mốt chẳng kém gì mũ của những năm 1960. Tên của ông ta là Wak Ch’o, tức là Chuột 6, một cái tên điển hình của nông dân ở nhà tròn. Tôi biết mẹ Chacal đã mất, nếu không bà đã được phép có mặt tại đây và đã khiến Chacal có đôi chút ấn tượng gì đó. Nhưng Chacal còn có anh em, và họ cũng không đến. Hừm. Chắc các bạn nghĩ việc gặp lại người cha sẽ khiến những cảm xúc như thương yêu, đau buồn, vân vân, trỗi dậy trong Chacal. Phải không? Không biết có hay không, nhưng tôi không hề cảm thấy. Tất cả những gì tôi cảm thấy qua Chacal ngay lúc này là sự xấu hổ. Hay nó đặc biệt hơn thế một chút, giống như… hừm… Ồ, tôi biết rồi. Nó giống sự hồi hộp của một diễn viên trước khi ra sân khấu.
Từ vị trí này, tôi chỉ thấy thêm hai người nữa. Sên Xanh 3 - tên gù với giọng nói cao the thé phát ra từ cổ họng - đứng một mình ở góc xa bên phải. Lão khoác một chiếc áo choàng lông màu xanh da trời, chụp một thứ trang phục đội đầu hình xoắn ốc khiến đầu to xù ra như một con cá đại dương thân có thể co dãn. Và bên kia suối, cách chừng năm mươi sải tay, một k’iik Đại Bàng cao lớn đang đứng dưới một bụi ổi gai.
Có ba tên hầu trang phục đứng sau chúng tôi (tôi đếm tất cả mọi người theo thói quen), và tôi nghĩ còn ai đó nữa đang ngồi gần bên tay phải chúng tôi, người mà tôi không được phép nhìn. Nếu còn các vệ sĩ hay phu khuân vác ở quanh đây thì họ đã ở ngoài tầm mắt của chúng tôi.
- Te’ex!
Sên Xanh 3 gào lên, gần như thẳng vào tai tôi bằng cái giọng cao chói vói của lão: “Ngươi!”
Chacal giật mình, chú tâm. Anh ta có cái cảm giác như tôi từng được thưởng thức một lần hồi mười lăm tuổi, khi một tay cớm bất thình lình hướng loa vào tôi, quát: “Này, THẰNG KIA! Đứng im! Thằng đội cái mũ rách ấy! Đứng im!”
Te’ex m’a’ ka’te!!
- Ngươi, tên nhãi có bộ da bẩn thỉu kia
Ai là mẹ ngươi? Ai là cha ngươi?
Ngươi không biết? Cái bào thai thối rữa không biết?
Sọ Đá Quý 2 chìa tay về phía chúng tôi và ngửa lòng bàn tay lên. Nó có nghĩa rằng nếu tôi, hay đúng hơn là Chacal - vì bây giờ anh ta đang điều khiển cơ thể này - có gì muốn nói thì nên nói ngay bây giờ.
Tôi hét to:

chap36
-Cal tumen hum pic hun, pic ti ku ti bin oc!
Nghĩa là:
- Bề trên, xin hãy cho con trở lại trong sạch
Hãy ban cho con cái chết!
Chính ra là Chacal hét câu ấy. Hoặc tôi nên nói rằng anh ta bắt chúng tôi hét lên câu ấy. Anh ta không cử động được, dĩ nhiên, không phải vì tiếng nói của tên gù có ma thuật gì, mà vì nếu anh là một Đại Bàng, anh phải tuân theo tiếng nói đó. Nhưng anh ta biết họ sắp làm gì, và anh ta không muốn điều đó. Anh ta muốn họ giết anh ta, giết chúng tôi, giết cơ thể này, cơ thể trước đây thuộc về anh ta. Anh ta không thấy cái chết có vấn đề gì, dĩ nhiên, nhưng anh ta muốn mang tôi và cả cơ thể của anh ta theo.
Sọ Đá Quý 2 xoay lòng bàn tay xuống. Yêu cầu bị từ chối. Sên Xanh 3 nhận ám hiệu và bắt đầu dỗ dành chúng tôi bằng giọng ngân nga hiền lành:
- Ngươi, Chacal 1,
Người chơi bóng hông vĩ đại,
Người làm gãy xương kẻ khác,
Ngươi khỏe mạnh, ngươi dũng mãnh,
Chiến thắng Rắn Chuông 22,
Ở Ix,
Chiến thắng các Mèo Rừng,
Ở sân 20,
Thắng Chúa Tể Mưa Chết 18,
Của các Mèo Rừng,
Sao ngươi lại ngồi ở đây,
Khoác lên mình bộ da xấu xí?
Đây mới là ngươi thật sự.
Cả ba linh hồn của ngươi đều ở đây,
Đây là gốc cây của ngươi,
Đây là bộ da của ngươi,
Đây là uay diều hâu của ngươi,
Tất cả đều chờ đón ngươi,
Tất cả đều ở đây,
Cha ngươi,
Các anh ngươi,
Các em ngươi,
Những người đồng đội của ngươi…
Khi nghe đến từ “gốc cây”, cặp mắt chúng tôi hướng sang bờ suối bên kia, chỗ bụi ổi gai. Trên mỗi thân cây đều treo một vài thứ đồ cúng đã cũ, nhưng riêng một cây được trang hoàng những dải vải mới, những chuỗi vỏ ốc gai màu da cam và những cuộn vàng mã nhỏ đầy máu. Ngay cả khi ký ức của Chacal chưa kịp kéo về, tôi đã đoán ra đó là motz của anh ta, gốc cây của anh ta, tức là đã được trồng, hay chí ít là được chọn, khi Chacal ra đời.
Và Sọ Đá Quý 2 có con diều hâu. Còn bộ da thì sao?
Chacal phá luật, liếc mắt dòm sang bên phải. Cách chúng tôi bốn sải tay, một thằng bé trần truồng quỳ khom mình trên những cánh hoa với tư thế của kẻ cầu xin, miệng nhoẻn nụ cười sung sướng nhưng hơi đờ đẫn, tôi đoán là do tác dụng của các loại ma túy dùng trước lúc hiến sinh. Thằng bé ít tuổi hơn Chacal, mặc dù bộ tóc cho thấy nó đã qua giai đoạn vỡ lòng cuối cùng, nghĩa là chính thức ở cùng tầm tuổi với anh ta. Có lẽ nó có cùng ngày sinh hoặc cùng ngày đặt tên, tuổi tính theo ngày này còn quan trọng hơn tuổi thật. Khuôn mặt nó chỉ hơi giống tôi, tức là giống nét mặt mà tôi nhớ là của Chacal qua những gì đã thấm vào ký ức tôi. Tôi thậm chí hình dung không được rõ lắm vì ở đây gương soi rất hiếm, nước thì được coi là thế giới của người chết nên nhìn chằm chặp vào là rất nguy hiểm, và Chacal cũng chỉ nhìn thấy bóng mình có vài lần. Tuy nhiên, những hình xăm trên mặt thằng bé giống chúng tôi, cũng những chấm nhỏ xíu tạo thành hai đường xoắn ốc chạy từ khóe miệng lên má, và nó cũng có một vết sẹo mới ngay phía trên hông, đúng chỗ Chacal có một vết sẹo lớn do bóng hông đập vào.
Đúng cái mình cần - tôi nghĩ - một bộ óc để cấy ghép mới. Tôi đoán đây là một người thế mạng khác. Người đã chết thay cho tôi trong cuộc săn hươu chỉ là người thế mạng giả. Đây mới là người thế mạng thật. Sao cũng được.
- Đây là khu vườn của ngươi,
Sân trước của ngươi,
Bếp lò của ngươi,
Cái võng của ngươi,
Đây!
Tất cả chúng ta đều không kính trọng ngươi, ruồng bỏ ngươi…
- Ờ… này, Chacal này? - tôi nghĩ, - tôi thấy sự lựa chọn khá rõ ràng. Nào, họ đã đóng gói hết đồ cho cậu rồi đấy. Nghe theo đi, anh bạn.
