PHẦN III
THÀNH PHỐ LƯỠI DAO
Chương 26

50

50
- Ngươi, bên cạnh ta, còn dùng những cái tên nào khác? – người đàn bà hỏi. Giọng bà ta cũng hệt như giọng bà già khi nãy.
Nên cho bà ta biết vài điều thôi, - tôi tự nhủ.
- Tên chơi bóng hông của tôi là Chacal, - tôi đáp.
- Và ai là những người cha khác, những người mẹ khác, những người anh, người em khác của ngươi? – thoạt tiên, giọng bà ta hơi khào khào như người già trước tuổi, nhưng khi đến chữ “na’ob” –  “những người mẹ” – nó bắt đầu dịu đi và mượt hơn, như thể bà ta đang trẻ lại.
Tôi nói tên cha đẻ của Chacal.
- Và ngươi từ đâu đến? – lúc này, giọng bà ta có vẻ đã về đúng chất giọng tự nhiên, giọng nữ trầm khá trong, trầm hơn chất giọng phổ biến của phụ nữ Maya.
Trò khỉ gì thế này? – tôi thắc mắc. Vậy ra khi bà già kia tiếp chuyện tôi thì công nương Koh thật ngồi nói tiếng bụng sau lưng bà ta. Để làm gì? Và làm thế nào kẻ nói đớp kia biết lúc nào nên mấp máy môi? Chắc phải có tín hiệu gì đó. Một sợi dây, hay sợi thừng dưới sàn chẳng hạn. Hừ, sao cũng được.
- Từ thành Ix.
- Trước đó?
- Từ Bolocac, - tôi trả lời. Đó là tên ngôi làng của Chacal.
- Và ngươi đến từ vùng nào của Bolacac? – Koh hỏi. Bà ta nói bằng một giọng ngân nga và nó làm tôi hơi u mê đầu óc một tí.
- Từ Yananekan, - tôi đáp, chưa kịp suy nghĩ gì. Đó là tên gọi ngày nay của một vùng gần Alta Verapaz, nơi tôi, tức Jed, lớn lên. Quỷ thật!
- Và sau đó, nhưng trước Bolacac?
- Tôi đang tăm tối, - tôi đáp, hơi ngơ ngẩn. Câu ấy có nghĩa là “tôi không hiểu”. Mẹ kiếp, Jed, - tôi tự nhủ, - mày đang để con mụ ái nam ái nữ này điều khiển đấy. Trấn tĩnh lại đi.
- Ngươi hẳn phải rời Yananekan trước khi trở thành một k’iik.
Tôi ra hiệu “phải”. Tôi cảm thấy bà ta nhìn tôi dò xét. Có lẽ tôi không nên cố lừa bà ta. Như mọi tay đếm mặt trời có hạng khác, bà ta có thể đọc được quân bài qua bức tường chì.
- Mặt trời nào soi sáng chuyến lên đường của ngươi?
Tôi phịa ra một ngày thích hợp.
- Khi đó người ta gọi ngươi là gì?
- Họ của tôi là Chacal.
- Nhưng đó đâu phải cái tên ban đầu của ngươi?
Tôi định đáp rằng nó chính là tên ban đầu của tôi, nhưng lại ngần ngại. Muộn mất rồi, - tôi nghĩ. Nói thế chẳng khác nào khẳng định điều ngược lại.
Bà ta im lặng. Tôi liếc nhìn bà ta lần nữa. Khi Sọ Đá Quý 2 cho tôi xem bức ảnh vẽ khuôn mặt bà ta, tôi đã nghĩ những họa tiết trên mặt chỉ là vẽ trên da. Nhưng bây giờ, tôi thấy hình như nó nằm dưới da, được xăm vào. Thực ra, - tôi nghĩ, - ngay cả với những thứ vằn vện đó, bà ta nom cũng không hề xấu. Nước da bà ta rất đẹp, nếu tính theo độ trong suốt, khuôn mặt cân đối và dịu dàng, vẻ dịu dàng đầy trắc ẩn, vẻ dịu dàng của một người mẹ, hay đúng hơn, của một bà mẹ tương lai, như thể một ngày nào đó bà ta sẽ rất yêu thương những đứa con của mình, nhưng không phải bây giờ. Tôi vội nhìn xuống và cắm mắt vào cái bóng lờ mờ của một cánh hoa phong lữ trên tấm thảm trước mặt.
- Ngươi, bên cạnh ta, vì sao ngươi tới đây? – bà ta hỏi.
- Vì Sọ Đá Quý 2 muốn bảo vệ gia tộc mình.
- Sọ Đá Quý 2 muốn thứ mà ông ta muốn. Nhưng ngươi, bên cạnh ta, ngươi muốn gì? – Có sự đổi khác trong giọng nói của Koh, điều gì đó… hừ, tôi không biết phải diễn đạt thế nào. Một thoáng phật ý, như muốn nói: “vì sao ngươi không tin ta?”.
- Tôi, dưới chân người, chỉ muốn điều mà ông ấy muốn, - tôi đáp.
- Nhưng ta thấy dường như ngươi muốn nhiều hơn thế.
- Tùy người, ở trên tôi, nói.
Im lặng.
Tôi đếm bốn mươi nhịp.
- Ngươi có thuộc về nơi này không? – cuối cùng bà ta hỏi.
Không, - tôi nghĩ thầm, - hoàn toàn không… Nhưng rồi tôi nhận ra không phải tôi nghĩ, mà tôi vừa nói ra câu ấy. Chết tiệt. Tôi liền phá bỏ phép lịch sự, ngẩng đầu nhìn lên. Bà ta đang nhìn tôi.
Bà ta nhìn thấy điều đó, - tôi nghĩ, -  bà ta thấy sự cô độc của mày, nó lênh láng khắp người mày như màu xanh trên người Smurf (Nhân vật hoạt hình có màu da xanh dương mà ở ta vẫn gọi là Xì-trum) vậy. Tôi lại nhìn xuống và ra hiệu: “tùy người, ở trên tôi, nói”.
- Vậy ngươi đến từ đâu, trước Bolocac?
- Tôi đến từ miền bắc, - tôi đáp.
Mình việc gì phải trả lời những câu này, - tôi tự nhủ, - sắp phát bực lên rồi đấy…
- Cách đây bao xa?
- Xa hơn từ đây đến Ix, - tôi đáp. Thôi chết, - tôi nghĩ, - mình có định nói thế đâu.
- Ngươi đến từ nơi xa hơn cả Biển Xương? (ý bà ta muốn nói  đến vùng sa mạc nằm ở phía bắc vùng hồ).
Tôi định ra hiệu “người nói sao cũng được” lần nữa, nhưng lại nghĩ thế này thì mình sắp thành thằng ngu xuẩn, hèn nhát, ti tiện, chuyên nói quanh co. Vì vậy tôi ra hiệu “vâng”.
- Ở đó như thế nào?
- Nó khác ở đây và khác Ix, - tôi đáp.
- Khác như thế nào?
- Rất khác, - tôi nói chẳng giống tôi chút nào.
- Nhưng nó khác hơn “rất khác” nhiều.
Tôi im lặng. Quái thật, - tôi nghĩ.
- Người nói đúng, - tôi đáp, - nó khác theo cách không thể vẽ lại được, - Nghĩa là không thể hình dung được.
Câu trả lời đó dường như khiến bà ta ngập ngừng một giây.
- Ai là người cha đầu tiên của ngươi?
Tôi lặng thinh. Chết dở, - tôi nghĩ, - bà ta đang đến rất gần rồi. Cũng chẳng có gì là lạ. Mày đang ba hoa không khác gì một con ả ngu xuẩn sau hai hơi banano (Một loại thuốc chiết xuất từ vỏ chuối có chất Bananadine gây kích thích thần kinh). Mẹ kiếp.
Nào Jed, ngậm miệng lại. Tôi cũng xoay xở được để không mở miệng trả lời.
Sự im lặng cứ kéo dài mãi. Một trăm hai mươi nhịp. Hai trăm nhịp. Cuối cùng, trái với suy nghĩ tỉnh táo của mình, tôi nhìn lên.
Ối giời. Tôi vội nhìn xuống.
Tôi nghĩ tôi vừa nhìn thấy vẻ đáng sợ trên nét mặt bà ta. Không giận dữ, nhưng đáng sợ.
Chết tiệt. Bà ta biết mày đang giấu diếm chuyện gì đó. Chuyện gì đó rất ghê gớm. Có lẽ bà ta đã để ý thấy vài chi tiết nhỏ trong điệu bộ của mày. Coi chừng đấy. Mày có thể mất tích ở chỗ này. Nhà Đại Bàng giàu thật, nhưng cũng chẳng có ảnh hưởng gì mấy ở Teotihaccán này đâu. Ngay cả khi Nhện Dệt Cầu Vàng đang gặp rắc rối về chính trị, họ vẫn có thể đập bẹp chúng mày như một con rệp.
- Người khói nào chiếu sáng khuôn mặt mẹ ngươi?
Tôi nói ngày đặt tên của mẹ Chacal. Tôi cứ có cảm giác thôi thúc muốn tuôn ra thêm, nhưng tôi đã dùng lưỡi mút một phần môi trên vào một lỗ hổng giữa hai miếng khảm răng nhô ra và mút mãi cho đến khi đau nhói, nhờ thế mà giữ được im lặng. Đó là mẹo của Chacal. Khỉ thật, có thứ chết toi gì trong cái thức uống của nợ ấy thế nhỉ? Nó hẳn phải là một chất gây phân ly não bộ, chất gì đó chiết suất từ cây hoa xô đỏ, thậm chí là tetrodotoxin (Chất gây ức chế hoạt động của các tế bào thần kinh) hoặc… ôi thôi, là gì thì là, mày có thể chế ngự được nó. Dễ thôi. Nhớ lấy, đặc điểm lớn nhất của thuốc “nói thật” là chúng chẳng bao giờ có tác dụng. Cùng lắm cũng chỉ khiến người ta nói ra hàng tràng không dừng được thôi. Vận hết chí khí lên. Và đừng có uống thêm ngụm nào cái món sô-cô-la nóng ấy nữa. Tôi cắn chặt môi. Oái.
Cô gái Chim Cánh Cụt lạch bạch đi qua ngang trước mắt tôi. Cô ta luồn một ngón tay chùn chũn của mình qua nút thòng lọng trên bức vách ngăn giữa Koh và tôi và bước sang bên cạnh. Bức vách cũng chuyển động cùng cô ta, xếp lại như một chiếc ác-coóc-đê-ông. Bây giờ, công nương Koh và tôi mới thực sự ngồi trong cùng một không gian và sự thay đổi đó khiến tôi giật mình, như thể không phải Chim Cánh Cụt vừa kéo tấm vách mà cô ta vừa lột bỏ quần áo của tôi. Lúc này, tôi mới nhìn rõ nửa đen trên khuôn mặt Koh không phải vết xăm mà là màu da tự nhiên. Bà ta bị chàm. Nửa mặt bên phải có màu của melatonin (Một loại hoóc-môn trong cơ thể động vật) tích tụ, tựa như nốt ruồi, tức là gần như đen kịt. Nửa trên khuôn mặt không phải màu xanh lam như trong bức vẽ của Sọ Đá Quý 2. Nó chỉ có màu da bình thường của người Maya, nhưng cũng như nước da của mọi phụ nữ quý tộc khác, nó trắng bệch vì không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình như cũng có một vài hình xăm, nhưng chỉ để phân định ranh giới giữa hai nửa. Đường hình xăm đó quá mịn và ngoằn nghoèo nên không thể là tự nhiên được. Bà ta có những đặc điểm dị hình, Sọ Đá Quý 2 đã nói thế. Đúng thật.Và ông ta còn nói rằng Koh có họ với Janaah’ Pacal, ahau của Lakamha, tức Palenque. Và ông ta có mười một ngón tay, phải vậy không? Có lẽ rối loạn sắc tố da ít nhiều liên quan đến tật thừa ngón tay theo cách nào đó. Thực ra cũng chẳng có gì là dị dạng lắm. Còn hơn chán tật nhô hàm (Một tật khiến hàm dưới nhô ra và phát triển nhanh hơn hàm trên. Dị tật này còn được gọi là “Hapsburg lip” do nhiều đời của hoàng tộc Hapsburg - Hoàng tộc cai trị nhiều lãnh thổ rộng lớn của châu Âu từ thế kỷ 15 đến thế kỉ 18 - đều mắc tật này). Hay bệnh khó đông máu của Hanover (Chứng bệnh được coi là di truyền lại từ tổ tiên hoàng tộc Hanover – từng cai trị vương quốc Anh, vương quốc Ireland, vương quốc Hanover và công quốc Brunswick Luneburg – cho các hậu duệ của họ. Theo nhiều lời đồn đại, chứng bệnh này còn liên đới đến bệnh parhyria, một chứng rối loạn hiếm gặp, khiến người bệnh ở giai đoạn cuối những biểu hiện dị dạng như ma cà rồng). Bà ta hít vào một hơi và tôi thoáng nhìn thấy hai chiếc răng cửa được nạm thứ gì đó như ngọc lục bảo.
Cô gái lùn buộc bức màn đã xếp lại vào tường rồi biến mất, cứ như là tan biến đi vậy, có lẽ là qua một cái hang thỏ nào đó của cô ta. Cặp mắt của Chacal tỏ một cử chỉ lễ phép rồi lại nhìn xuống thảm.
Koh hỏi:
- Ngươi chạm vào cha ngươi lần cuối khi nào?
Ngươi chạm vào mẹ ngươi lần cuối khi nào?
Người khói nào rắc tro lên người bà?
Bóng tối đến với bà khi nào?
Vì sao ngươi lang thang
Không ở lại dưới chân họ,
Bên bếp lò?
Tôi có cảm giác là lạ trong cổ họng. Không, trong ngực nhiều hơn. Mẹ kiếp, - tôi nghĩ, -  bà ta đang đọc ý nghĩ của mình. Đồ phù thủy. Tôi những tưởng mình đã che giấu kĩ lắm. Thế nhưng nãy giờ tôi chẳng hề cảnh giác và bây giờ bà ta đang rình chộp tôi. Nào, chậm lại. Đầu tiên phải nghĩ đã, rồi nghĩ lại, rồi hẵng nói.
- Thưa, người ở trên tôi, có rất nhiều lý do, - tôi đáp.
- Mẹ ngươi ở đâu, cha ngươi ở đâu?
Và khu vườn nhà ngươi ở đâu?
Bà ta hỏi mình câu này chưa nhỉ? – tôi phân vân. Tôi bắt đầu cảm thấy ong ong. Mày mụ mị đi rồi đấy, Jed – tôi nghĩ – định thần lại đi. Tôi mút mẩu da môi chặt hơn nữa. Vị máu nhàn nhạt chảy xuống lưỡi. Tôi không trả lời.
- Ngươi gặp chị gái, em gái thật của mình lần cuối khi nào?
Ngươi gặp anh trai, em trai thật của mình lần cuối khi nào?
Cánh đồng ngô nhà ngươi được đốt lần cuối khi nào?
Đã đốt sạch chưa?
Đã tra hạt, đã làm cỏ chưa?
Ai quét dọn kho thóc nhà ngươi?
Nó được lợp mái chưa?
Đã sạch sẽ để chờ vụ thu hoạch chưa?
Ai đuổi chim chóc?
Ai gói bánh ngô cho ngươi?
Ai hát tên ngươi ngoài quảng trường
Khi lũ trẻ vay quanh đống lửa?
Khi ngươi trở về với cái lưng đau
Ai là người xoa bóp nó bằng dầu bạc hà?
Ai ngồi chờ ngươi trước sân?
Tôi không trả lời được.
Tôi chưa từng khóc kể từ khi làm Chacal, thực ra, tôi không hề nhớ anh ta đã từng khóc bất cứ lần nào trong đời, kể từ những bài tập bóng hông đầu tiên. Ở nơi mà anh ta lớn lên, anh ta sẽ chết nếu anh khóc. Tôi chỉ biết anh ta thậm chí không thể bắt cặp mắt mình khóc được nữa. Anh ta đã đánh bật nó ra khỏi mắt mình. Nhưng chúng vẫn biết cái cảm giác sắp khóc, khi nước quanh con ngươi dâng lên nóng lên và nằng nặng. Quỷ bắt mày đi, - tôi nghĩ, - trấn tĩnh lại nào. Tôi nhìn trân trân vào cánh hoa phong lữ. Nó dài hơn những cánh hoa khác, ngỏng lên trên cái cuống cong queo, nhìn hệt như con cá ngựa.
- Ngươi muốn kể cho ta điều gì đó, - Koh nói. Hay chỉ là tôi nghĩ bà ta nói? Tập trung vào nào.
Tôi ngồi thẳng người lên và tiện thể liếc nhìn lên bà ta một cái. Nếu có thể chụp được ảnh bà ta lúc này, tôi cá rằng khuôn mặt vẫn bình thản như lúc trước. Nhưng ở ngoài, dường như bà ta đang nhìn tôi với vẻ thích thú, với sự thông cảm và gần như với một nụ cười. Dường như tất cả đều nằm trong đôi mắt. Hoặc trong dáng đầu hơi nghiêng xuống. Hoặc bà ta đang cố ý tiết ra pheromone (Hoóc-môn tỏa mùi kích thích phản ứng của đông loại)
- Còn điều gì đó khác bên trong ngươi, - bà ta nói.
Tôi cắn môi chặt hơn. Tùy người, ở trên tôi, nói – tôi ra hiệu. Tôi ngước mắt lên. Bà ta đang nhìn thẳng vào tôi. Như tôi đã nói, nhìn vào mắt nhau là cả một vấn đề đấy. Giống như trong phim Viên cảnh sát và một quý ông, khi Louis Gossett Jr. nói: “Đừng có nhìn chằm chằm vào tôi, anh lính mới! Nhìn lảng đi!”. Tôi lại nhìn xuống.
- Câu trả lời là cháu chắt chút chít của câu hỏi đấy, - Koh nói. Tôi đoán ý bà ta là nếu tôi không nói cho bà ta biết điều gì thì sao tôi lại mong bà ta đếm mặt trời giúp tôi.
- Tôi, dưới chân người, không giỏi hùng biện, nhưng tôi rất muốn thấy những mặt trời đó được đếm, - tôi đáp. Nghĩa là “tôi không muốn chuyện phiếm nhiều, tôi muốn bà bắt đầu chơi ngay đi cho được việc”.
- Ta qua nghèo túng để có thể đền đáp lại món quà của ngươi, - bà ta nói. Đại khái là “Hãy cầm lại những cái lông chết tiệt và mọi thứ khác của ngươi rồi cuốn xéo khỏi quán của ta đi”. Bà ta nhìn sang bên tay trái mình, tức là hướng tây, hướng của quá khứ. Tỏ ý: cuộc nói chuyện này là quá khứ, chúng ta xong việc rồi.
- Những mặt trời tôi muốn đếm không nhiều, và nó chiếu sáng cả người nữa, - tôi nói. Nghĩa là “Bà sắp toi rồi đấy, đồ phù thủy xấu xí. Số ngày còn lại của bà chỉ đếm trên đầu ngón tay nữa thôi, và nếu bà không tiếp tục màn biểu diễn này, chung ta sẽ cùng…”
Thế này chẳng khác gì cảnh ở lớp hai, khi thằng nào đó chộp lấy cái bút chì trên bàn sau lưng anh. Tôi nhìn lên. Bà ta cũng nhìn, nhưng lần này rất khác.
Những người luyện thú nói sự khác nhau giữa chó nhà và chó sói là chó nhà nhìn vào anh còn chó sói nhìn thấu anh. Con chó nhà nhìn vào mắt anh và nhận biết được cảm giác của anh. Nhưng bà ta không nhìn vào mắt tôi. Bà ta nhìn xuyên qua tôi.
Bà ta đe dọa mình đây, - tôi nghĩ. Nên biến khỏi đây thôi. Tôi bất giác nhổm người lên, chuẩn bị đứng dậy. Nhưng thay vì nhổm lên như bình thường, trọng tâm cơ thể tôi lại lắc lư nặng nhọc, óc a óc ách như cái bể bơm hơi đựng đầy bùn nhớt. Hai chân tôi đờ ra, tê dại, đau nhói. Chết rồi, toi rồi, - tôi nghĩ. Bà ta sắp… hay là mình lao vào tóm lấy cổ bà ta mà… không. Biết đâu có lính gác đang theo dõi. Cứ bình tĩnh mà ra về, có vội vã nhưng cũng đường hoàng. Tôi duỗi hai cẳng chân tê dừ ra, thật chậm rãi như thể tránh làm rung chuông báo động. Tôi nhổm người về phía trước, chống hai tay xuống sàn. Nào, đếm đến 3 nhé. Một, ha…
Koh hét lên một tiếng.
Hai mắt tôi bị hút chặt vào khuôn mặt bà ta. Nó đã dãn ra thành một nụ cười đáng sợ. Màng cứng nổi rõ quanh mống mắt và những miếng ngọc lục bảo khảm răng sáng lóe lên như một chuỗi mắt kép của côn trùng. Tiếng hét của bà ta lên bổng xuống trầm, chói tai như trong phim kinh dị, thể hiện sự sợ hãi và đau đớn cực độ, tiếng hét của người cảm thấy răng nanh của con báo đang cắm phập vào gáy mình. Tôi giật mình co người về vị trí cũ, hay đúng hơn tôi nghĩ là mình đã làm vậy, nhưng thực ra chẳng có chuyển động nào hết. Tôi nhận thấy mình vẫn đang ngồi nguyên tư thế như lúc trước. Tôi bị tê liệt.
Cảnh sát, họ được luyện cách quát “đứng im!” với uy lực đủ để người khác đứng sững lại. Nhưng vấn đề là họ không đứng lại lâu. Còn với tôi thì khác. Một sự kết hợp nào đó giữa chất độc trong món sô-cô-la và tiếng hét đã khiến tôi cứng đờ bất động, một phản ứng tự nhiên thường thấy ở những con thú có túi khi chúng nhìn thấy kẻ săn mồi và chưa thấy lối nào để chạy thoát.
- Hain chama (cầm lấy), - Koh nói.
Bà ta ngả người ra phía trước và chìa cánh tay mảnh khảnh ra. Bà ta cầm một hạt cây t’zee bằng ngón trỏ và ngón giữa, như lối người ta cầm quân cờ vây.
Bàn tay phải nắm lại của tôi hiện ra trước mắt tôi. Tôi dõi theo nó từ từ chìa về phía bàn tay Koh và xòe ra, lòng bàn tay ngửa lên trên. Cái hạt cây rơi xuống. Nó nắm lại và quay về chỗ của mình trên đùi tôi. Tôi nhìn lên. Hai trong số đốt sống cổ tôi kêu răng rắc thành tiếng.
Tôi ngồi lại tư thế cũ. Tôi thấy chóng mặt. Tôi nhìn xuống, rồi lại ngước lên. Nét mặt bà ta đã quay về trạng thái bình thản mặc định. Lạ sao, tôi không hề cảm thấy bực bội. Tôi chỉ thấy ỉu xìu xuống.
- Khi người ta tê dại, người ta có thể làm rất nhiều trò với người, - Koh nói. Ý bà ta là nếu muốn, bà ta có thể khiến tôi tê liệt lần nữa, rồi tra tấn tôi và bắt tôi khai ra mọi điều bà ta muốn biết. Có khối cách.
Tôi chưa từng nghĩ mình là người đặc biệt dũng cảm. Song… có lẽ do dây thần kinh của Chacal lại vào cuộc, hoặc có lẽ do tôi đã quá mệt nên tôi chỉ buông thõng hai từ:
- Bin el. (Bắt đầu đi).
Tôi nghĩ mình đã nói được câu đó với vẻ khá bất cần. Tôi lại thấy cái cảm giác gan lỳ, hay sôi sục, hay ngoan cường, hay gì gì đó, quay trở lại. Cứ việc lao vào đi, đồ phù thủy.
Bà ta không hề chớp mắt. Nét mặt bà ta có cái vẻ không thần sắc đến lạ kỳ, nói thế nào nhỉ, như Kenny Tran khi hắn vét sạch túi tôi trong trận chung kết giải Hold ‘Em năm 2010 tại casino Commerce.
- Actan cha ui alal, - cuối cùng, bà ta cũng lên tiếng. Câu ấy đại khái có nghĩa là “hãy cố thắng ván này”.
Hừ, có thể lắm, - tôi nghĩ. Và ngay trước khi tôi kịp có ý nghĩ đó, mọi thứ trong đầu tôi đã đảo lộn và sự thất vọng tràn lên. Hay ho rồi đây, - tôi nghĩ, - mình đã ngồi trong căn phòng này cả mấy tiếng đồng hồ và… quỷ tha ma bắt nó đi, mình sẽ đi được đến đâu kia chứ? Không ai tránh được ngày tận thế. Và tôi cũng chẳng trốn được đi đâu cho thoát cái khối u trong đầu. Tôi sẽ làm gì đây? Rình mò quanh Teotihuacán và tìm cách xoáy món thuốc chăng? Sang nửa Đỏ và hối lộ để xin một ít chăng? Không được đâu. Tôi sẽ bị lính nhà Bướm Đuôi Nhạn tóm cổ và pha thành món thịt băm. Chết tiệt. Có điều gì đó mách bảo tôi rằng – tôi ghét phải thừa nhận cái câu chuyện cũ rích về sự linh tính này, nhưng thực sự, thực sự có điều gì đó mách bảo tôi rằng – đó sẽ là kết cục mà tôi dễ nhận được nhất.
- Người đang bị đầy ải ở đây, - tôi nói, - và tôi đến để giúp người. Tôi biết những điều mà người không bao giờ có thể tự tìm ra. Tôi biết thành phố Lưỡi Dao chỉ còn lại rất ít mặt trời nữa thôi.