Anh ta không trả lời, nhưng dường như anh ta phập phồng xúc động, như cái lỗ hổng được bịt tạm trên chiếc máy bay đang giảm dần áp suất. Sên Xanh 3 rập rình tiến lại và quỳ xuống bên tay trái tôi, nom y như một đứa trẻ sơ sinh nặng cả trăm pound. Lão đưa một chiếc bình thuôn thuôn hình ống đựng thứ gì đó kề vào miệng chúng tôi, hoặc vì chúng tôi còn khát khô, hoặc vì Chacal không thể không tuân theo, chúng tôi uống cạn cái bình. ụa. Tôi đã được thưởng thức vài loại cốc-tai khó nuốt ở đây, nhưng cái này mới thực sự tởm lợm. Lúc đầu, nó chỉ nhàn nhạt thôi, như nước luộc thịt có vị sắt gỉ nhẹ, thêm một ít vẩn giống như lá lách bê xay nhỏ, nhưng khi nó trôi qua cổ họng, tôi lại thấy dư vị khe khé, ngầy ngậy. Nó gợi tôi nhớ đến thứ gì đó… ô, phải rồi, tôi nhớ ra rồi. Nó giống thứ nước mà hồi còn đi học, chúng tôi pha để lỡm thằng khác uống, gọi là nước “tua vít”, trộn rượu vốt-ca với dung dịch ma-giê hy-đrô-xít. Và lúc này tôi cảm tưởng như trong dạ dày có một miếng bọt biển khô đang thấm nước và phình to lên bằng quả bóng đá… không… quả bóng rổ… không, quả bóng bãi biển. Tôi nhớ chỗ cặn trong bình có màu xanh tím ngắt. Nước mạch nha lấy từ ngô chăng? Tiếp đó, Sên Xanh 3, một tay cầm một mẩu xương sống cá đuối, tay kia cầm hai chiếc chén nhỏ bằng đất sét, cúi về phía trước. Tôi cảm thấy những ngón tay mỏng mọng của lão véo vào dái tai tôi. Lão xiên mẩu xương vào dái tai tôi và rút ra đánh xoẹt một cái.
Hai tai chảy rất nhiều máu, chưa đầy một phút sau, hai chiếc chén đã đầy. Hai gã hầu trang phục quỳ xuống, mỗi tên cầm lấy một chiếc chén, dùng những miếng giẻ để tô, hay đúng hơn là bôi lem nhem người thằng bé thế mạng bằng máu của tôi. Khi nó đã được bôi đỏ khắp người và máu bắt đầu khô, chuyển sang màu nâu, họ quay sang tôi. Chacal kêu lên không thành tiếng trong đầu tôi: “không, không, không, không”. Mày xong rồi, - tôi nghĩ, - mày thành dĩ vãng rồi, bước đi thôi.
Trong lúc đó, hai gã hầu trang phục vẫn bận rộn với tôi. Họ đắp bột cầm máu lên dái tai tôi, lau chỗ máu dây trên ngực. Họ tháo phiến đá trang sức và sợi xích đá bóng hông, tháo những cái vòng tay mà họ vừa mới đeo vào, cởi bỏ bộ trang phục đội đầu, lột cái khố, tháo những chiếc nhẫn đeo ngón chân, tất tần tật. Khi tôi đã trần trụi, họ đeo tất cả những thứ ấy lên người thằng bé bất hạnh. Nó lảo đảo dưới ngần ấy sức nặng. Họ quay lại và dùng da cá mập tẩy những vết xăm hình xoắn ốc tượng trưng cho gia tộc trên má tôi. Họ giũa sạch những vết chai nổi cục của dân chơi bóng hông trên đầu gối và khuỷu tay tôi. Tôi xin đánh cuộc rằng nếu mắt tôi có màu sắc khác lạ hay có bất kỳ đặc điểm nào nổi bật chứng tỏ tôi là Chacal thì họ cũng sẽ móc nó ra. Đau quá. Bề ngoài tôi đã đổi khác.
Lúc này, Sên Xanh 3 đang nói chuyện với người thế mạng, giả giọng cha mẹ, ông bà, cụ kỵ và cả tổ tiên sáng lập ra họ nhà Chacal, tất cả những người mà anh ta mang họ, tất cả những người được cho là đang trú ngụ đâu đó trong khóm ổi gai hoặc trong dãy núi phía sau. Cứ mỗi lần đóng vai một người, lão ta lại kêu gọi Chacal về với họ.
- Đổi chác thế này có vẻ hợp lý đấy, - tôi nghĩ với Chacal, - nếu là tôi, tôi sẽ biến khỏi cái xác cũ này và chui vào thằng bé kia ngay.
Tôi liếc mắt theo dõi những tên hầu trang phục lột một mảng da khỏi ngực thằng bé thế mạng, giống hệt mảng da họ đã khâu lên ngực tôi. Sên Xanh 3 đưa họ vật gì đó, miệng vẫn không ngừng bài khấn. Đó là mảng da có xăm chữ mà họ đã lột khỏi ngực tôi trong buổi chơi trò săn hươu. Nó đã được thuộc nên dẻo và trong suốt. Tôi hơi bối rối vì tôi tưởng họ đã dùng mảng da ấy cho người thế mạng thứ nhất. Có lẽ họ đã làm giả được một cái để thay thế và đánh tráo. Hoặc có thể miếng da đó không còn được treo lên để trưng bày nữa. Họ đã mang nó về. Sao cũng được. Nói tóm lại, họ bắt đầu khâu nó lên ngực của thằng bé thế mạng, dùng một sợi chỉ bằng ruột súc vật nối vào đầu một chiếc gai dùng làm kim.
- K’aanic teech chaban, - Sên Xanh 3 nói. Đại khái là: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi. Lão đặt một chiếc bát miệng loe rộng xuống chiếu, giữa hai đầu gối tôi và cầm lên một cái que chọc nôn - hay nói cho khoa học một tí là dụng cụ gây nôn - bằng ngọc bích chạm khắc tinh vi. Hay quá đấy, - tôi nghĩ. Xin mời ngài Chacal thật nôn ra nào. Lão kéo hàm dưới của tôi xuống - tôi hơi giật mình hoảng sợ vì nghĩ lão sẽ xé toác nó ra - và dùng tay kia của mình thọc cái que vào họng tôi.
Ặc…
Khoang họng mở, áp suất được giải phóng và tôi phun ra. Ba bãi nôn lỏng màu vàng chua lòm ọc ra qua cổ họng và trút xuống cái bát. Tôi tưởng mình bị lộn trái. Tôi đổ gục xuống chiếu. Mình toi rồi, - tôi nghĩ, - chúng giết cả mình nữa. Tôi liếc qua khóe mắt, thấy thằng bé thế mạng cầm cái bát và tu một hơi. Khi nó uống xong, họ đổ thêm một chén nước b’lache’ vào bát, khuấy đều và bắt nó uống tiếp. Bên kia suối, gã k’iik cao lớn đứng ở bìa rừng giơ một lưỡi rìu lớn đen sì bằng đá stê-a-tít, dọa chặt đổ gốc cây chứng sinh của Chacal.
- Tôi, Chacal dưới chân ngài, đang hạnh phúc trong dòng máu này, - thằng bé cất tiếng nghèn nghẹn ngay khi có thể nói được. Dĩ nhiên, nó đã được gà trước câu ấy, nhưng rõ ràng chính nó cũng rất tin tưởng. Đối với nó, đây là một vinh dự. Nói thế vẫn chưa thỏa đáng. Với nó, đây giống một lễ cưới hoàng gia và nó là công nương Diana Spencer.
Ừ, phải rồi, mày thật may mắn…
Khoan hẵng.
Chacal biến mất rồi.
Sự thực là thế. Tôi chỉ kịp nhận ra, anh ta đã biến mất.
Gã k’iik hạ lưỡi rìu xuống.
Tôi cảm thấy trống rỗng và trì độn, như thể, cùng với những thứ khác, tôi đã nôn ra vài mét ruột và hai phần ba số tế bào thần kinh trong não. Nhưng ít ra bây giờ nó cũng là cảm giác của chính tôi. Một tên hầu trang phục - bây giờ là một tên mới, không phải hạng tiện dân - thò tay vào một chiếc túi và bốc một nắm đầy lông trắng, tôi đoán là lông tơ đại bàng, rắc lên khắp cái xác ướt đẫm của tôi.
Năm vị khách danh dự, lần lượt từng người một tiến về phía Chacal mới, chào mừng anh ta rồi quay về chỗ. Sọ Đá Quý 2 là người cuối cùng. Ông ta chìa một bàn chân ra và Chacal mới chạm nhẹ vào phía dưới. Đó là một vinh dự đặc biệt. Sau khi quay về chiếu của mình, Sọ Đá Quý 2 cầm một chiếc vỏ ốc xà cừ chạm vân đỏ biểu tượng của thị tộc, đưa lên miệng thổi, dáng điệu hệt như Triton (vị thần sứ giả của đại dương trong thần thoại Hy Lạp). Âm thanh phát ra khe khẽ, ngập ngừng. Chúng tôi chờ đợi.