- Vậy tên ngươi là gì? – bà ta hỏi.
Tôi hơi rùng mình, và, vì một lý do nào đó, có lẽ do giọng nói của bà ta, tôi nghĩ bà ta nhìn thấy cả gai ốc đang sởn lên trên cánh tay tôi. Suốt thời gian ở đây, tôi đã tiếp xúc với những kẻ lúc nào cũng dùng đến cái mà họ nghĩ là phép mầu. Nhưng tôi vẫn chưa gặp bất cứ thứ gì thực sự đáng gọi là phép mầu – trừ cờ Hiến tế, cái đó không tính – hay ngoại cảm, hay thậm chí chỉ là linh tính hay không trùng hợp ngẫu nhiên khó giải thích. Và tôi tin chắc rằng việc Koh làm tôi bất động không thể là siêu nhiên được. Nhưng nó đủ để khiến tôi thấy rờn rợn.
Bình tĩnh nào, Jed, - tôi tự nhủ với mình không biết là lần thứ bao nhiêu, - bà ta không phải phù thủy đâu. Tôi liếc nhìn bà ta. Nếu bà ta có ngạc nhiên thì điều ấy cũng không được thể hiện trên khuôn mặt. Cặp mắt bà ta xoi mói khắp người tôi. Tôi lại nhìn xuống đất.
Thôi, - tôi nghĩ, - cứ đổ mẹ cái con súc sắc này đi.
- Caba ten Joachim Carlos Xul Mixoc DeLanda, - tôi trả lời. Cái tên tiếng Tây Ban Nha nói ra ở đây nghe thật kì cục. Tôi nghĩ mình nhìn thấy một tia sáng ánh lên trong sâu thẳm cặp mắt Koh, chắc tôi đã thu hút được sự chú ý của bà ta.
- Mặt trời nào chiếu sáng lễ đặt tên của ngươi?
- Khỉ Rú 11, Trắng 4, unial thứ năm, tun thứ nhất, k’atun mười tám của b’ak’tun mười bà.
Im lặng, nhưng không lâu như các bạn nghĩ.
- Mẹ ngươi là ai? – bà ta hỏi tiếp, - Và cha ngươi là ai?
- Mẹ tôi là Flor Tizac Maria Mixoc DeLanda, người Ch’olan, còn cha tôi là Bernardo Koyi Xul Simon DeLanda, người T’ozil.
- Vậy ai là người khói, người bảo trợ cho ngươi?
Tôi cho bà ta biết tên hai vị thánh bảo trợ của Jed: Santa Theresa và Maximón. Tôi đọc tên ông ta theo tiếng Maya là Mam.
- Người rời sân trước nhà mình khi nào?
- Imix 13, Mol 14, unial thứ năm, tun mười một, k’atun mười tám của b’ak’tun mười ba, - tức là ngày mùng 2 tháng 9 năm 1984, ngày cha mẹ tôi đưa tôi đến bệnh viện Xacan.
Im lặng.
Hừ, tốt lắm, Jed, - tôi nghĩ, - đây là lần thứ hai trong chuyến đi này mày bầy hết ruột gan cho người khác xem đấy. Nhưng một miếng to có độc trộn với một mẩu nhỏ thuốc “nói thật” khiến tôi khó lòng mà giữ mình kín đáo được…
- Ngươi đến đây bằng cách nào? – Koh hỏi.
- Tôi đến đây trên một thác ánh sáng, - tôi đáp, - đúng hơn, tôi chính là thác ánh sáng đó.
Mình đang luyên thuyên cái khỉ gió gì thế này, - tôi nghĩ, - phép ẩn dụ ấy không đạt rồi. Ôi thôi, kệ nó đi.
- Vậy.
Ở thời gian của ngươi
Con cháu chúng ta không được no đủ?
Người khói của chúng ta không được no đủ?
Trong giọng nói của Koh có vẻ gì đó – hừm, tôi hơi ngần ngại nói đến điều này vì nó làm bà ta thành kẻ yếu đuối, mà, chí ít là đến lúc này, bà ta tỏ ra là hoàn toàn ngược lại, và thực sự, được ngồi cùng bà ta trong một căn phòng khiến tôi thấy vững dạ lạ lùng, như thể đang cầm trong tay một con dao rựa sắc hay một khẩu súng nòng lớn – nhưng đúng là giọng bà ta buồn rầu lạ thường, như thể bà ta đã chứng kiến nhiều cảnh ngộ trên đời hơn bất cứ người nào, chứ đừng nói là những người ở tầm tuổi bà ta, như thể bà ta đã chứng kiến hàng triệu người rơi từ sự vui sướng của trẻ thơ xuống nỗi thất vọng chưa từng thấy, và cuối cùng, xuống tận nỗi sợ hãi hoảng loạn.
- Người ở thời các ngươi còn hát tên của họ không?
Còn xức nước thơm cho xương cốt họ không?
Những người khói của chúng ta còn được cúng máu nô lệ không?
Và họ còn bảo vệ ngươi không?
- Sự thật là những người cùng thời tôi đã ít nhiều quên đi nghĩa vụ của mình, - tôi đáp. Những lời này khi nói ra nghe cứ khập khà khập khễnh, thậm chí khập khễnh hơn cả khi nói bằng tiếng Anh. – Nhưng một vài con cháu người vẫn dâng cúng cho người khói trên bàn thờ và trên đỉnh núi. Tuy không còn nhớ tên tuổi ai nhưng họ vẫn thờ cúng tất cả.
- Vậy họ cúng bằng gì?
À…, - tôi nghĩ, - bằng gì thì cũng không phải bằng người.
- Đa phần họ trở nên nghèo túng, - tôi đáp.
- Nghĩa là họ để tổ tiên mình đói khát.
- Họ làm những gì có thể.
- Vậy là thế giới của người đang thối rữa dưới chân người.
Phải đấy, - tôi nghĩ bụng, - thế kỷ hai mốt đúng là đang sụp đổ. Bỏ lại người nuôi chim ưng, lê lết tới Bethlehem (Thành phố Israel, mục tiêu của những cuộc thánh chiến thời Trung Cổ. Câu này ý nói người ta bỏ lại thú vui săn bắn thời bình để lao vào chiến tranh như các hiệp sĩ Thập Tự Chinh), mọi sự tồi tệ đên mức thứ tồi tệ nhất cũng không bị kết tội.
- Có lẽ thế - tôi đáp, - nhưng không nhất thiết phải như thế.
- Vậy tại sao ngươi lại ở đây? Ngươi đi theo đường của ai?
Ý bà là tôi làm việc cho ai. Tôi định trả lời là Sọ Đá Quý 2 nhưng lại nghĩ sao phải lặp lại tất cả những chuyện đó một lần nữa, thế là tôi đáp: “Marena Park”.
- Vì sao ahau của thành Ix, Maran Ah Pok, quyết định phái ngươi đến đây?
- Chúng tôi nhìn thấy người trong một cuốn sách, - tôi đáp, - một cuốn sách ghi lại ván cờ Hiến tế mà người đã chơi vào ngày Chúa tể 9, Sum họp 13, tồn tại được đến k’atun của chúng tôi. Chúng tôi đọc nó vào ngày Báo Đốm 2, Xương vàng 2, k’atun mười chín, b’ak’tun mười ba.
- Hai mặt trời trước khi phù thủy reo rắc lửa từ đá vỏ chai?
- Phải.
- Và đó là ngày ahau của thành Ix ra lệnh cho ngươi tới đây?
- Không, nhiều ngày sau đó, -  tôi đáp. Tôi nói thêm rằng chính tôi đã xin Marena cử tôi đi.
- Nhưng bà ta đã cho ngươi xem cuốn sách vừa kịp lúc.
Tôi đáp rằng chẳng hề vừa kịp bởi khi đó đã quá muộn để trở tay và hàng ngàn người đã chết.
- Nhưng vừa kịp để ngươi biết rằng mặt trời không lành sắp tới.
- Phải.
- Vậy rất có thể ahau của thành Ix, Maran Ah Pok, đã có ý định gửi ngươi đến đây trước khi cho ngươi xem cuốn sách.
- Tôi đã phải van xin bà ta.
- Ngươi mất bao lâu để cầu xin?
Tôi nhớ lại và trả lời: “không lâu lắm”. Thực ra, tôi nghĩ chỉ khoảng một phút rưỡi.
- Vậy có thể đó chính là câu trả lời cho ngươi.
Tôi ngồi lại và suy nghĩ. Mày biết mà, Jed, - tôi tự nhủ, - bà ta có thể đúng lắm chứ. Mày là thằng ngu. Mày cố tỏ ra thông minh và thạo đời, nhưng thực ra mày chỉ là loại ngờ nghệch cả tin. Có lẽ Marena, và Lindsay Warren, và Michael Mặt Dái, và Taro, và tất cả lũ ấy đã lợi dụng mày ngay từ ngày đầu tiên. Có lẽ Sic chưa từng muốn quay về đây. Đó chỉ là mánh khóe để kích cho mày ghen tị thôi. Thảo nào tiếng Ch’olan của hắn chối đến vậy, hắn biết là hắn chẳng cần đến nó.
Tuy vậy, tôi không thực lòng muốn tin chuyện đó. Tôi khẽ lắc đầu – không quá lộ liễu, tôi hi vọng thế - và cố suy nghĩ thật tỉnh táo.
- Và ngươi muốn gặp người đếm mặt trời đã chơi ván cờ đó.
Tôi nói rằng chúng tôi không thực sự hiểu điều gì sẽ xảy ra vào ngày đó.
- Vào ngày đó, bốn trăm đứa trẻ sẽ cho chúng ta biết chúng muốn gì, - Koh nói.
Im lặng. Đừng nói gì cả, - tôi tự nhủ, - cứ chờ đã.
Nhưng Koh cũng không nói gì thêm. Không bằng những người bị thẩm vấn với độ rắn mặt trung bình, cuối cùng, tôi không chịu đựng được.
- Cuốn sách nói rằng sẽ có nhiều hơn trước đây, nhưng vẫn không có ai cả.
- Đúng thế, - Koh ra hiệu.
- Và chúng sẽ đòi thứ gì đó, phải không?
- Chúng sẽ đòi thứ mà ta không thể cho.
Im lặng.
Thôi được rồi, - tôi nghĩ, - mình nên hỏi thẳng thì hơn.
- Con Ma Róc Thịt đó là ai?
Ta không biết – Koh ra hiệu.
- “Tất cả mặt trời của những lễ hội và tất cả mặt trời của sự khổ đau” nghĩa là sao?
- Mọi sinh vật sống có nhiều ngày khổ đau hơn lễ hội.
- Nghe cũng hợp lý, - tôi ra hiệu và hỏi tiếp: - Vậy nơi dành cho sự phản bội là gì?
- Đó là những ngày không tên, - Koh đáp. Theo nghĩa đen, câu ấy ám chỉ năm ngày nhuận cuối cùng không được đặt tên trong năm dương lịch Maya. Nhưng trong ngữ cảnh này, cần hiểu là “một nơi đồng không mông quạnh”, chỉ có điều là về mặt thời gian chứ không phải địa điểm. Tức là, nó không xảy ra trong cùng một dòng thời gian – hay cùng một chiều thời gian – với tất cả các sự kiện khác. Một dạng thời gian không được tính, giống như những khoảng thời gian chết trong một trận bóng.
Im lặng.
- Và lấy hai từ mười hai thì được Mèo Rừng 1? – tôi hỏi.
- Không, đó là một việc Mèo Rừng 1 đã làm, - Koh đáp.
- Tôi không hiểu.
- Mèo Rừng 1 cũng không giải thích rõ.
- Người đã nhìn thấy gì vào mặt trời đó?
- Ta không nhìn thấy gì cả, - bà ta đáp, - ta nghe được những điều đó từ Mèo Rừng 1.
- Người đã đấu ván cờ đó cùng Mèo Rừng 1? – tôi hỏi. Như tôi đã từng nhắc đến, Mèo Rừng 1 là ông tổ của thị tộc Mèo Rừng, người đã khai phá mạch nước ngọt của thành Ix và bóc lớp thịt gỗ khỏi những người câm bị dìm dưới nước vào những ngày tồn tại cuối cùng của mặt trời thứ ba.
Koh ra hiệu “phải”.
- Lúc đó ông ta ở trong điện thờ trên kim tự tháp của nhà Mèo Rừng phải không?
- Họ đã đưa ông ta tới một cung điện bí mật, - Koh đáp.
Ý bà ta là họ đã đưa xác ướp của ông ta từ trên đỉnh kim tự tháp xuống để đấu cùng bà ta. Dĩ nhiên, ông ta phải nói năng và di chuyển quân cờ thông qua một người thứ ba.
Hừ, đáng đời mày vì không đoán ra được điều này, - tôi tự rủa. Nghĩ lại thì quả là nhân vật thứ hai trong cuốn Thư tịch nhìn khá kỳ quặc. Tôi nghĩ tôi đã kể điều này, hoặc là chưa: xác ướp là cả một vấn đề trọng đại ở xứ này. Nhưng không như các xác ướp Ai Cập, chúng thường chỉ là một cái xác giả bằng gỗ hoặc bột ngô, đắp quanh một cái sọ và một vài chứ không phải tất cả các khúc của bộ xương. Thông thường, chúng được đeo một chiếc mặt nạ làm từ da thuộc của chính người quá cố, và đôi khi còn đeo thêm nhiều mặt nạ khác bên ngoài chiếc mặt nạ đó. Chúng được quấn đủ thứ phẩm phục và dây rợ. Và khác với xác ướp Ai Cập, chúng không phải nằm trong các quan tài. Chúng ngồi dự các bữa tiệc và các cuộc hội họp, được mang theo đến các lễ hội và thậm chí tham gia các trận đánh. Chúng đi khắp nơi, và dĩ nhiên, phát biểu rất nhiều, thông qua các người trung gian.
- Người, ở trên tôi, có thể hạ cố kể thêm một vài chi tiết? – tôi ngỏ lời.
- Không có gì để kể thêm về ván cờ. Cuốn sách của ngươi đã đầy đủ hết.
- Nhưng đôi khi người ta có thể dụ con mồi theo đường cũ một lần nữa, - tôi nói. Đó là một câu ngạn ngữ, nhưng ý của tôi là: “Người có thể chơi lại đoạn cuối của ván cờ đó và đoán lại một lần nữa”. Cách làm này cũng tương tự như trong cờ vua, anh có thể chơi lại từ nước ngay trước nước cuối cùng quyết định phần thắng để thử xem bên thua có thể lật ngược thế cờ.
- Điều đó không thể thực hiện được, - Koh đáp, - Mèo Rừng 1 vẫn chơi với những quả bóng sống. – Tôi nghĩ mình đã nhắc đến điều này rồi, “những quả bóng” cũng có thể hiểu là “những quân cờ”. – Có lẽ không ai có thể chơi một ván cờ lớn đến thế lần nữa. Kết thúc.
Chết tiệt, - tôi nghĩ. Hình như ý bà ta là nghệ thuật chơi cờ Hiến tế đang dần thất truyền. Và ở đây, khi ai đó nói “kết thúc” nghĩa là anh đừng hòng moi thêm được tí thông tin nào từ họ, dù anh có tra tấn họ đi chăng nữa. Mặc dù anh có thể cứ tra tấn họ như một nghi thức xã giao.
Koh nhìn sang cây hương đồng hồ. Nó đã cháy hết. Cuộc tiếp kiến coi như chấm dứt. Mẹ kiếp. Tôi cứ nghĩ thời xưa người ta thong dong lắm. Thế mà bấy giờ tôi phải cố nấn ná để được ngồi thêm vài phút với bà ta, hệt như một tay nhà báo hạng hai phỏng vấn Madonna. Koh quay người lại, mắt nhìn qua đầu tôi, theo đúng phép tắc. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp. Các bạn hẳn cũng nghĩ chuyện này chí ít cũng phải có tí gì hay ho chứ. Có phải ngày nào trong cả một k’atun người ta cũng gặp được Buck Rogers (Nhân vật chính của một loạt truyện tranh vui về du hành vũ trụ) đâu, song tôi đoán bà ta không thể làm gì ngay lúc này. Thời gian Im lặng bắt đầu, có hàng đống người xin diện kiến giàu có hơn đang xếp hàng ngoài kia còn hai Giáo hội lớn thì đang lăm le tiêu diệt đền thờ Rắn Chuông, thời gian thực sự là…
Được rồi. Bình tĩnh lại đi. Thử lại lần nữa.
- Tôi biết chính xác thời điểm Người Nuốt ánh Sáng tấn công mặt trời sau chín ngày nữa, - tôi nói, - nó sẽ là tám trăm lần hai mươi cộng chín lần hai mươi cộng một nhịp sau tia sáng mặt trời đầu tiên.
Như tôi đã từng đề cập, mọi người đếm mặt trời ở Mesoamerica đều biết sớm ngày hôm đó sẽ có hiện tượng nhật thực. Nhưng kể cả những người thông thái nhất, những người đứng đầu giới thiên văn học ở Teotihucán, ở Ix, lẫn ở Palenque đều không dự đoán được chính xác thời điểm. Họ thậm chí không chắc đó là nhật thực toàn phần hay một phần. Vì để biết điều đó, người ta cần kính viễn vọng, phép tích phân và vi phân.
- Người nào biết thì vẫn biết, - Koh đáp. Đó là một kiểu thành ngữ không dịch được, nhưng về cơ bản nó có nghĩa là “chúng ta phải chờ xem thôi, phải thế không?”, ý rằng hãy cho ta biết điều gì mà ta có thể dùng ngay lúc này đi. Bà ta có lý.
- Mặt trời sẽ bị che khuất trong mười chín lần hai mươi và tám nhịp, - tôi nói, - tiếp đó, sau bốn mươi mốt lần hai mươi và mười tám nhịp, nó sẽ trở lại như trước.
Im lặng. Bà ta không ném tôi ra cửa nên tôi cứ nói tiếp.
- Chỉ có điều, thực ra không có gì nuốt mặt trời cả. Chỉ là Nữ thần Thỏ Vấy Máu đi vào giữa mặt trời và trái đất (Koh gật đầu thờ ơ, ý là bà ta biết điều đó rồi) và Thỏ Vấy Máu là một quả cầu với một mặt luôn quay về phía chúng ta, còn mặt trời là một quả cầu bốc cháy, giống như quả bóng hông chơi ban đêm; Người Chế Ngự Mặt Trời và Người Báo Tin Của Mặt Trời (Ý nói sao Kim, ngôi sao vừa được gọi là sao Hôm vừa được gọi là sao Mai) chỉ là một (bà ta cũng gật đầu khi nghe điều này) và nó cũng là một quả cầu, và tầng thứ không (tức Trái Đất) cũng là một quả cầu, nó giữ chúng ta trên mình nó như một hòn đá nam châm lớn hút các hòn nhỏ. Những đốm lửa xì gà như Iztamna, Ixchel và Hunaphu 7 cũng chỉ là những quả cầu, tất cả đều lao quanh mặt trời.
- Nhưng chúng có rơi xuống đâu, - bà ta nói.
A ha, - tôi reo thầm,- mặt nạ rơi xuống rồi. Nữ Thần Băng Giá té ra cũng có quan tâm đến vài điều.
- Chúng đang rơi, - tôi đáp, - nhưng chúng còn phải rơi tiếp một khoảng cách rất xa nữa mới chạm được vào mặt trời. Chúng sẽ tiếp tục rơi thêm bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm b’ak’tun nữa.
Mong sao điều này làm bà ta sửng sốt, - tôi nghĩ, - quân bài đẹp nhất của mình rồi đây.
Tôi vươn người ra phía trước - rất trái phép lịch sự - và với lấy một cái bát tròn, nông trên chiếc mâm đựng đồ đất nung đặt gần bếp lò. Tôi kéo cổ áo choàng lên miệng, dùng răng căn đứt một viên đá tròn màu xám, dứt dứt sợi dây buộc và thả nó vào cái bát. Tôi cầm bát lên và xoay viên đá quanh bát. Nó hơi lẩy bẩy nhưng tôi cứ tiếp tục bài diễn thuyết.
- Phần trung tâm của chiếc bát giống như mặt trời, - tôi nói, - và chúng ta đang đứng ở một bên của viên đá. Khi chúng ta quay quanh như thế này, chúng ta tưởng mặt trời chuyển động. Nhưng thực ra chính chúng ta chuyển động.
- Vậy ngươi, bên cạnh ta, nói rằng mặt trời nằm ở đáy chiếc bát ngọc lam?
- Không, không có chiếc bát nào cả. Và không có các tầng trời. Bầu trời chỉ là gió trên cao thôi. Và thực ra, chúng ta không quay quanh nó theo một đường tròn hoàn toàn. Chúng ta chuyển động theo hình giống như quả trứng ngỗng.
Tôi lại ngả người ra đằng trước – mất lịch sự quá thể, nhưng tôi hy vọng chúng tôi đã qua giai đoạn phải giữ gìn phép lịch sự đến thế - và dùng cẳng tay gạt một nhát đống cánh hoa sang bên cạnh, dẹp được một khoảng trống hình lưỡi liềm cụt trên tấm thảm cói trắng bện rất đẹp.
- Vòng tròn nhỏ này là Mặt Trời Thứ Tư, - tôi nói, - quả bóng này là Người Chế Ngự Mặt Trời, cũng là Người Báo Tin Của Mặt Trời, quanh xung quanh mặt trời theo vòng tròn rộng hơn này. Tôi phải với người ra lấy thêm bồ hóng đến sáu lần trước khi hoàn thành bức vẽ.

chap50
Dĩ nhiên, bản phác họa của tôi rất sơ sài, nhưng vẫn có thể hiểu được.
- Tầng thứ không nằm ở đây, - tôi vừa nói vừa vẽ một ký tự hình con mắt (hoặc con hàu) lên phía ngoài cùng bên trái. – Còn đây là điểm xa nhất của Người Chế Ngự Mặt Trời. – Tôi vẽ một ký tự biểu hiện sao Hôm tại điểm 11 giờ trên hình tròn lớn và đánh dấu chấm bên cạnh.
Tôi tưởng Koh định nói gì đó, nhưng bà ta không nói gì.
- Đây là vị trí của Người Chế Ngự Mặt Trời vào đêm cuối cùng, - tôi vẽ một ký tự phía dưới, bên phải hình thứ nhất và đánh hai dấu chấm bên cạnh.
Koh nhìn chăm chăm vào bức vẽ. Bà ta chẳng nói câu gì. Hình như tôi đã nhắc đến ở đâu đó rằng đúng là lịch của người Maya nổi tiếng chính xác, nó tính số ngày theo mặt trời chính xác hơn cả lịch Greogry khi chưa chỉnh sửa. Nhưng họ chưa có thuyết nhật tâm, tuy qua cách Koh tiếp thu vấn đề này, tôi đoán bà ta và những nhà thiên văn Maya giỏi nhất cũng có ý niệm mơ hồ về nó.
- Và điểm thứ ba này là vị trí của quả cầu khi xuất hiện vào buổi sáng đầu tiên, khi nó được gọi là Người Báo Tin Mặt Trời, - tôi vừa nói vừa di chuyển nó ngược chiều kim đồng hồ. – Còn đây là vị trí xa nhất của nó, vị trí vào buổi sáng cuối cùng. Sau đó, nó sẽ bị khuất sau mặt trời trong vòng năm mươi ngày, rồi lại xuất hiện lại ở đây, với tư cách là Người Chế Ngự Mặt Trời. Tổng cộng là mười một nhân hai mươi cộng bốn ngày và chín mươi mốt nhân hai mươi cộng năm nhịp. – Tôi vẽ ký tự thể hiện số 6 cạnh hình vẽ cuối cùng. Tôi bỏ qua các điểm giao hội với các hành tinh khác. Sao phải dài dòng chứ?
Tôi dừng lại.
Khoảng thời gian dừng kéo dài mãi.
Ngon rồi, - tôi nghĩ. Với đám người này, nếu có thứ gì anh luôn có thể trông cậy thì đó chính là một nền tảng kiến thức vững chắc về môn thiên văn bằng mắt thường. Dù gì bà ta cũng là một người đếm mặt trời. Và người đếm mặt trời nào cũng muốn biết cái gì đó hơn người thường. Ngay cả khi sự tiến bộ không được tán thành – tức là những thứ mà người da trắng xưa kia coi là sự tiến bộ - thì vẫn cứ có vô số sự tiến bộ nảy sinh từ sự ganh đua, một cách tự nhiên và không thể ngăn cản được. Người đếm mặt trời là những người lao động tích cực và họ luôn tìm tòi những điều mới. Không phải chỉ để dự báo được cơn mưa đầu mùa chính xác hơn đồng nghiệp ở thành phố bên cạnh, ví dụ thế, mà để trao đổi với nhau. Chẳng hạn, trong trường hợp của Koh, bà ta cần chia sẻ những hiểu biết kiểu như thế này với các nữ tư tế khác của Nhện Dệt Cầu Vàng để tất cả cùng sử dụng sự chính xác nhỉnh hơn một chút làm quân bài thương lượng trong cuộc xích mích với hai Giáo hội lớn.
Cuối cùng, Koh lên tiếng:
- Vậy ý ngươi là việc Lợn Cỏ 2 bước ra khỏi đám rước và quay về hang động của mình trên đường trắng cũng là hiện tượng tương tự? (và ta đang nói về sao Hỏa).
- Ông ta không quay về đâu cả, - tôi đáp, - chỉ là chúng ta thấy thế, bởi mặt đất dưới chân chúng ta chuyển động. Đúng là Lợn Cỏ 2 di chuyển tương tự như Người Báo Tin Mặt Trời. Nhưng trong khoảng thời gian dài hơn vì nó ở xa mặt trời hơn chúng ta.
- Và Người Báo Tin Mặt Trời thì ở gần hơn?
- Người Báo Tin Mặt Trời ở gần hơn.