Có tiếng leng keng của những chiếc chuông đất nhỏ, tựa như lục lạc của thánh Lazarus (vị thánh bảo trợ cho những kẻ ăn mày. Họ thường dùng lục lạc để báo hiệu cho người đi đường về sự xuất hiện của mình, vì vậy “lục lạc của thánh Lazarus” là cách dùng để ám chỉ “lục lạc của ăn mày”), phía sau chúng tôi. Tôi không quay lại nhìn, nhưng gần như lập tức, một nacom Đại Bàng, tức là thầy tế chuyên lo việc dâng cúng của Sọ Đá Quý 2, xuất hiện, bước chân chậm rãi như thể hắn có toàn bộ thời gian trên đời. Da hắn bôi than đen nhẻm, hắn đội một vành khăn xếp đen, cắm mấy chiếc lông chim mèo (giống chim thuộc họ sẻ, gọi là chim mèo vì có tiếng kêu như mèo kêu) đen và chiếc mặt nạ hình mỏ chim khổng lồ cũng màu đen, tất cả khiến hắn nom như phiên bản độc ác của con vịt Daffy (nhân vật con vịt màu đen trong phim hoạt hình). Các tế bào thần kinh của Chacal không hề muốn nhìn thấy hay nghĩ đến hắn, nhưng tôi vẫn tìm được tên hắn: Kỳ Nhông 18. Hai thằng bé theo sau hắn - một cặp sinh đôi xấp xỉ tám hoặc chín tuổi, da cũng bôi than đen nhẻm như hắn.
- Bề trên, xin hãy cho con trở lại trong sạch, hãy ban cho con cái chết, - người thế mạng, hay tôi nên gọi là Chacal mới lầm rầm. Hai đứa trẻ phụ lễ đỡ thằng bé nằm duỗi dài xuống chiếu, giữ lấy hai tay, hai chân trong lúc tên thầy tế rạch một đường ngang bụng nó. Bàn tay cầm dao của hắn thọc qua vết cắt vào dưới khung xương, luồn lên trên, cắt đứt các cơ hoành và tách quả tim ra khỏi động mạch và tĩnh mạch chủ. Hắn loay hoay mất gần hai mươi giây, nhưng cuối cùng cũng kéo được quả tim ra - để con dao lại thay thế vị trí của nó - và đặt nó vào một đĩa cháo ngô. Đáng ra tôi không được nhìn, nhưng vì mọi người hình như đều quên bẵng mất tôi nên tôi cứ vừa nằm trên chiếu vừa hé một mắt quan sát. Hóa ra tim có thể tiếp tục đập thêm một lúc sau khi bị cắt rời khỏi cơ thể, và quả tim này thậm chí còn phun ra những bọt máu đỏ thêm những mười lăm nhịp nữa, sau đó thì chỉ phụt ra hơi, phát ra những tiếng phì phì và lặng dần. Tôi quan sát hai đứa trẻ phụ lễ khiêng Chacal mới đặt vào một cái sọt lớn, để nó nằm cuộn tròn trong tư thế của một con chó đang ngủ, buộc lại bằng bốn nút thòng lọng thắt rất phức tạp, tạo thành hình ký tự đọc là “bốn trăm lần của bốn trăm”, tượng trưng cho sự vĩnh hằng. Rõ ràng họ không muốn nó quay về. Trước khi hai đứa trẻ xong việc, Sên Xanh 3 đã đứng sẵn cạnh tôi, mắt nheo lại vì mặt trời chiếu vào, những vệt đất sét xanh lam tô trên người chảy ra vì nóng. Lão yêu cầu tôi hứa không cho ai biết cái tên bí mật mới của tôi, tức là tên của uay mới của tôi. Tôi hứa. Nếu có ai đó biết được tên thật bí mật của anh, hắn có thể dùng nó để nguyền rủa và anh sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng của bất cứ con quỷ nào mà hắn dùng để săn đuổi anh. Lão cuối xuống, thì thầm cái tên vào tai tôi - nó hãy còn đang chảy máu - và bảo tôi nhắc lại. Tôi ráng sức tuân theo nhưng thật khó mà nói được với cái miệng đầy không biết là máu hay bãi nôn, vì thế, tôi cố nuốt đi một phần và tên hầu trang phục mới lau nốt chỗ bị tràn ra cằm. Chắc Sên Xanh 3 nghĩ tôi đang cố trì hoãn nên lão bèn dùng khớp ngón tay cốc một phát vào cạnh đầu tôi và đẩy tên hầu lui lại. Tôi thì thầm cái tên. Lão bắt tôi nhắc lại hai lần nữa rồi đứng dậy, thông báo tên gọi công khai, tức tên thường gọi của tôi. Giống như hầu hết những cái tên liên quan đến súc vật khác, nó chẳng dính dáng gì đến uay của tôi:
- Thằn Lằn Chân Lùn 10, - lão ta tuyên bố. - Kết thúc.
Đồ ăn mày, - tôi nghĩ bụng. Tôi lúc nào cũng nhận được những cái tên củ chuối nhất. Mẹ nó chứ.
Sau lưng tôi, ai đó châm lửa đốt cái túp sậy. Tôi đoán là nó chỉ là thứ đồ dùng một lần. Tôi nhấc đầu lên và nhìn thấy hai thằng bé phụ lễ nhấc cái sọt lên vai và lên đường, theo sau là tốp phu vác trên vai tất cả những thứ lỉnh kỉnh khác. Cha của Chacal và vị bô lão cũng theo họ đi xuôi con đường về làng, tay rung lục lạc để đuổi tà ma. Tôi thấy lạc lõng. Sọ Đá Quý 2 cởi xích cho con diều hâu. Ban đầu, nó cứ đứng yên, vì vậy, ông ta xùy nó cho đến khi nó bực bội đập cánh bay lên, rúc vào đám cây.

37

IMG_0193
Họ lôi tôi đi một chặng đường dài, lên dốc xuống đèo. Tôi vẫn còn yếu vì… hừ, vì tất cả mọi sự. Khi tôi ngủ thì họ khiêng tôi. Họ cho tôi uống nước ấm. Hun Xoc, người chỉ huy việc này, lấy từ tay nải riêng ra một tảng muối và cho tôi liếm. Lát sau, tôi nhận thấy người mình đang chuyển động theo lối hết sức kỳ cục. Mình đang đu đưa, - tôi nghĩ, - ở đầu một sợi dây, ý tôi là theo nghĩa đen ấy (Vì “ở đầu một sợi dây” còn có nghĩa bóng là “không thể chịu đựng được nữa”). Họ đang dòng dây thả tôi xuống ở tư thế nằm ngang như cái xà nhà, ra khỏi vùng ánh sáng, vào một khoảng không đầy những tiếng rì rầm và lách cách vang vọng, sực mùi sô-cô-la, mùi nước tiểu, mùi nhựa thông và mùi đá ẩm. Tối om. Những bàn tay đón lấy cái bọc, tháo sợi thừng ra, vác nó đi chừng bốn mươi bước, đặt xuống, lôi tôi từ trong đó ra và đặt nằm lên một đống vỏ bao ngô. Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi phát hiện mình đang ở trong một cái hang rộng, sau tất cả những sự trói, buộc và nhốt mà tôi đã trải qua thì cái hang này lớn chẳng kém gì sân vận động Hyperbowl. Đống vỏ bao ngô nằm cạnh một cái hốc dùng làm nhà kho được chống bằng những cây gỗ tuyết tùng, bên trong chất hàng núi hạt ca-cao chưa tách vỏ, da hươu thuộc bốc mùi a-mô-ni-ắc tự nhiên, phía đối diện, cách rất xa, là một khoảng ánh sáng mặt trời màu xanh lục rọi xuống từ một khuôn cửa nham nhở rộng chừng ba mươi sải, dài năm mươi sải, chơm chởm những thứ mà thoạt nhiên tôi đoán là rễ cây trồi lên, nhưng sau mới biết là nhũ đá. Khoảng không trong hang chăng kín mít giàn giáo, cột chống, dây thừng, trụ tường và giá để phơi khô, nhưng đập vào mắt nhất là một cái thang dây, hẳn phải thuộc loại lớn nhất thế giới: khoảng sáu mươi súc gỗ, một chiều mười, một chiều hai mươi sải tay, được thắt chặt vào những sợi thừng bện dày. Cái thang được treo dựng đứng, nối từ phía bên này hang, nơi tôi đang nằm, lên mép xa của khuôn cửa. Năm người thợ gần như trần trụi leo trèo trên cái thang như thủy thủ trên dây cột buồm của một chiếc thuyền buồm thẳng đứng, chuyển xuống một cuộn da hươu chưa thuộc. Trong hang còn ít nhất ba mươi thợ khác, một vài người chắc đã nhìn tôi hết sức tò mò vì Hun Xoc - người vừa mới xuống tới nơi - quát