- Và ngươi nói Mặt trời lớn hơn tầng thứ không?
- Lớn hơn bốn trăm của bốn trăm lần, - tôi đáp, - và nếu người đi bộ đến mặt trời, tuy chuyện đó là không thể, ta hãy nói là người bay đến đó với tốc độ bằng tốc độ đi bộ, thì sẽ mất chín trăm lần bốn trăm b’ak’tun.
Koh nhìn vào tấm biểu đồ, tính toán. Bà ta đang trải qua cả một cuộc cách mạng đây, - tôi nghĩ. Giống như Copernicus (Nhà thiên văn học đầu tiên đưa ra học thuyết nhật tâm – mặt trời là trung tâm của hệ mặt trời. Warmia là thành phố nơi ông sống, làm việc và qua đời) ở Warmia. Giống Tycho Brahe (Nhà thiên văn học người Đan Mạch thể kỷ 16, ông ta bị cụt mất một phần mũi trong một trận đấu kiếm), rụng mất mũi chỉ vì chõ nó vào không gian. Giống Johannes Kepler (Nhà thiên văn học nổi tiếng với định luật về chuyển động thiên thể). Giống Gallileo Lập Dị. Chờ đấy, cho đến khi tôi chỉ cho bà thuyết tương đối rộng, - tôi nghĩ, - lúc ấy bà sẽ đập nát cái bàn tính của mình. e = babes3 (Đây là một cách nói nhại công thức e = mc2 trong thuyết tương đối hẹp, vì vậy, người dịch xin giữ nguyên bản).
- Vậy là những người ở thời gian của ngươi biết mọi thứ, - cuối cùng bà ta cũng nói. Tôi phải ghìm một cái giật mình, vì bà ta đã im lặng quá lâu.
- Không hẳn là tất cả mọi thứ, - tôi ra tín hiệu. – Nhưng họ đang… họ sẽ nghiên cứu để biết hết mọi thứ.
- Và tất cả họ đều là những nhà quý tộc đầy quyền lực? (nghĩa là: có phải tất cả họ đều giàu có và đang cai trị).
- Không, rất nhiều trong số họ là người ở nhà tròn. Tuy nhiên, đa số họ giàu hơn nhiều so với những người ở nhà tròn thời này. Thức ăn nhiều đến mức ngay cả những kẻ không có bếp lò cũng béo. Hầu hết người ta sống được ngoài ba k’atun. Chúng tôi đi trên không trong những con thuyền biết bay khổng lồ bằng đồng. Chúng tôi có những cây đuốc lạnh chạy được một trăm lần hai mươi đêm và những thứ vũ khí có thể giết chết được hàng trăm lần hai mươi người ở khoảng cách một trăm lần hai mươi ngày đường. Chúng tôi nói chuyện và nhìn thấy mặt nhau khi ở cách nhau rất xa, qua những dải ánh sáng vô hình. Từ trước khi tôi ra đời, mười hai người đã lên được quả cầu mặt trăng trên một chiếc thuyền. Chúng tôi đông tới bốn trăm lần hai mươi của bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi người. Chúng tôi nhìn thấy bên trong người mình mà không phải mổ ra. Chúng tôi làm ra những vật còn thông minh hơn cả chúng tôi. Chúng tôi lặn xuống đáy biển mặn, ở đó nhiều ngày và trở về nguyên vẹn.
- Nhưng các ngươi đã quên những điều quan trọng nhất, Koh nói, - vì vậy các ngươi đến đây. Đúng chứ?
Tôi không trả lời ngay. Hừ, sao cũng được. Tôi ra hiệu “phải”.
- Vì các ngươi, ở thời của các ngươi, đã quên mất tổ tiên mình, - bà ta nói.
Tôi ra hiệu rằng “không hẳn thế”.
- Nhưng ngươi biết thành phố Lưỡi Dao còn nhận đồ tế cúng trong bao nhiêu ngày nữa? (tức là Teotihucán còn tồn tại bao nhiêu ngày nữa).
Đồ phải gió.
- Chúng tôi không biết điều đó, - tôi đáp.
Bà ta hỏi vì sao. Nếu tôi đến từ b’ak’tun thứ mười ba và biết nhiều đến như vậy thì sao tôi lại không biết chính xác cái ngày ấy.
Tôi nói với bà ta rằng, đến thời tôi được sinh ra, hầu hết sách vở của thế giới bà ta đang sống đây đều bị tiêu hủy, một vài cuốn sóng sót được thì không cho biết ngày tháng. Tôi ra sức giải thích thế nào là các nhà khảo cổ học, và họ xác định ngày tháng bằng cách nào, và rằng họ đã tính toán được thời điểm thành phố bị bỏ hoang vào khoảng k’atun thứ mười một, mười hai, hay mười ba gì đó của b’ak’tun này, tức là khoảng từ năm 650 đến 710 Công nguyên, nhưng không xác định được chính xác hơn, - tôi giải thích.
Lại im lặng. Bà ta chăm chú nhìn bức vẽ.
Tôi không nói gì thêm ít ra câu chuyện cũng đã dễ nói hơn lúc trước. Cảm giác cứng đơ đang mất dần.
Koh rút một cái phất trần đuổi ruồi trên giá và để nó trước đùi. Thế có nghĩa là cuộc tiếp kiến đến đây kết thúc.
- Có lẽ ta và ngươi, bên cạnh ta, sẽ thỉnh ý sọ một lần nữa sau một giỏ mặt trời, khi Người Nuốt ánh Sáng đã bị xua đi, - bà ta nói.
ĐỒ CHẾT TOI, - tôi nghĩ. Không, phải nói là “tôi đang gầm rít lên trong bụng”. Đồ phù thủy. Có lẽ tôi nên biến thôi. Tôi nên ra đường mà kiếm cái thứ chết tiệt đó, còn hơn là cứ quanh quẩn như thằng ngớ ngẩn ở đây suốt…
Không. Phải bám dai dẳng vào. Biết đâu đấy, có khi bà ta chỉ ra vẻ thế với mày để moi thêm thôi. Dấn thêm một bước nữa nào.
- Nhà Nhện Dệt Cầu Vàng sẽ không tồn tại được lâu nữa, - tôi nói, đánh liều xóa bỏ phép lịch sự, - chúng tôi không biết là bao lâu, nhưng chắc chắn không lâu.
- Ta, bên cạnh ngươi, đã biết điều đó lâu rồi.
- Sọ Đá Quý 2 dành cho người, và dòng tu của người, một nơi ẩn náu ở Ix.
Koh hơi nhúc nhích người. Tôi nghĩ bà ta hơi ngẩng đầu lên, như lối người ta bất ngờ nghe thấy điều gì đó, nhưng có khi chỉ là tôi tưởng tượng ra. Bà ta không nói gì.
Mẹ kiếp, - tôi rủa thầm. Thế là đi đời cái phương án A. Sọ Đá Quý 2 đã nhắc rằng tôi nên chờ cho đến khi bà ta ngỏ lời nhờ vả, rồi giả vờ nhượng bộ, bằng không bà ta sẽ nghĩ đây là một trò lừa đảo.
Bà ta lại nhúc nhích. Thoạt tiên, tôi tưởng bà ta định đứng lên bỏ đi, nhưng thay vào đó, bà ta nói:
- Vậy ngươi, bên cạnh ta, cuộc rằng Sọ Đá Quý 2 sẽ thắng trận bóng hông với nhà Mèo Rừng? – ý bà ta là bà ta nghĩ nhà Đại Bàng sẽ bị Mèo Rừng đánh bại, một cách đường hoàng hoặc không và sẽ phải chạy khỏi Ix.
- Ma’ lo’ yanil (chuyện đó chẳng ảnh hưởng gì), - tôi đáp, - dù thắng hay thua, nhà Đại Bàng cũng sẽ ở lại, nhà Mèo Rừng sẽ phải đi.
Ý tôi muốn bà ta hiểu rằng kiến thức siêu việt của tôi sẽ giúp Sọ Ðá Quý 2 có hỏa lực, ðủ ðể hạ bệ nhà Mèo Rừng.
Hẳn các bạn cũng đoán ra, lại một khoảng thời gian im lặng kéo dài mãi không dứt. Hừ, chí ít bà ta cũng không lải nhải như những con vẹt tầm thường khác.
- Ngươi đến đây vì Người Chèo Xuồng chứ không phải vì ta, - bà ta nói.
Tôi không biết phải trả lời làm sao. Thôi rồi, - tôi nghĩ, - sắp bị tống cổ rồi. Lại quay về số không.
Nhưng Koh lại nói:
- Người ở thời ngươi đã quên mất cách lập một chu kỳ mới.
Tôi gật đầu “phải”.
- Nhưng các ahau ngươi đang thờ cúng muốn đỡ đầu cho sự ra đời của một dòng giống mới của những mặt trời mới, sau khi các mặt trời của b’ak’tun thứ mười ba đã tắt.
- Tôi muốn góp phần bắt  đầu một vòng quay mới.
- Vì sao? – bà ta hỏi, - Ngươi sẽ quay về thế giới của ngươi chứ?
- Tôi muốn cố gắng làm điều đó, - tôi đáp, nửa lảng tránh câu hỏi. Tôi nghĩ bà ta sẽ hỏi tôi định làm điều đó như thế nào, nhưng bà ta coi câu trả lời của tôi là một câu “vâng” và hỏi tiếp:
-Bax ten tex haabet? – Nghĩa là: “vì sao ngươi muốn [trải qua tất cả những điều này]?
- Vì ai cũng muốn bảo vệ gia đình mình.
- Ngươi, bên cạnh ta, có gia đình ở đó ư?
- Tôi có… những người mà tôi coi là gia đình nuôi.
Hay chí ít cũng có những người gần – như – bạn ở trên mạng, - tôi nghĩ.
Tôi đoán Koh biết tôi đang khuyếch khoác lên thế. Nhưng bà ta không tiếp tục theo suy nghĩ đó.
- Nếu những người ở thời ngươi sống sót
Biết đâu họ sẽ vẫn quên chúng ta?
Liệu họ có nhớ những ngày chúng ta được đặt tên?
Những ngày chúng ta qua đời?
Liệu họ có quên đi cách chúng ta cày cấy, dựng nhà
Cách chúng ta tấn công kẻ thù?
Cách chúng ta nuôi dậy lũ trẻ?
Liệu họ còn hát những bài ca nhắc đến tên chúng ta?
Họ có nhớ được không?
- Tôi sẽ thu xếp để họ nhớ dòng giống của chúng ta và cúng tế uay của chúng ta vào ngày chúng ta qua đời.
- Nhưng ngươi đã nói họ chỉ dâng cúng những lễ vật nghèo nàn.
- Không hẳn lúc nào cũng thế, - tôi ra hiệu.
- Và ngươi nói những người cùng thời ngươi là những kẻ đê tiện, - bà ta nói. Trong tiếng Ix, từ này không hẳn có liên quan đến từ “xấu xa”, nhưng nếu có thì cũng nặng nề hơn rất nhiều.
Mình nói thế bao giờ nhỉ? – tôi phân vân. Hừ.
- Họ xấu hơn những người khác ở thời này về nhiều mặt, - tôi đáp, - nhưng về những mặt khác, có thể nói họ tốt hơn.
- Và ngươi muốn ta chơi một ván cờ chín viên đá. Và ngươi nghĩ chỉ cần xem là có thể học được trong hai ánh sáng.
“Hai ánh sáng” là một thành ngữ, ý nói “ngươi nghĩ ngươi có thể học được ngay lập tức”.
- Tôi, dưới chân người, không có ý nghĩ đó.
- Vậy ngươi và ta còn làm gì ở đây nữa?
- Tôi, dưới chân người, muốn xin một quẻ bói.
- Ta đã xem cho ngươi rồi.
- Nhưng lần này, tôi muốn trao đổi một thứ lớn hơn, - tôi đáp. Tôi thưa với bà ta rằng tôi có thể cho bà ta biết mọi điều bà ta muốn biết bất cứ thứ gì sẽ được khám phá, phát hiện hay sáng chế ra trong vòng bốn b’ak’tun tới.
-  Ta biết đủ nhiều để tự thấy hối tiếc vì đã biết, - bà ta nói. Tôi không rõ bà ta muốn ám chỉ những điều tôi vừa cho bà ta biết, hay những điều trước đây bà ta vẫn biết, hay cả hai.
- Vậy hãy cho phép tôi cho người biết điều gì đó có ích cho người. Hãy để tôi cho người biết điều gì đó.
- Ngươi đã cho ta biết hình dáng mặt trời.
- Hãy để tôi cho người biết điều gì đó giúp người rót mật vào ch’anac của những bông hoa của người. – Nghĩa là điều gì đó giúp người cứu giúp người dân của mình. – Tôi, bên cạnh người… chúng tôi có thể tạo ra vài thứ chưa ai từng thấy bao giờ.
- Ví dụ? – bà ta ra hiệu hỏi, đặt cây phất trần xuống.
- Tôi tả cho người cái bánh lăn cố định nhé? – tôi đề nghị.
- Nó là cái gì? – bà ta ra hiệu.
Tôi bắt đầu giải thích về cái bánh xe. Tôi kể rằng nó giống như các con lăn, nhưng được giữ cố định qua phần giữa, rằng những chiếc xe cút kít hữu dụng tuyệt vời, và tôi bắt đầu vẽ ra một cái. Nhưng Koh nói rằng ở đây họ có thứ này rồi và gọi Chim Cánh Cụt ra để lấy ví dụ. Tôi chẳng biết phải nghĩ sao. Nhưng cô gái lùn đã quay lại với một con báo đốm đồ chơi nhỏ bằng gỗ với bốn bánh xe thay cho bàn chân. Koh nói loại đồ chơi này khá phổ biến trong giới quý tộc, nhưng không được phép mang chúng ra khỏi nhà, nơi dân thường có thể nhìn thấy. Theo như tôi hiểu, lý do không phải vì dân thường sẽ nảy ra ý nghĩ rằng những chiếc bánh xe ấy có thể có ích, mà vì ai đó có thể bắt chước cách làm và dùng chúng để lôi kéo một bè phái thần phục mình. Hắn có thể đến một thành phố khác, khiến người dân ở đó kinh ngạc về cỗ xe của mình, tự nhận mình là một phù thủy vĩ đại và rốt cuộc sẽ trở thành mối hiểm họa đối với giới quý tộc. Cái bánh xe có thể trở thành một vật thiêng, trung tâm của một tín ngưỡng mới, như con dao, hay lửa, hay bí mật được bảo vệ nghiêm ngặt của gương lồi… hay món thuốc dùng trong cờ Hiến tế. Ngoài ra, Koh nói – tôi diễn giải lại tùy tiện một chút – rằng thời buổi này có vô khối những kẻ ở nhà tròn, nếu cần di chuyển thứ gì nặng, chỉ cần sai chúng làm là được.
Phát nản đi được. Hệt như có lần, tôi cho một cô gái rất sành điệu đi nhờ xe đến New Haven và khuyên cô ta nên học lái xe.
- Nếu hôm nay không có tôi cho đi nhờ thì cô làm thế nào? – tôi hỏi.
- Tôi sẽ gọi một anh chàng khác, bảo anh ta đưa tôi đi, - cô ta đáp, rồi ngủ với anh ta là được.
Thôi, không sao, - tôi tự nhủ, - quên loại bánh xe dùng để chuyên chở đi. Loại dùng để làm mâm bát vậy nhé?
Tôi bèn kể với bà ta về cái bàn xoay thợ gốm. Sự thể là, chỉ là nói sự thật thôi, khi bàn về chuyện bát đĩa ở đây – ở đây tức là ở Mesoamerica – anh phải công nhận rằng đúng, có những họa tiết trang trí thật đáng nể, nhưng hình dáng thì vẫn còn hơi méo. Việc ai đó chìa ra một cái bình tròn hoàn hảo sẽ gây ra một sự trầm trồ thán phục. Nhưng Koh nắm được tôi sắp nói gì, bà ta lại phản đối. Rằng hai Giáo hội lớn sẽ tuyên bố rằng bất cứ kẻ nào tạo ra được những loại bình lọ mới thì chắc chắn là phù thủy yêu thuật đầy quyền năng và họ sẽ phái cả một đội quân đến để tiêu diệt hắn. Kể cả khi điều đó không xảy ra và thứ dụng cụ có bánh xe kia được chấp nhận, nó sẽ đẩy hàng ngàn gia đình làm nghề gốm vào cảnh chết đói vì họ sẽ chẳng bao giờ theo kịp sự thay đổi đó. Tôi đoán đó cũng là lý do vì sao chúng tôi – ý tôi là người Maya cũng như người Teotuhuacán và các nền văn minh Mesoamerica lớn khác – không dùng cung và tên, trong khi những người Quá-Cao vẫn sử dụng. Chẳng khác gì chuyện tôn thờ đao kiếm của các samurai, khi Tokugawa (Tức Tokugawa Ieyasu, người sáng lập ra chính quyền quân sự thống trị Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868, còn gọi là Mạc phủ Tokugawa) tính toán rằng nếu để súng ống tốt lọt vào Nhật Bản, chúng sẽ làm lung lay cơ chế quyền lực, kể cả khi Mạc phủ là gia tộc đầu tiên sở hữu chúng. Vì vậy, ông ta và những người kế nghiệp đã tịch thu toàn bộ súng và thuốc súng, cấm cửa các thương gia Bồ Đào Nha trên hầu hết lãnh thổ Nhật Bản, và về căn bản, đã duy trì đất nước trong tình trạng lạc hậu suốt hai trăm năm mươi năm.
- Chúng ta không thể dùng những thứ đó ở đây, - bà ta nói, - kết thúc.
Chết tiệt. Tôi cạn ý tưởng rồi. Chúng tôi chưa tập dượt chuẩn bị cho tình huống này ở Stake.
- Vậy người hãy làm, coi như ném một quả bóng thôi, - tôi nói. Câu này giống như cách nói của những tay chơi bài poker: “đặt cược vào gà đi”, để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Làm bừa đi, đánh liều đi.
- Ngươi nghĩ ta không tò mò về sự hiểu biết của ngươi, - bà ta nói. Tôi không đáp câu gì. – Nhưng  đúng là ta có tò mò. Song sự tò mò là kẻ hành hạ, là kẻ tra tấn. – Nghĩa là sự tò mò của bà ta sẽ làm tổn hại đến những người mà bà ta không có lý do để làm tổn hại.
Ừ thôi, chí ít thì điều đó cũng cho thấy bà ta có đôi chút thấu cảm trong người, - tôi nghĩ bụng, - phải vậy không? Vấn đề là – mặc dù tôi nhìn chung không thích đưa ra những đánh giá tổng quát về con người, không phải vì tôi có thể sai, mà vì những thứ đó người ta đã nói cả rồi – vấn đề là con người chỉ có hai thể loại, hoặc biết thấu cảm, hoặc không, mà loại thứ hai thường nhiều hơn. Và hoặc bà ta là loại thứ nhất, hoặc chúng ta bị lòe. Chỉ có thể thôi.
Nào, suy nghĩ đi.
Sự thấu hiểu cảm xúc là một khái niệm khá trìu tượng để có thể diễn tả trong tiếng Ix. Mày phải khoanh vùng nó trong vốn từ về gia đình.
Được rồi. Bắt đầu.
- Tôi biết…, - tôi nói, - tôi biết rằng nếu người đi trên đường, và người bắt gặp một kẻ đang bóp chết một đứa trẻ ba tuổi, người sẽ muốn ngăn việc đó. Ngay cả nếu đó là con của chính hắn, ngay cả nếu đứa trẻ bị ghẻ lở và sinh ra tật nguyền, ngay cả nếu hắn có quyền giết nó, người sẽ vẫn muốn ngăn hắn lại, và nếu người có khả năng… tức là nếu người có thể ngăn hắn, người sẽ làm.
- Người ở thời gian ngươi không ở trên đường của chúng ta.
- Có đấy. Đến lúc đó, hàng tá của hàng tá của hàng tá của hàng tá trong số họ chính là con cháu của người, hoặc của chị em, anh em người, bởi…
Tôi bỏ lửng câu nói. Tôi ngẩng lên nhìn bà ta. Bà ta vẫn nhìn qua đầu tôi.
- Họ đang chết dần chết mòn, - tôi nói tiếp, - và trước khi chết, họ sẽ tự hỏi tại sao không ai buồn giúp đỡ họ, và nếu họ biết rằng người và tôi, kẻ dưới chân người, có thể cứu họ nhưng lại quyết định không làm, họ sẽ thắc mắc tại sao, và chúng ta sẽ không thể có một lý do đủ hợp lý để trả lời…
Tôi lại bỏ lửng. Những giọt nước mắt không-bao-giờ-chảy lại dâng lên đâu đó quanh con ngươi. Và tôi đang hổn hển, tôi hụt hơi, thậm chí suýt thì nói lắp như tôi vẫn thường bị hồi còn nhỏ mỗi lúc sợ hãi. Quỷ bắt mày đi, Jed, bình tĩnh lại, bình tĩnh…
- Ta, bên cạnh ngươi, đã quyết ý rồi, - Koh nói,
- Nhiều mặt trời đã được sinh ra
Và nhiều mặt trời nữa đang đến.
Tất cả những người được đắp từ bột ngô sẽ chết cùng mặt trời
Vào ngày Chúa tể 4, Vàng 3.
Và một ngày nào đó,
Những người kế tục mới của Iztamna sẽ đến.
Ông ta sẽ nặn ra những giống nòi mới,
Từ chất liệu mới
Từ ngọc bích.
Bà ta dừng lại và chuẩn bị nói “Ca’ek” – “Kết thúc” – nhưng tôi ngắt lời.
- KHOAN ĐÃ, - tôi nói (hừ, thực ra thì tôi đang gào lên), - chờ đã, người KHÔNG Có… (hạ giọng xuống nào, Jed – tôi tự nhủ) … người, ở trên tôi, không có quyền quyết định chuyện đó thay cho họ. Người không thể, ngay cả khi quyết định đó đúng đắn.
- Không, - bà ta đáp, - quyền mà ta không có là kéo dài thời gian của họ trên tầng thứ không, ngay cả khi ta có thể.
- Không, người có quyền đó, nó… người muốn cứu họ, nhưng người nghĩ là không nên, hoặc người biết là không nên, nhưng những điều tôi đã thấy có thể giúp ích thêm cho những điều người đã thấy… nghĩa là, tôi đã ở cả hai nơi, và tôi đã thấy những điều…
Chết tiệt. Tôi nhãng mất dòng suy nghĩ của mình. Tôi bắt đầu lại:
- Nếu tôi biết điều gì đó… nó có thể không phải điều hay, nhưng nó là sự thực… thì đó là người được phép làm bất kỳ việc gì người muốn.
Vì chẳng còn mấy quy tắc lịch sử mà tôi chưa vi phạm nên tôi chẳng cần nữa, tôi nhìn thẳng vào mắt bà ta. Mắt bà ta mở to và trợn tròn… không, chờ đã, không phải. Bà ta đã nhắm mắt lại, nhưng mí mắt bà ta được tô bằng chì trắng nên nhìn vẫn như đang mở và không có tròng, hệt như những hình vẽ của Harol Gray trong cuốn truyện tranh Annie mồ côi.
Phào… hơi giật mình một tí. Khỉ thật, chả nhẽ suốt từ nãy đến giờ bà ta không hề chớp mắt? Hừ, nếu có thì chắc là tôi không để ý.
Tôi chẳng biết làm gì hơn nên cứ nhìn trân trân vào cặp mắt giả của bà ta. Tôi đoán bà ta không muốn nhìn xuống, cũng không muốn trợn mắt nhìn lại tôi như đáng ra bà ta có thể,  vì thế bà ta nhắm mắt lại.
Nào, Jed, nghĩ ra cách gì đi.
- Tôi, dưới chân người, thách người nhìn vào mắt tôi, - tôi nói. Chẳng khác gì bảo: “tôi thách người nện cho tôi một trận”. Nhưng tôi vẫn cảm thấy mình cần nó, tôi cần một cái nhìn thẳng vào mắt, một cái nhìn không chỉ có sự cao ngạo của kẻ bề trên. Chuyện này dễ dẫn đến ẩu đả lắm – chắc tôi đã nói điều này: ở đây, anh có quyền làm bất cứ điều gì khi bị thách thức – nhưng bà ta mở mắt ra nhìn tôi.