họ quay trở lại làm việc. Họ xốc tôi đứng dậy, nhưng tôi vẫn phải cần hai người đỡ mới đi được, không phải vì tôi vẫn còn lẩy bẩy sau ngần ấy sự hành hạ vô ích, mà vì ý thức của Chacal đã biến mất nên tôi phải học lại cách điều khiển cơ thể mới này. Tệ hại nhất là tôi cứ quay sang phải mỗi lần muốn quay sang trái. Chúng tôi đi vòng qua một cái hõm hứng nước mưa tự nhiên dưới lòng hang, qua chỗ một tên đầu bếp vận quần áo đàn bà đang quăng bèn bẹt những chiếc bánh ngô dành cho bữa sáng lên ba phiến đá nhỏ trong bếp lò. Tôi đoán hắn là loại người mà các nhà nhân chủng học gọi là “berdache” (Thuật ngữ vay mược từ một từ trong tiếng Pháp có nghĩa là “đĩ đực”, mặc dù nó không được dùng với đúng nghĩa ấy.), một kẻ đồng tính có thể làm công việc của phụ nữ ở chỗ dành cho đàn ông. Một cái ống khói bằng đất sét nặn vươn lên từ nóc lò, chạy ngoằn nghoèo theo cạnh chiếc thang, dẫn ra ngoài khuôn cửa. Chúng tôi phải cúi khom người chui qua một cái giá trên phơi một đôi cò nhiệt đới mới làm thịt bị buộc túm cổ lại với nhau, cùng một xâu ngan Muscovy (Loài ngan có bướu ở mũi.) mới làm lông - bất chấp cái tên, chúng không hề đến từ Muscovy (Tức công quốc Muscovy, một công quốc thời trung cổ, đặt trung tâm tại Moscow, thủ đô nước Nga ngày nay.). Tôi nhớ ra là mình vẫn đang rất đói. Qua khu nhà bếp, đến một bục gỗ xây cao, nơi hai lão kế toán Đại Bàng già khọm, đầu quấn dải băng, đang ngồi đếm những hạt giống ngô và chuyển chúng cho mấy gã phụ việc, những người này bỏ chúng vào những chiếc túi làm bằng vỏ bao ngô và thắt chặt lại bằng chỉ màu. Những cuộn vải tráng cao su, những điếu xì gà to như quả thủy lôi năm mươi li được bó lại thành từng bó nằm chất đống trên các giá đựng hàng đan bằng liễu gai, cách xa các bức tường nhưng được cái ngoài tầm mưa hắt. Chả trách nhà Đại Bàng đã cai trị đô thị này được đến ba trăm năm, - tôi nghĩ, - những kẻ suốt ngày lo tích cóp và dự phòng.
Họ dẫn tôi ra khỏi phòng lớn, vào một con hẻm tối tăm, chạy chéo dẫn tới một hành lang phụ, nửa tự nhiên, nửa được đẽo gọt, với những cây nhũ đá nhọn hoắt được mài bớt sao cho vừa cách đầu người một khoảng và con đường dưới chân mấp mô, dốc lên chừng ba mươi độ. Trước khi ánh sáng hoàn toàn biến mất, những người dẫn đường cho tôi dừng lại giữa một căn phòng dạng như phòng chờ và gọi người hầu mang trang phục đến. Chúng tôi chờ đợi. Những gã hầu trang phục trình diện và chỉnh trang lại cho tôi. Ở đây, ít nhất anh cũng không phải tự làm vệ sinh. Hồi còn đi học, tôi đã từng hẹn hò một thời gian với một người phụ nữ Ấn Độ - cô ta từng là hoa hậu Ấn Độ, mặc dù tôi không mong các bạn tin điều này - và tôi hết sức kinh ngạc khi phát hiện ra cô ta chưa từng tự gội đầu lấy một lần trong đời. Và té ra, ở Ấn Độ, việc những người hầu có người hầu, và người hầu của người hầu cũng có người hầu không phải là chuyện gì hiếm gặp. Vì thế, ở đây, ngay cả một kẻ ra tù vào tội như tôi cũng có người phục sức riêng. Xong xuôi, họ xốc tôi đứng dậy và chúng tôi bước vào bóng tối hoàn toàn, mò đường đi nhờ một cái rãnh đục vào sàn đá vôi. Chúng tôi đi vòng vèo vào sâu trong núi. Quãng này kém thoáng khí hơn và mùi cũng khó chịu hơn. Tôi cảm giác bằng bàn chân rằng lối đi được đắp đất sét cho bằng phẳng. Con đường mở rộng ra thành một căn phòng hình chữ “L”, ánh sáng mặt trời chiếu vào nhờ nhờ. Bốn vách tường được đẽo thành các ngăn kệ, xếp kín những chiếc bình mộc, phía trên là hàng dãy tượng tổ tiên bằng đất sét, nom xấu xí và có vẻ như được nặn tùy hứng. Trên một ngăn kệ bày một dãy tượng phồn thực đẽo bằng gỗ, mô tả những lão già đầu thú sờ soạng các cô gái trẻ. Hình sau dâm dục hơn hình trước. Ái dà, ra là ở đây các vị cũng hư hỏng gớm nhỉ. Không phải mọi thứ thuộc về quá khứ đều vĩ đại. Người ta nghĩ thế chẳng qua vì hầu như chỉ có những điều tốt đẹp được lưu truyền lại, và chỉ khi có dịp tình cờ tất cả được “đóng gói” lại cùng một lúc, như ở Pompeii chẳng hạn, thì người ta mới nhận ra rằng gần như toàn bộ những gì thuộc về quá khứ đều rặt là một đống đồng nát. Và đây đúng là một thành phố dung tục. Một câu lạc bộ ban đêm của thời cổ…
Oái. Họ khom lưng và đẩy tôi qua một tấm da hươu che cửa mà tôi chưa kịp nhận thấy, dẫn tôi đi ba mươi bước lên một đường dốc sáng ánh đuốc, tới tấm da che cửa thứ hai được nạm những chuỗi vỏ sò. Một k’iik Đại Bàng đứng tuổi ngồi chắn bên ngoài. Hắn và tên đứng đầu nhóm phu khuân vác trao đổi vài cử chỉ chào hỏi vô nghĩa. Trong này có mùi cay cay như mùi hạt tiêu Jamaica dại. Hun Xoc và tôi khom lưng chui vào một khoang đệm bé xíu, kích thước chỉ bằng cái tủ lạnh, chui tiếp qua một cánh cửa nhỏ đến một căn phòng hình tròn như quả bong bóng, rộng không hơn chiếc ga-ra chứa một xe. Không có ánh sáng trời, nhưng có hai cây nến lõi bấc - làm từ thân sậy bọc mỡ - đang cháy ở góc phòng, thay vì làm căn phòng khói mù, toàn bộ khói bị hút lên qua một khe hở trên bức tường phía trong nhờ một luồng gió mát thổi đều đều. Chỉ dựa vào không khí, tôi cũng có thể đoán chắc được rằng đây là nơi mà dân thích khảo sát hang động gọi là khoang khô, tức là khoang không bị mưa hắt, nằm trên mực nước của bất cứ dòng chảy nào và vách khoang không bị đóng rêu. Bức tường phía trong do tay người xây nên, nó được dựng bằng những khối đá đã qua đẽo gọt, còn các bức tường xung quanh thì được đẽo thô vào vách hang; bên tay phải chúng tôi, hai cây măng đá xam xám được để tự nhiên, gần như không mài dũa. Trên cây lớn hơn khắc tượng bán thân theo lối cũ của một vị lãnh chúa Đại Bàng. Dòng chữ ghi ngày ông ta bắt đầu trị vì vẫn còn khá rõ, đó là Chúa tể 9, Ngụm rượu 3 của ngày đầu tiên của b’ak’tun thứ tám - tức là ngày mùng 7 tháng 9 năm 41 Công nguyên, tròn 244 ngày sau vụ ám sát Caligula (Tức Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus, vị hoàng đế thứ ba của đế chế La Mã, bị ám sát ngày 24 tháng 1 năm 41 Công nguyên.). Quanh chân cây măng đá vẫn còn những cái bình thờ cũ, có nắp đậy, phần lớn đã nứt vỡ. Phần còn lại của thư viện - hay tôi nên gọi là phòng lưu trữ hoặc genizah (Căn phòng lưu trữ trong giáo đường Do Thái, dùng để chứa những thư tịch, giấy mà không dùng đến nữa nhưng cũng không được phép vứt bỏ.) - chất đầy những chồng rương hòm được sắp xếp gọn ghẽ. Bốn trong số đó đang để mở và tôi nhòm thấy trong một chiếc có một cuốn sách gấp ruột mèo được vùi lửng lơ trong muối mỏ.