51

51
Hồi tôi còn học ở trường phổ thông Nephi – tôi nhận thấy rằng chẳng bao giờ có thời gian nào thực sự thích hợp để cắt ngang một bài tường thuật dài, và nếu có thì cũng không phải lúc này, tuy nhiên, như người ta vẫn nói, thưa quý độc giả thân mến và ba lần khoan dung, xin cho phép tôi cắt ngang trong ít phút - hồi tôi còn học ở trường phổ thông Nephi, có một bà giáo chuyên dạy thay ở các lớp dưới, một phụ nữ to béo, già đến mức nhớ được cả lũ cháu chắt của những người khai hoang đến trường bằng chân đất, bà ta là cả một kho lưu trữ tương đương một luận văn tiến sĩ về những trò giải trí khi phương tiện truyền thống chưa ra đời. Bà ta biết tất cả những gì có thể biết về các con rối chỉ, về việc thêu may trang trí, về búp bê, và nhất là về các trò chơi trong nhà – “bồi thường”, đố chữ, “chuyền dép”, “rồng hắt hơi”, đoán bóng trên tường, và cả cái nghi thức đáng sợ của trò vớt táo - cả một thế giời đã mất từng tồn tại suốt những buổi tối dài dằng dặc trước khi điện về tới nông thôn. Và một buổi chiều thứ sáu, bà ấy lấy một tấm vải trải giường màu trắng, cắt một dãy sáu cái lỗ thành hình ba cặp mắt nhỏ xíu và bảo chúng tôi treo lên lối vào một cái khoang rộng mà họ gọi là “phòng ấm”. Nửa lớp, hai mươi tư đứa, đứng đằng sau tấm vải và cứ ba đứa một bước lên nhìn qua những cái lỗ. Nửa lớp còn lại cũng lần lượt ghé sát mắt vào những cái lỗ, và nhìn thẳng vào mắt những đứa đứng bên kia và thử đoán xem đó là ai. Hóa ra việc đó gần như không thể, trừ trường hợp của Jessica Gunnerson, con bé tóc hoe bị bạch tạng nhẹ với mống mắt màu xanh tím hệt như màu mực cồn trên bản sao cuối cùng và mờ nhất của máy sao Dittto. Nếu không nhìn thấy thêm những đường nét khác của khuôn mặt, anh sẽ chẳng thể biết đó là người bạn tốt nhất hay kẻ thù tồi tệ nhất, anh chẳng thể biết đứa kia đang nhăn nhó mặt mày chòng ghẹo anh thế này, thậm chí chẳng biết nó là con trai hay con gái. Điều này làm tôi bị xáo trộn đến mức hàng chục năm sau, khi nhìn vào mắt một cô gái trẻ nào đó, ví dụ vậy, và thử tìm một liên hệ ít nhất là trên mức nhục dục, hoặc thể hiện tí hứa hẹn hay, tệ nhất, là một tẹo trung thực, và tôi cảm thấy rằng đúng, cô ta đang thành thực với mình vì mình đang nhìn qua hai ô cửa trong suốt vào sâu tận bên trong, nhưng rồi đột nhiên, tôi lại nhớ đến cái trò chơi ngớ ngẩn kia, và thế là cặp mắt ấy bỗng chốc biến thành hai cái hố cạn với sự trống rỗng vô tận đằng sau và cảm giác xa cách mỗi lúc một phình lên giữa hai chúng tôi, cái cảm giác trôi dạt trong không gian không sự sống, không chỉ không có liên lạc với với bất kỳ sinh vật nào ở hiện tại, trong tương lai, hay thậm chí trong quá khứ. Và lúc này – ý tôi là vào thời điểm năm 664 này – tôi lại gặp cảm giác đó. Tôi đang nhìn vào mắt cô nương Koh, khao khát gấp bội được nhìn thấy trong ấy một điều gì đó, một điều kỳ diệu, một biểu hiện tình cảm, hay chí ít là một chút lay động, một dấu hiệu gì đó chứng tỏ bà ta và tôi cùng ít nhiều là thật, và tỉnh táo, và tự chủ về tinh thần, và cùng tồn tại trong một không gian, ở cùng một thời gian. Tôi nghĩ mình đã nói điều này: khuôn măt công nương Koh ít biểu đạt như bất kỳ khuôn mặt nào tôi từng thấy; tôi từng gặp những khuôn mặt lạnh như đá phía bên kia bàn trong khoảng mười ngàn ván cờ vua, cờ vây và bài poker, nhưng cặp mắt bà ta còn ẩn chứa vẻ gì đó hơn thế nữa, vẻ gì đó loáng ướt và dữ dội, như cặp mắt của Cléo de Mérode (diễn viên múa lừng danh người Pháp). Hai tròng đen tối đến mức không thể xác định được đồng tử bắt đầu từ đâu, nhưng vẫn thấy rõ đó là hai màu đen khác nhau, như màu sắc trong các bức họa của Ad Reinhardt (họa sĩ theo trường phái trừu tượng người Mỹ), và rằng con mắt bên trái lạnh lùng hơn, con mắt bên phải ấm áp hơn… tôi tưởng bên ngoài trời đang mưa, nhưng rồi tôi nhận ra tôi đang nghe thấy tiếng máu chảy rần rật trong tai.
Nào, cố lên, - tôi tự nhủ. Sắp được rồi. Cố lên.
Bốn mươi nhịp trôi qua. Tôi nghĩ mình nhìn thấy điều gì đấy trên khuôn mặt vô hồn của bà ta, cứ như bà ta đang cắn lưỡi, một cảm giác đau không thể che dấu hoàn toàn: nhưng sau tôi kết luận rằng chắc tôi tưởng tượng ra.
Tám mươi nhịp.
Không nhất thiết phải khiến giây phút này giống như một vụ hiếp dâm như thế. Ta hãy biến nó thành một cuộc ân ái. Nhé?
Đến nhịp thứ một trăm hai mươi, lưng tôi kêu đánh khục một cái, sụn xương sống, và tôi muốn nhìn đi chỗ khác lắm nhưng vẫn cố ghìm được. Nhìn tiếp đi, Jed. Bây giờ tôi có cảm tưởng như chúng tôi là hai võ sĩ sumô đang đè cả nửa tấn thịt lên nhau giữa vòng tròn dohyo (sới đấu của môn võ sumô). Cố lên nào, - tôi tự nhủ.
Không phải tự đánh vật. Cứ giữ yên. Giữ yên. Nào, xin mày đấy, Thằng Vô Hình, chỉ một lần này thôi, chứng tỏ mình đang có mặt đi. Xin mày. Xin mày.
- Chính vì ta quan tâm đến họ như con cháu mình nên ta không muốn họ phải khổ sở trên tầng thứ không này, - Koh nói, tiếng bà ta nhý vọng ðến từ xa cả dặm. Bà ta không ngoảnh ði.
- Tầng thứ không là tầng duy nhất, - tôi bực tức.
- Nếu đó là sự thật thì cũng vậy thôi, - bà ta đáp.
- Không, không, không, không, không thể cũng vậy được, họ muốn… họ muốn được ở bên nhau đến chừng nào có thể.
- Vậy là họ tham lam và hèn nhát.
- Không, không…không, họ… họ giống như một gia đình cùng nhau đến dự lễ hội.
- Và có gì để xem ở lễ hội đó? – bà ta hỏi. Tôi đoán ý bà ta là cuộc vui ấy sẽ chẳng mấy chốc mà kết thúc.
- Đó là lý do vì sao họ muốn có những đứa trẻ, - tôi đáp, - để thấy tất cả bắt đầu lại từ đầu… chuyện tôi và người đang nói đây thật là b’ach na tok. Nghĩa là toàn bộ câu chuyện này thật kỳ cục.
- Phải, đúng thế, - bà ta ra hiệu.
- Và nếu các mặt trời tiếp tục tồn tại, - tôi nói, - nếu có một chu kỳ mặt trời mới… ai biết được điều gì sẽ xảy ra sau đó? Tôi và người có thể chơi cờ Hiến tế hàng bốn trăm lần của hai mươi ván cũng không thể biết được. Biết đâu sẽ có chuyện gì đó xảy ra vào b’ak’tun thứ hai trăm, thứ hai ngàn, và điều đó cũng bõ để…
Tôi nói khẽ rồi dần im bặt. Giời đất ạ, - tôi nghĩ, - thế này thì quá sức mình. Một tỉ năm tiến hóa và năm triệu năm tiến hóa của loài người, và bây giờ nó chỉ còn là chuyện giữa hai chúng tôi.
- Trên đỉnh núi đen nhất có một chiếc bình, - Koh nói, - yaj (tức là “nỗi đau”, và trong trường hợp này có nghĩa là “nước mắt”) của mọi sinh vật trên đời đều nhỏ vào chiếc bình đó.
- Tôi, kẻ dưới chân người, đã nghe nói.
Bà ta nói tiếp:
- Lai can h’tulnaac
lail x nuc homoaa
cu tz’o, cu t’za.
Và khi chiếc bình khổng lồ
Đầy lên đến miệng
Nó sẽ vỡ tan, sẽ chấm hết.
- X’tan boc ch’ana k’awal nab, - tôi đáp, - Điều này chẳng khác gì trộn cháo ngô đặc bằng nước đái lợn.
Trong tiếng Ix, câu này tương tự như từ “vớ vẩn!”. Nhưng tôi đoán các bạn sẽ thấy nó buồn cười hơn nếu vừa kéo hai trăm pound đá vôi lên đỉnh kim tự tháp cao chín mươi feet dưới cái nóng 110 độ.
Koh ra hiệu tỏ ý: “tùy ngươi nói”.
Vì một lý do nào đó – và tôi không nghĩ đây là một trong những trò tai quái của Koh – tôi liền có cảm giác như vừa bất tỉnh trong một hoặc hai giây, hoặc như đang suy nghĩ chuyện gì đó quan trọng và bỗng quên mất, và đến khi tôi nhớ ra được ra mình đang làm gì thì chúng tôi đã không còn nhìn chằm chằm vào nhau nữa. Tôi nhìn xuống. Koh nhúc nhích người dưới tấm áo choàng. Chúng tôi đã ở trong một không-thời gian khác.
- Người Chèo Xuồng Già không đến đây, - Koh nói. Nghĩa là bà ta không có Bụi của Người Chèo Xuồng Già, thành phần gây ảo giác về không gian trong món ma túy của cờ Hiến tế.
- Người sẽ chơi mà không cần nó chứ?
Bà ta ra hiệu rằng chẳng ích gì.
- Nhưng đôi khi người cũng đi theo Người Chèo Xuồng chứ, phải không?
Bà ta ra hiệu “phải”.
Tôi nghe thấy tiếng Chim Cánh Cụt sau lưng. Cô ta đã đi ra trước mặt và thắp vòng hương thứ hai. À, dấu hiệu tốt đây. Nó đồng nghĩa với sự chấp nhận chăng? Cô ta lạch bạch lại gần Koh và đứng kiễng trên đầu ngón chân. Koh cúi đầu xuống, thì thầm chừng năm mươi từ vào tai cô ta và đưa cho cô ta thứ gì đó. Cô gái lùn hấp tấp chạy ra ngoài.
Xong rồi, - tôi nghĩ. Bà ta sẽ kiếm một ít thứ bột thổ tả của Người Chèo Xuồng ấy và chơi một ván. Có khi chúng tôi sẽ tìm ra thằng khốn ấy ngay bây giờ. Nếu chúng tôi tìm được một cái tên, tôi chỉ việc viết ra, để lại nó trong chiếc hộp và chẳng thèm bận tâm đến món thuốc nữa. Tao sẽ tóm được mày, thằng doomster. Đúng thế. Dễ thôi.
Koh lấy một cây đuốc sim mới và châm vào lò lửa. Nó bùng lên ngọn lửa màu vàng xanh. Bà ta cắm nó lên giá đỡ. Ánh sáng lấp loáng trên nửa đen của khuôn mặt.
Koh đã đổi ý vào một lúc nào đó mà tôi không hề nhận thấy. Và giờ đây, khi mọi việc tiến triển tốt đẹp, đến ngay cả tôi cũng không dám tin lý lẽ của mình thuyết phục được bà ta. Tôi cảm giác rằng đó không phải nhờ tôi, cùng lắm tôi cũng chỉ truyền đạt được vài thông tin mới và bà ta đủ mạnh mẽ để thay đổi quyết định dựa trên những thông tin ấy. Tôi cảm thấy mình bị đẩy vào thế yếu. Bà ta mở một trong mấy cái giỏ, lấy ra một điều xì gà xanh, thon dài, cắn bỏ chừng một phần tư inch ở đầu điều thuốc và châm nó vào cây đuốc, hít một hơi dài, phà khói ra bốn hướng và khấn:
- Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu trắng
Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu đen,
Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu vàng,
Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu đỏ,
Hỡi Thần Muối Mặn Già,
Hai chúng con, dưới chân người
Cầu xin người
Cho chúng con mượn
Cặp mắt nhanh,
Cặp mắt tinh tường,
Của thần tối cao,
Tỏ tường mọi việc.
Bà ta cúi xuống và phà một hơi khói dài qua mắt giỏ. Bà ta chờ một lúc, mở nắp ra, thò tay vào và khẽ khàng nhấc ra một chiếc giỏ hơi nhỏ hơn một chút đặt bên trong. Mối đan của chiếc giỏ này thưa hơn, tôi nhìn thấy có thứ gì đó chuyển động bên trong và một vật màu trắng, hình quả tim lơ lửng ở giữa. Koh đặt nó xuống và mở hé nắp đậy bằng tay phải. Vật màu trắng đó là tổ của một đàn ong vò vẽ giấy lưng dài. Koh thò tay trái vào, nhanh đến nỗi mắt tôi không kịp dõi theo, và dùng bảy cái móng tay dài tô đen của mình chộp lấy một con ong cái béo tròn, màu vàng pha xanh lá cây. Bà ta đặt nó xuống lòng một chiếc đĩa con. Con ong dài tối thiểu hai inch, với cái bụng chửa và vòi đẻ trứng dài ngoẵng. Cánh nó đã bị cắt bỏ. Nó nhìn quanh bằng cặp mắt to tướng. Ngón trỏ bàn tay cái của Koh từ trên cao dí xuống, chặn đoạn giữa bụng và ngực con ong, đè nó xuống đĩa. Mặc dù bị say khói thuốc nhưng nó vẫn quờ quạng tìm cách thoát, mấy cái chân trượt đi trên bề mặt tráng men trơn mịn của chiếc đĩa. Koh dùng hai móng tay trên bàn tay phải làm lưỡi kéo, bấm đứt đầu con ong. Nó rơi xuống đĩa, hai hàm hết há ra lại khép lại. Tiếp đó, bà ta nhón lấy cái ngòi đốt và vòi đẻ trứng và dứt chúng ra khỏi bụng con vật đáng thương. Một túi chứa nọc nhỏ, căng, hai quả trứng tròn, trong veo, một ít lông vàng, mấy vệt kitin bị lôi ra theo. Koh đặt cái chùm bầy nhầy ấy xuống cạnh đĩa bên kia. Cuối cùng, tay trái vẫn giữ cái bụng ong, bà ta bứt lấy một trong sáu cái chân đang giãy dụa- tôi nghĩ là chân trước bên phải – và bỏ nó vào một cái đĩa nhỏ xíu khác. Bà ta đẩy cái đĩa về phía tôi.