Tính cả tôi và Hun Xoc, trong phòng có cả thảy chín người. Sọ Đá Quý 2 ngồi trên một tấm đệm ở cuối phòng, chân phủ một tấm chăn bông may chần. Một vệ sĩ to lớn quỳ bên phải ông ta, mặt cắm xuống đất. Hắn ngồi thẳng người lên khi thấy chúng tôi bước vào, nhưng vẫn không ngước lên. So với người bình thường, hắn cao hơn một cái đầu và nặng khoảng gấp đôi, hắn cũng lớn tuổi hơn tất cả những tên vệ sĩ khác tôi từng trông thấy, điều đó có thể có nghĩa rằng hắn được tin cậy nhất. Quanh vai và hông hắn quấn miếng đệm bằng bông chần nhẹ, và những hình xăm trên hai bắp chân cho biết trong suốt cuộc đời tham gia chiến trận, hắn đã nộp cho Đại Bàng 1 cả thảy tám tù binh. Có hai người quỳ bên trái căn phòng, giữa tôi và tên vệ sĩ. Người thứ nhất là một lão già gầy nhẳng, vai khoác chiếc áo choàng tối màu, đầu trùm một thứ như cái mũ chụp lên trên chàng mạng, gần giống chiếc mũ cối có mạng che muỗi. Tôi nhìn lão không rõ lắm, nhưng hình như quen quen. Hai cẳng tay lão có điều gì đó là lạ nhưng tôi không nhớ ra là điều gì. Người thứ hai, gần tôi hơn, là gã chép sử trong bộ trang phục khỉ mà tôi đã từng nhìn thấy trong căn phòng phủ lông chim đỏ. Ngón tay trỏ hắn buộc một chiếc bút lông dài, mảnh, và hắn cứ cặm cụi việc mình, chẳng buồn ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi. Hắn đang ghi những chấm và gạch cẩu thả, viết thành hàng dọc lên các mảnh lá cọ khô. Thực ra, từ “người chép sử” hơi sang trọng và to tát quá so với hắn. Có lẽ gọi là thầy tốc ký kiêm kế toán thì đỡ sai hơn. Hay chúng ta nên dịch chức danh của hắn một cách nôm na theo nghĩa đen là “người ghi nhớ”.
Ba người nữa ngồi dựa vào bức tường bên tay phải. Ông bác của Sọ Đá Quý 2, Nhàn Nhã 12, là người gần tôi nhất, tiếp đến là kị của Sọ Đá Quý 2: Chồn 40, và cuối cùng là một người nào đó với lớp vải quấn bên ngoài quá cũ và nát đến mức tôi không đọc được, ngồi sát bên tay trái Sọ Đá Quý 2. Họ đã chết, dĩ nhiên, và được bán ướp xác - tức là về căn bản, họ chỉ là những cái đầu bị tóp lại, có lẽ được nhồi hạt tiêu Ja-mai-ca, đặt trên một nắm xương sống, xương trụ, xương mác, vân vân. Mỗi người được đặt ngồi trên một cái bục giống bàn uống trà của người Ấn Độ, xếp dọc theo cạnh tường bên phải. Còn xương sọ có lẽ đã được chôn cất ở đâu đó cho an toàn, cùng với số xương còn lại, những người vợ được sủng ái nhất và nhiều thứ khác nữa. Họ có mặt ở đây nhưng không tham gia bàn việc.
Sọ Đá Quý 2 đưa hai bàn tay sang hai bên, với người Maya, làm thế cũng như chúng ta nhún vai.
Hun Xoc đặt tôi ngồi xuống một cái chiếu dành cho kẻ dưới. Tôi cúi mắt xuống và tay phải tự động đưa lên vai trái. Tôi nghe thấy tiếng Hun Xoc khom lưng bước ra khỏi cánh cửa phía sau tôi. Sọ Đá Quý 2 nói:
- Ta nhắc lại lần nữa, hãy lấy con giòi bọ của ngươi ra ngay.
Thế là thế quái nào? - tôi phân vân. Tôi tưởng chúng ta đã xong việc này rồi.
Bây giờ, tôi đã học được cách cư xử ở đây đủ để biết rằng nếu không có gì để nói thì cứ ngậm miệng lại. Tôi nhìn xuống đất. Chết rồi, - tôi nghĩ, - lão vẫn sẽ lấy mạng mình. Ôi trời ơi.
- Ta đã gõ quả bóng hông thứ chín của ngươi rồi đấy, - ông ta nói. Câu đó có nghĩa rằng: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi rồi đấy”.
Tôi nhìn lên.
- Jed? - tôi khẩn khoản. - Ra khỏi đó đi, nhé? Hoặc nếu không cứ nằm yên. Xin mày đấy. Vì đồng đội một lần đi.
Đương nhiên, im ắng chờ đợi một lát, đương nhiên, chẳng có gì xảy ra hết. Nếu thằng Jed ở trong đầu Sọ Đá Quý 2 từng có bất cứ phản ứng gì đặc biệt khi nghe thấy tôi thì ông ta đã chẳng nói thế.
- Liệu hắn có nghe ngươi không? - rốt cuộc Sọ Đá Quý 2 hỏi.
Tôi thưa là tôi không biết.
Tôi lờ mờ đoán rằng Sọ Đá Quý 2 có thể sẽ gột rửa tôi ra khỏi người ông ta như ông ta đã đẩy Chacal ra khỏi người tôi.
- Jed trong đầu ngài đang nói gì? - tôi hỏi.
- Hắn đang kêu gào, - Sọ Đá Quý 2 đáp.
Tôi run lên. Chết tiệt. Tôi tưởng tượng cảnh con ấu trùng chưa phát triển thành tôi hoàn chỉnh đang quằn quại dưới lằn roi của ý chí kiên cường của Sọ Đá Quý 2. Eo ơi. Chắc kinh khủng lắm…
- Ta thấy hắn,
Nhưng không biết tên hắn,
Trong ta,
Cuộc sống của ngươi,
Tựa như một đống bình vỡ.
Ông ta nói, lần đầu tiên có vẻ gần như không dứt khoát.
Hừm, - tôi nghĩ, - ừ, chí ít thì bây giờ ta cũng nói chuyện được với nhau.
Tôi đã bắt đầu học được cách tin tưởng vào những phản ứng tự nhiên của Chacal, tôi vẫn lo phần cân nhắc những quyết định quan trọng nhưng để cơ thể anh ta làm theo bản năng. Và lần này, nó biết là không nên trả lời, vì thế, không bỏ lỡ một giây, tôi tặc lưỡi và ra ý: “Như ngài, ở trên tôi, nói”.
Đừng tự nguyện cho ông ta biết bất cứ điều gì hết, - tôi tự nhủ, - mày càng nói nhiều thì càng dễ toi, hiểu chưa? Ông ta cần mày ở lại để giúp ông ta hiểu được mớ lộn xộn xa lạ trong đầu ông ta. Không phải ông ta không thể tra tấn mày. Nhưng có lẽ ông ta không thực sự muốn tra tấn mày. Có lẽ ông ta không ác đến thế, chỉ là ông ta nổi khùng vì cảm thấy bị xâm phạm thôi. Ở tình thế đó, ai cũng làm vậy thôi. Phải không?
Phải gió, bây giờ tôi lại cảm thấy tội lỗi một cách phi lý. Hoặc có khi cũng chẳng phi lý. Rốt cuộc, tôi đích thị là một tên đồng lõa chiếm đoạt bộ óc ông ta. Thôi quên đi, - tôi tự nhủ, - đừng có thương hại lão. Lão có thể giết mày bất cứ lúc nào đấy.
- Ngươi, kẻ dưới chân ta
Đã làm ta mất một đứa con trai
Và phá hoại gia đình ta
Sao cơ? - tôi nghĩ, - con trai à? Ồ, phải rồi.
Tôi quên tôi đã kể chuyện này rồi. Tôi từng đoán rằng con trai của Sọ Đá Quý 2 đã bị hiến sinh thay tôi sau khi tôi phá hỏng lễ hiến tế trên kim tự tháp. Tôi không biết có nên vờ không biết gì hay không, vì thế tôi hỏi thêm:
- Kẻ dưới chân ngài
Xin được xá tội.
Nhưng kẻ dưới chân ngài
Chưa rõ vì sao
Mình lại gây ra
Tai họa như thế.
Đó là câu gần nhất với một câu hỏi mà tôi nghĩ ra, bởi trong thứ ngôn ngữ này không có cách nào để một tên hèn hạ đặt câu hỏi với người bề trên. Và ngay cả câu ấy cũng chưa được lễ phép cho lắm. Song Sọ Đá Quý 2 vẫn trả lời. Ông ta bảo tôi - một cách hết sức trịnh trọng và đối cách - rằng hai năm mặt trời trước, gia tộc cai trị là nhà Mèo Rừng đã đòi ông ta dâng một món quà để kỷ niệm lễ đặt tên mới và tái đăng quang của tộc trưởng nhà họ. Chim Ruồi Có Nanh 9, với tư cách là Chúa Tể của Những Dòng Nước Màu Mỡ và k’alomte’ - chiến binh đứng đầu - của thành Ix. Món quà đó phải một trong hai thứ sau: hoặc xóa hết nợ - điều này tôi kết luận là ông ta không muốn chút nào - hoặc là một đứa con trai dùng làm người thế mạng trong lễ hiến sinh giả của Chim Ruồi Có Nanh 9. Nhưng vì Sọ Đá Quý 2 chỉ có hai đứa con trai ruột nên ông ta đã dàn xếp được một sự thỏa hiệp: một trong những đứa con nuôi của ông ta - nhà vô địch môn bóng hông của thị tộc Đại Bàng: Chacal - sẽ đấu một trận bóng hông có tính chất nghi lễ với Chim Ruồi Có Nanh 9 và sau đó, với tư cách là kẻ thua cuộc, phải lao đầu từ trên kim tự tháp xuống thay cho ông ta.
Và khi Chacal làm hỏng lễ hiến tế vì tỏ ra sợ hãi, Sọ Đá Quý 2 đã cho trói Chacal lại để dành (cho “cái chết bẩn thỉu” theo cách nói của ông ta), rồi cho người đưa tin xuống gặp hai đứa con trai đang đứng trong hàng ngũ của nhà Đại Bàng trên quảng trường dưới chân kim tự tháp. Và đứa lớn, Tro 23, đã ngay lập tức leo lên cầu thang. Đám người hầu trang phục vội vã tô xanh người anh ta và anh ta nhảy xuống.
Sọ Đá Quý 2 dừng lời.
Mẹ kiếp - tôi nghĩ - bất kể ông ta máu lạnh đến đâu thì mất một đứa con hẳn vẫn đau đớn lắm. Bếp lò và củi đây, nhưng con cừu để thiêu hiến tế đâu? Tôi phải xin lỗi thế nào bây giờ? Xin lỗi thì có vẻ không ổn thế nào ấy. Tôi bèn thưa rằng tôi sẽ làm bất kỳ điều gì có thể bù đắp cho ông ta.
Ông ta đáp:
- Nếu thế, ngươi, kẻ dưới chân ta
Sẽ phải nộp nhiều hơn cái đầu của ngươi,
Nhiều hơn hai mươi tun đau đớn,
Nhiều hơn tất cả những đứa con của tổ tiên ngươi.
Tôi xin lỗi, - tôi nghĩ trong đầu.
Ông ta nói tiếp:
- Các con trai của Hơi Nước 18 phải tự lột hàm
Và con trai của Xa 3 cũng đi theo mặt trời
Trong cuộc săn hươu.
Câu ấy có nghĩa là - tôi phải mất một phút mới đoán ra - ba gã k’iik bị tôi đánh bại trong cuộc săn đã nhục nhã đến mức tự chọc thủng một lỗ trên cơ da cổ - ngay sau cằm - xuyên một sợi thừng từ đó sang miệng, thắt nút lại rồi treo lên cành cây hay bất cứ thứ gì khác và ngã đổ người ra sau để giật tung xương hàm.
Và như thể ngần ấy vẫn chưa đủ tệ hại, ông ta còn thêm rằng một k’iik nhà Đại Bàng đã thiệt mạng và bốn người khác bị thương khi tôi cố tự tử trên dốc. Một trong số những người đó bị thương bị tàn tật vĩnh viễn và đang cầu xin được chết.
Chắc cũng có nhiều người phu bị thương nữa, - tôi nghĩ. Nhưng dĩ nhiên ông ta chẳng bận tâm gì chuyện ấy. Tôi định phân bua rằng người cố nhảy xuống không phải tôi mà là Chacal nhưng lại thôi. Sọ Đá Quý 2 biết và điều đó với ông ta không quan trọng. Tôi vẫn có trách nhiệm trong toàn bộ sự việc.
Và toàn bộ chuyện ấy cũng chưa là gì, ông ta nói, so với cái gọi là sự hủy hoại chính trị tôn giáo. Người ta đang xì xào rằng vụ rút lui đầy tai tiếng của Chacal trên đỉnh kim tự tháp đã khiến nữ thần Cóc Đất ngã bệnh và đáng nhẽ chỉ hắt hơi sổ mũi qua loa thôi thì bà ta dám nôn ra mật xanh mật vàng. Hôm nay, những người đưa tin đã từ bờ biển trở về với bản tường trình chi tiết về đợt phun trào khủng khiếp của núi lửa San Martín. Và, như mọi khi, những kẻ đầu óc tiêu cực lại đồn rằng sắp đến ngày tận thế.
Hừ, thế đấy - tôi nghĩ - nhắc đến trận phun trào trong bài diễn văn trên đỉnh kim tự tháp khéo lại chẳng phải ý hay, ừ thì… chẳng phải chuyện gì cũng mỹ mãn được, phải không?
- Vậy, - Sọ Đá Quý 2 nói, kết thúc bài kinh nguyện tai ương của ông ta, - ngươi muốn dâng tặng gì để bù đắp?
- Tôi còn biết một số sự việc nữa sắp xảy ra…
- Giống như trận nôn vừa rồi của nữ thần Cóc Đất ư?
Tôi đáp rằng vâng.
- Chim Ruồi Có Nanh 9 đã biết ngày đó từ cách đây hai tun rồi.
Mẹ kiếp.
Tôi hỏi rằng chẳng phải dự đoán của tôi chính xác hơn sao.
Ông ta trả lời rằng đúng thế, và rằng ông ta đã dùng nó để căn cho chuyến săn hươu đi đến hồi kết đúng lúc. Ông ta hỏi tôi còn biết thêm gì nữa không, tôi có biết chuyện gì sẽ xảy đến với nhà Đại Bàng sau khi ông ta chết không.
Tôi buộc phải nói thật rằng chúng tôi không biết, và chúng tôi chỉ có thể nói rằng thành Ix sẽ bị bỏ hoang sau khoảng hai mươi nhăm năm nữa. Hay chí ít, một phần lớn đất đai hiện đang được tưới tiêu của vùng này sẽ không canh tác được nữa, dấu tích nhà ở và các “đống phân” (một thuật ngữ trong khảo cổ học, ám chỉ những đống đồ phế thải mà người xưa vứt bỏ.) gần như biến mất hoàn toàn và sẽ không thêm bất kỳ công trình nhà cửa hay tượng đài nào được xây dựng nữa.
- Và điều gì sẽ xảy ra với ta sau khi ta chết, vào k’atun sau?
Gì cơ?
À, ý ông ta là cái đầu và bộ xương của ông ta. Tôi đáp rằng tôi không biết. Ông ta không động đậy, giọng ông ta cũng không biến đổi, nhưng tôi vẫn biết ông ta đang mất kiên nhẫn. Chẳng phải ông ta đã biết những chuyện này rồi sao? - tôi phân vân. Tôi lén liếc nhìn ông ta một cái và hơi ngạc nhiên trước điều mà tôi nghĩ là tôi nhìn thấy. Có vẻ gì đó sau cặp mắt rắn đanh kia, vẻ gì đó gần như yếu đuối, hay đúng hơn là đau khổ, thậm chí tuyệt vọng. Ông ta hỏi tiếp về người thừa kế dự định của ông ta. Chạy Bộ 17. Và hóa ra đó không phải đứa con còn lại mà là đứa cháu ông ta yêu quý nhất. Ông ta đã gửi nó đến Oxwitzá, là một vùng ở Belize mà ngày nay - thế kỷ 21 - được gọi là Caracol.
Tôi đáp rằng tôi không biết, nhưng tôi không nhớ là có cái tên nào như thế xuất hiện trên bất cứ tượng đài nào.
Thế này thì không xong rồi, - tôi nghĩ bụng.
- Vậy có còn hậu duệ nào của chúng ta cho chúng ta ánh sáng nữa không? - ông ta hỏi. Ý ông ta là họ có đốt đồ cúng tế cho ông ta và gia đình của ông ta trong những dịp lễ nữa không.
Tôi bèn kể rằng trong những cộng đồng mà chúng tôi gọi là cộng đồng Maya truyền thống, người ta vẫn còn lưu giữ tập quán thờ kính tổ tiên nói chung, rằng họ vẫn đốt đồ cúng tế trong một vài dịp lễ, vân vân và vân vân, nhưng tôi càng nói thì lời lẽ của tôi càng kém thuyết phục hơn. Còn về các chi tiết, tôi nói, như tên tuổi… Ừm, nói thẳng là đến cuối b’ak’tun sau, tên tuổi của ngài có thể sẽ bị quên lãng bởi chính con cháu ngài, và những dòng chữ khắc trên bia của ngài sẽ chẳng được ai biết đến trong sáu mươi k’atun, cho đến khi chúng bị bụi xóa mờ hết và bị hàng tá những kẻ đào trộm mộ có bằng tiến sĩ diễn dịch sai. “Nghĩa là, nếu như tôi không quay trở lại”, tôi nói, cố tìm ra một câu dẫn dắt thật thông minh. Tôi nói với ông ta rằng chúng tôi thậm chí có thể viết lại tất cả những công trạng của ông ta, cũng như lịch sử của cả triều đại, tôi sẽ đem nó về cùng tôi và đảm bảo sao cho người ta thật chú ý đến ông ta…
Ông ta hít thở vào một hơi thành tiếng. Dấu hiệu đó có nghĩa là: “ngươi được ta cho phép câm miệng lại”.
Tôi câm miệng.
Ông ta hỏi điều gì sẽ xảy ra trong 256 ánh sáng còn lại của tun này.
- Khói Ngọc Bích 10 của xứ K’an Ex sẽ lên ngôi vào ngày Mưa 4, Kết thúc 17, - tôi đáp, - 23 ánh sáng sau đó, ông ta sẽ bắt sống Đánh Lửa 2 của thành Lakamba. (Nhắn nhủ bản thân: nhiều cái tên rối rắm quá. Quay lại câu chuyện và giải thích xem cái chết tiệt gì đang diễn ra đi - Jed DeLanda).
- Vậy có bao nhiêu khói dẫn đường của ta? - Sọ Đá Quý 2 hỏi. Nghĩa là sao ta phải quan tâm đến chuyện ấy.
- Có lẽ là chẳng có khói nào hết, - tôi đáp. Mẹ kiếp, hết chuyện để kể rồi. Có lẽ tôi nên hỏi phắt ông ta về trò chơi thì hơn. Không, đừng. Mày vẫn đang đứng trên cát lún đấy.
- Còn gì nữa?
Quái thai thật. Nào, Jed DeLanda, nghĩ ra chuyện gì đi. Hoặc bịa ra cũng được, ít ra chuyện bịa thì lão ta sẽ không biết trước. Trừ phi… không, lão này là tay ghê gớm đấy. Đừng tìm cách lừa người đã chứng minh được rằng ông ta sắc sảo hơn mày. Cứ để ông ta quyết định xem mày có ích lợi gì ở đây không. Thế nhé.
- Tôi có thể giúp nhà Đại Bàng chiếm ưu thế trong mọi trận đánh, - tôi nói. Tiếng Ix của tôi nghe không được tự nhiên, nhưng chí ít tôi cũng có thể ba hoa mà không phải nghĩa ngợi nhiều như lúc đầu. - Ông hãy tìm “vũ khí” trong ký ức của Jed mà xem.
- Vũ khí gì? - ông ta hỏi.
Tôi mô tả thuốc nổ và nói trong ký ức của tôi chắc chắn phải có vài loại. Ông ta xem ra cũng hiểu. Tôi giải thích rằng tôi có thể pha chế ra thuốc súng trong chưa đến hai mươi ngày.
Thay vì trả lời, Sọ Đá Quý 2 châm một điếu xì gà xanh dài trên ngọn nến bấc. Ông ta dùng một ngón tay bịt một bên lỗ mũi và phì khói qua lỗ mũi bên kia.
- Nếu ai đó nhìn thấy thứ vũ khí ấy, - ông ta nói, - thậm chí nếu có ai đó nghe đến nó thôi, chúng sẽ cho rằng ta mua nó từ một kẻ reo rắc ghẻ.
Kẻ reo rắc ghẻ là kẻ có thể gây cho anh bệnh ngoài da bằng cách thổi vào anh từ xa. Nói rộng ra, nó có nghĩa là bất cứ kẻ nào gây ra những trò tai quái bí ẩn, tức là bọn yêu thuật hoặc phù thủy. Kẻ reo rắc ghẻ có thể là người hoặc không phải người hoàn toàn, lão ấy hoặc mụ ấy có thể còn sống, đã chết hoặc lửng lơ, không sống cũng chưa chết. Nhưng dù thế nào chăng nữa, nếu anh là một cột trụ của cộng đồng như Sọ Đá Quý 2, anh sẽ không bao giờ dính dáng đến loại người ấy.
Tôi nói rằng ban đầu, chúng tôi - tôi thầm in nghiêng từ chúng tôi trong đầu - có thể chế ra vài chiếc cung tên và huấn luyện một đội k’iik sử dụng chúng. Cung tên có thể là vũ khí mới lạ ở đây (chuyện này kể cũng hơi kỳ quặc - tôi nghĩ) nhưng sẽ không ai coi chúng là siêu nhiên cả.
- Ta biết cung tên là gì, - ông ta nói, - những tên trán cong trong rừng sâu dùng chúng để bắn chim. Nhưng những người trán phẳng không thể chạm vào chúng được.
Ông ta nói “những người trán phẳng” tức là muốn chỉ tộc người Maya thanh lịch chúng tôi, những người có vầng trán rất phẳng. Vầng trán đó được tạo ra bằng cách bọc đứa trẻ sơ sinh vào một cái khuôn gắn mảnh ván đặt nghiêng ép vào trán, và nó được coi là thanh nhã và hợp thời trang. Còn những tên trán cong có thể coi là bất cứ ai không có được cái trán phẳng như thế: những tên nô lệ trong nhà, những kẻ ngoại bang, hay trong trường hợp này là những tộc người man mọi.
- Nhưng kể cả không có những loại vũ khí mới, tôi vẫn có thể giúp thị tộc của chúng ta trở nên vững mạnh, - tôi nói. - Những việc tôi có thể làm… (tôi cố tìm một từ tương ứng với công nghệ) … những tay nghề không chỉ để làm ra đồ vật mà tôi biết. Chúng còn là vô số cách chiến thuật hóa.
- Ý ngươi là cách tốt hơn? - Sọ Đá Quý 2 hỏi.
- Không hẳn, - tôi đáp.
Có khi tệ hơn ấy chứ. Đồ con hoang nhấm nhẳn, - tôi nghĩ, - ừ thôi, chí ít mình cũng khiến được lão ta nói chuyện với mình. Tốt rồi. Bây giờ việc mình cần làm là khiến lão nghĩ mình là tay mafia cừ khôi nhất sau Karl Rove.
- Giả sử các k’iik của chúng ta bị đột kích, - tôi nói, - nếu chúng quyết định giết hết thay vì bắt làm tù binh. Họ…
Ông ta ngắt lời tôi bằng một tiếng “Zzzz!”, nghĩa là “suỵt!”
- Bọn Búa Lớn đang ở gần đây, - ông ta hơi thì thào, - trong nhà chúng ta, quanh bếp lò của chúng ta.
Búa Lớn à? - tôi ngẫm nghĩ. Tôi không hiểu chúng là thứ gì, nhưng qua Chacal, tôi có cảm giác rằng chúng là người, còn sống và quyền lực hơn chúng tôi.
- Ngài, ở trên tôi, nói Búa Lớn là muốn chỉ các Mèo…
- ZZZZZZ!!
Tôi ngậm miệng lại. Mắt cắm xuống đất. Tất cả im lìm, trừ tiếng bút lông của người ghi nhớ sột soạt trên tấm lá khô. Tôi lén liếc nhìn hắn qua khóe mắt. Hắn quyệt thêm vài nhát nữa rồi dừng lại. Tôi đoán ra là hắn đang ghi lại cuộc nói chuyện của chúng tôi bằng một loại tốc ký nào đó. Hừmm.
Tôi đếm đến mười rồi ngẩng lên nhìn Sọ Đá Quý 2. Nét mặt ông ta như tượng gỗ sau làn khói thuốc lá. Cặp mắt đanh lại. Đồ ngu, Jed, - tôi tự rủa, - mày là đồ ngu, đồ ngu, đồ ngu.
- Chúng ta đã nhìn thấy Chúa tể của các Búa Lớn lảng vảng quanh đây, trong bộ da đi săn, - Sọ Đá Quý 2 nói. Chắc ông ta muốn ám chỉ Chim Ruồi Có Nanh 9, - tôi nghĩ. Họ cho rằng Chim Ruồi Có Nanh 9 có thể biến hình thành một con báo đốm và bí mật tuần tra quanh các làng của bốn tiểu ahau dưới quyền ông ta, nghe lỏm chuyện của họ qua các bức tường đá với thích giác siêu việt của họ nhà mèo. Và nếu tôi nhỡ quên mà nhắc đến tên của bất kỳ ai, uay của ông ta sẽ biết ngay. Và tôi sẽ gặp rắc rối. Rồi. Hiểu rồi.
Nhưng…
- Ngài không thể vẫn còn tin vào chuyện ấy được, - tôi nói, - hãy nhìn vào ký ức của tôi mà xem, ngài biết rằng không ai làm được điều ấy.
Sọ Đá Quý 2 không trả lời. Thay vào đó, ông ta dùng lỗ mũi hít một hơi thuốc dài và phà vào mặt tôi. Thoạt tiên, tôi hết sức khó chịu, nhưng rồi tôi nhận ra hành động đó không có ý xúc phạm. Ông ta đang cố xua tan nốt sự ô uế của Jed còn rơi rớt lại. Kể cả khi đã trải qua tất cả mọi nghi lễ gột rửa mà người ta có thể nghĩ ra, tôi vẫn là một con bệnh ghê tởm. Thứ khói thuốc này nặng hơn nhiều so với thuốc của thế kỷ hai một. Thuốc lá dại. ọe. Như tôi đã kể với các bạn, tôi nhai thuốc lá, nhưng không hút, trừ khi làm lễ cúng, như cúng thánh Maximôn chẳng hạn. Nhưng lúc này… hừm. Lạ sao, tôi nhận ra mình muốn làm một điếu xì gà. Tôi đoán đó là thói quen của Chacal. ọe. ực. Buồn nôn và tứa nước dãi thèm thuồng cùng một lúc.
Tôi ngồi xuống. Được rồi, - tôi nghĩ, - lần này nhường ông ta vậy. Và đừng cố thuyết phục những thứ mà ông ta chẳng đời nào hiểu. Đừng cố dẫn ông ta vào thế giới quan điểm khoa học làm gì. Nếu ông ta tin vào phù thủy và người báo thì cứ mặc xác ông ta.
Và tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng trong xã hội này, người ta không bao giờ chỉ có một mình. Ngay cả lúc này, khi chúng tôi đang nói một câu chuyện mà Sọ Đá Quý 2 muốn giữ bí mật thì bên cạnh ông ta vẫn có đống người - hừ, với ông ta, như thế này cũng đã là riêng tư lắm rồi. Ở đây, ngay cả khi anh không tình cờ bị ý thức của người khác ám trong đầu thì anh cũng chẳng bao giờ được ở yên. Không ai ngủ một mình, thậm chí không ai ngủ chỉ với một người khác, họ ngủ chung cả gia đình trong một căn phòng nhỏ, còn nếu là giới thượng lưu, họ ngủ cùng với người hầu và vệ sĩ túc trực bên cạnh. Không ai ăn một mình. Không ai đi lại một mình. Không ai làm việc trên cánh đồng một mình. Và không ai sống một mình. Khi vô tình bị tách khỏi bầy đàn dù chỉ một phút thôi, người ta sẽ vô cùng bất an. Vì thế, ngay cả trong cuộc sống thường nhật, dù chỉ là một người bình thường, anh cũng không có cơ hội có bí mật.
- Vậy ta, ở trên ngươi, sẽ làm gì với ngươi bây giờ? - Sọ Đá Quý 2 hỏi.
Tôi quyết định rắn mặt một chút.
- Ngài, ở trên tôi, hẳn phải có sẵn ý định với tôi rồi, - tôi đáp, - vậy việc gì phải lòng vòng tốn công thế?
Sau ba giây, tôi nghĩ ông ta mỉm cười, không phải do cử động trên miệng mà vì má ông ta hơi nhăn lại. Chí ít thì lão già này cũng có tí tẹo máu cười.
- Điều gì khiến ngươi, dưới chân ta, nghĩ rằng ta cho ngươi sống để làm chuyện gì hay ho? - ông ta hỏi.
Ú… ù… tôi chả biết trả lời thế nào.
- Ta vẫn muốn ngươi trong bóng tối, - ông ta đáp. Câu ấy nghĩa là: “Ta vẫn còn điên tiết với ngươi lắm”.
Tôi nhìn lên, và trái với ý mình, tôi nhìn vào mắt ông ta. Một cái nhìn rụt rè, nhưng dai dẳng. Việc nhìn thẳng vào mắt nhau ở đây nếu có cũng rất hiếm. Nhưng tôi không dứt được mắt ra.
Cặp mắt ông ta chẳng thân thiện chút nào.
- Nào, kẻ ở dưới chân ta, - ông ta nói, - ta còn cơn giận chưa trút hết với ngươi. - Ông ta ngừng lại một lát. - Ta sẽ làm nhiều trò với ngươi đấy.
Ôi, mẹ nó chứ, - tôi nghĩ, - nặn óc ra cái gì đi.
Tôi cuống quýt nhìn quanh. Tôi nhìn tên vệ sĩ. Hắn vẫn đang quỳ gập người bên phải Sọ Đá Quý 2, không động đậy, cách ông ta chừng hai sải tay, mặt ngoảnh về hướng khác, mắt chăm chăm nhìn xuống một điểm trống không trên tấm vải trải sàn màu đỏ. Tôi nhìn gã “ghi nhớ”. Hắn đã ngừng viết, đang rửa bút trong một cốc nước. Tôi nhìn các đống rổ rá hòm xiểng. Tôi nhìn lão già che tấm mạng.
A, Tôi phát hiện ra tay lão có gì lạ rồi. Chúng đầy lông.
Hẳn các bạn cũng biết, cơ thể người châu Mỹ bản xứ không nhiều lông lắm. Tôi - ý tôi là cơ thể của Jed, kẻ lúc này chắc đang thảnh thơi uống một ly cốc-tai dứa - có chính xác năm sợi lông ngực. Mà đấy là nó có hơn một phần ba dòng máu Tây Ban Nha trong mình đấy. Ở đây, vào thời xa xưa này… hừ… tôi chưa hề nhìn thấy một cái râu hay lông nào. Nhưng tôi biết nó không phải thứ chưa ai từng nghe đến, vì ở thế kỷ 21, tôi đã từng nhìn thấy vài bức tượng người Maya cổ có râu cằm. Có lẽ chỉ những người thuộc một vài gia đình đặc biệt mới được để râu và lông, hoặc phải hơn bảy mươi tuổi, hay thế nào đó. Tôi nhìn lão kỹ hơn. Bàn tay lão cầm một viên sỏi. Và cái cách mà lão ta cầm nó...
Đó là một người đếm mặt trời, - tôi nhủ thầm.
Chả trách lão được phép có mặt ở đây lúc này, được nghe hết câu chuyện này… vì người đếm mặt trời của anh càng biết nhiều chuyện của anh càng tốt. Như thế, lão mới tiên đoán mọi việc cho anh chính xác hơn. Dĩ nhiên, lão ta phải là người được tin cẩn, một kẻ thực sự thân tín. Như linh mục nghe xưng tội vậy. Lão chắc chỉ làm việc riêng cho gia đình Sọ Đá Quý 2. Thậm chí có thể bị giam hãm, vì lão biết mọi bí mật.
Tôi hướng về phía người đếm mặt trời.
- Ta, ở bên cạnh ông, muốn xin một ván cờ, - tôi nói.