Koh nhấc con côn trùng năm chân, không đầu, vẫn còn đang giãy dụa lên, bỏ tọt vào miệng, nhai hai lần và nuốt.
Tôi ngần ngừ.
Nào, Jed, - tôi tự nhủ - đừng có hèn thế. Tôi nhặt cái chân lên, xoay xoay nó một cách ngớ ngẩn trong tay như thể nó sắp nhảy lên cắn vào mắt tôi. Thôi được rồi. Tôi bỏ nó vào miệng. Nó vẫn còn giần giật trên lưỡi tôi. Tôi nhai nát nó và nuốt nhanh hết mức có thể. Koh đưa cho tôi điều xì gà, chắc là để đẩy nó trôi xuống. Tôi hít một hơi ra trò. Nó hơi khô và có vị lạ, nhưng không tồi. Tôi không biết làm gì với nó nên cứ giữ lấy. Cô gái lùn đã quay lại và bày ra một dãy nào giỏ, nào bình, nào đĩa con ở hai bên bệ nóc lò, cứ như thể chúng tôi sắp dùng bữa trà chiều vậy. Tôi đã cảm thấy miệng mình rộp lên to hơn cả đầu.
Koh nói:
- Bây giờ chúng ta coi như
Ta sẽ chơi một ván cờ lớn tại đây,
Trước mặt người, bên cạnh ta
Liệu ngươi có bán rẻ ta cho các thị tộc thù địch?
Hay khai ra tên ta cho những kẻ xa lạ?
Liệu ngươi có kể lại giữa đám đông
Về chuyện đang xảy ra ở đây,
Trong nơi ẩn náu cuối cùng của chúng ta?
Ở đây,
Dưới bầu trời
Trên ngọn núi này của chúng ta?
Liệu ngươi có luyên thuyên chuyện này ra bên ngoài, giữa chợ?
Liệu ngươi giở cuốn sách của ta,
Giữa ánh sáng ban ngày?
Tôi trả lời một cách khó khăn bởi lưỡi của tôi có cảm giác sưng phồng và nặng nề như một súc gỗ:
- Sao tôi có thể là một k’iik
Nếu tôi từng nói ra bất cứ một bí mật nào?
Nếu có, người ta sẽ không bao giờ còn gọi tôi
Là con trai của nhà Đại Bàng.
Chim sáo đá sẽ chế nhạo tôi
Vào môi, vào tròng mắt
Ta-tu sẽ liếm sọ tôi
Trên đụn cát khô cằn,
Cách xa hang núi này,
Trên miệng núi lửa giữa biển khơi,
Dưới tầng trời.
Thế đã ổn chưa nhỉ? – tôi tự hỏi. Nghe chuẩn chưa? Hay bà còn muốn nghe bằng tiếng La tinh nữa?
Rất chậm rãi, Koh ra hiệu “chấp nhận”. Tôi quan sát bàn tay đen của bà ta buông xuống đùi. Nó cứ rơi mãi, rơi mãi mà chưa xuống đến nơi, và rồi dường như nó không rơi nữa và bà ta cứ để nó lơ lửng như thế trong không trung. Kỳ cục thật, - tôi nghĩ. Tôi nhìn sang vòng hương đồng hồ, hay đúng hơn là tôi bắt đầu nhìn sang và mắt tôi phải mất một lúc mới nhìn tới nơi. Lại là cái món thuốc xáo trộn thời gian của Muối Mặn Già đây mà. Chỉ có điều nó làm chậm thời gian hơn cả lần trước… dào ơi, đây rồi. Rốt cuộc mắt tôi cũng đến được chỗ vòng hương, xem ra nó sắp chảy hết một nửa, nhưng tôi không nhìn kỹ được vì Chim Cánh Cụt hẳn đã trùm một lớp vải màn hay gì đó lên trên nó… ô, xin lỗi, không phải, đó chỉ là một làn khói, không hề chuyển động, hay đúng hơn là nhìn như không chuyển động do tác dụng của thuốc. Tôi nghe tiếng Chim Cánh Cụt thì thào câu gì đó. Tôi đưa con ngươi sang nhìn Koh. Cứ như hai tảng đá hoa cương lớn đang xoay trong ổ được tra dầu. Koh dùng tay ra hiệu cho tôi chờ, đúng cái tín hiệu mà thị tộc Đại Bàng dùng trong các chuyến đi săn hay đột kích để ra lệnh đứng im.
Ai đó huýt sáo bên ngoài. Chim Cánh Cụt lon ton chạy ra ngoài. Tưởng như hàng phút trôi qua giữa từng bước chân ngắn ngủn. Koh đứng dậy. Hệt như đang nhìn quả núi được bẩy lên chậm rãi bởi sự dịch chuyển của mảng kiến tạo bên dưới. Bà ta quay về phía tôi, rũ rũ áo choàng cho chỉnh tề. Ái chà, - tôi kêu thầm trong bụng. Thật là đáng kinh ngạc, bà ta cao hơn rất nhiều so với tầm vóc trung bình của người phụ nữ Maya, thậm chí cao hơn tôi, tức tôi bây giờ ấy, một ly, mà Chacal đã thuộc loại cao lớn lắm rồi. Hết sức thô lỗ, tôi ngoài đầu lại quan sát. Bà ta có vẻ hơi gầy dưới tấm áo quechquemitl (một loại áo của phụ nữ gốc da đỏ ở Mexico, giống như tấm khăn hình quả trám có một lỗ hổng ở giữa để chui đầu qua, thường có hoa văn sặc sỡ). Hầu hết những người đếm mặt trời đều gầy gò, nhưng có lẽ bà ta hơi gầy quá. Bà ta bước bốn bước ra giữa căn phòng, hạ mình xuống gối, mặt hướng ra ô cửa ra vào phía sau lưng tôi. Tôi nhìn chung không thạo lắm về ba lê, nhưng nhiều năm trước, tôi từng được xem Rudolf Nureyev diễn vở Khúc dạo đầu một buổi chiều của thần Đồng áng, trong cử chỉ của anh ta có một vẻ gì đó hết sức cao ngạo, những ngón tay như muốn nói “ta là nhất, còn ngươi chẳng là gì”. Và lúc này đây, công nương Koh cũng có cái vẻ y như vậy. Nhưng ở đây, điệu bộ ấy không bị coi là khó chịu.
Tôi quay người lại. Một cái đầu và hai cái vai xuất hiện ở lối cửa đu đưa lên xuống khi chủ nhân của chúng đứng dậy. Hai mống mắt tôi phải căng ra, nhưng cũng rất từ từ, như một đám tinh vân quan sát qua ống kính viễn vọng lớn, và hắn lọt vào tiêu điểm. Đó là một gã đàn ông cao dong dỏng, khoác chiếc áo choàng mỏng sẫm màu. Hắn có mớ tóc dài lờm xờm như một gã thầy tế, khắp người trát tro xám. Tôi không đoán được những dấu hiệu trên người hắn, nhưng hắn bốc mùi như một con cầy hương, hay đúng hơn, hắn đang xức một mùi hương nhân tạo chế từ cây cúc xạ. Những kẻ thấp kém hơn trong nhà Mèo Rừng cũng thường xức mùi này. Vậy hắn là người của phe kia, nhà Báo Sư Tử, nhưng hắn không thuộc dòng dõi ấy. Có lẽ hắn đến từ một thị tộc nào đó dưới trướng nhà Báo Sư Tử, chuyên làm thầy tế cho họ nhà này. Hắn kể lể chuyện gì đó bằng thứ tiếng tôi nghe không hiểu với giọng thì thào và Koh trả lời cũng bằng thứ tiếng ấy. Chả hiểu gì cả, - tôi nghĩ bụng. Nói bằng thứ tiếng gì thế chả biết. Hắn đi về phía Koh, bước năm bước ngắn ngủn, chậm chạp. Koh không nhúc nhích.
Cảnh tượng nay có điều gì đó khiến tôi không thích. Nó cho tôi tí cảm giác rợn tóc gáy. Gã Báo Sư Tử sờ soạng thứ gì đó bên cạnh hông. Không thể nào, - tôi nghĩ. Hắn rút ra một cái túi nhỏ, dí sát lên tận mặt, tháo thêm vài cái nút thắt bí ẩn theo kiểu dân chài, vụng về mở ra và lấy ra một vật. Tôi không nhìn rõ vật đó là gì.
Koh vươn người ra phía trước và há miệng. Gã Báo Sư Tử bỏ vật đó vào miệng bà ta, bà ta ngậm miệng, thu người về và nhai.
Tôi hơi giật mình, một chút hậu quả để lại từ thời còn là con chiên Công giáo chưa qua lễ kiên tín. Các nghi thức của lễ ban thánh thể bắt nguồn từ đây chăng? – tôi tự hỏi. Nhận lấy và phê đi, đây là mẩu giấy thấm của ta. Tôi thấy mình suýt nghẹt thở vì phải yên lặng.
Có điều gì đó chua chát khi chứng kiến Koh làm cái việc rất đời thường, rất con người, là ăn như thế này. Trong sự chua chát ấy có cả sự thương cảm đến mệt mỏi, như thể anh đã chứng kiến bà ta làm việc này cả ngàn lần. Và bà ta bỗng trở nên không khác gì một kẻ phàm tục, một cô gái mua vui quanh quẩn bên anh. Có khi còn hơi dở người nữa.
Tên sứ giả của nhà Báo Sư Tử ngả người về phía trước để nghe tiếng Koh nuốt. Cô gái lùn đưa cho hắn cái tách mà tôi đoán là đựng nước nóng, và hắn chìa nó cho Koh. Bà ta dùng mép áo choàng lót tay, cầm lấy chiếc tách, uống cạn thứ trong đó và đưa trả lại cho hắn. Hắn nhìn vào tách, rồi nhìn xuống bà ta. Bà ta há to miệng. Hắn kiểm tra một lúc rồi chìa hai cánh tay ra tỏ ý bằng lòng. Tôi thấy trò này có phần hạ thấp Koh, cứ như bà ta đang uống thuốc an thần trong tù vậy. Gã đàn ông của nhà Báo Sư Tử lôi ra một vật be bé từ cái túi khác đeo bên hông. Chim Cánh Cụt chìa ra một cái mâm trao đổi và hắn đặt nó vào giữa. Đó là một bức tượng nhỏ của Koh, với khuôn mặt được tô vẽ theo đúng kiểu đặc trưng của bà ta. Chắc đó chính là thứ Koh đưa cho Chim Cánh Cụt lúc nãy. Cô gái lùn ngâm nga đều đều một bài cảm-ơn-khách, vẫn bằng cái thứ tiếng cổ xa lạ kia.
Tên Báo Sư Tử cũng đáp lại một đoạn cảm-ơn-chủ-nhà, khom người xuống và đi lùi vào đường hầm. Chim Cánh Cụt cũng đi ra theo hắn. Vậy ra đây là cách họ làm việc này, - tôi nghĩ. Ngay cả Koh và các nữ tư tế của Nhện Dệt Cầu Vàng cũng không có tất cả các thành phần của món thuốc. Nó là một phương thức quản lý “hai chìa khóa”. Món thuốc chỉ phát huy đầy đủ tác dụng khi có đủ hai thành phần. Những người đếm mặt trời đứng đầu nhà Bìm Bìm biết cách làm một thành phần, người của nhà Bướm Đuôi Nhạn biết cách làm thành phần còn lại, và không nhà nào biết được bí quyết của nhà kia từ hàng trăm năm nay kể từ khi một thiên tài nào đó đặt ra cách thức này.
Hừ, Jed, lẽ ra mày phải đoán được điều này chứ. Thảo nào thành phố này yên ổn được lâu đến vậy. Mẹ kiếp sao mình không nghĩ ra nhỉ?
Chậc, sẽ khó khăn đây.
Nản quá đi mất. Tôi cảm thấy trong hai lòng bàn tay nắm chặt của mình, những cái móng dài đang đâm thủng cả da. Bình tĩnh lại nào, - tôi tự nhủ, - bình tĩnh. Sức mạnh thật sự nằm ở tinh thần coi nơi kết thúc là điểm xuất phát mới. Thở sâu nào.
Koh ngồi yên. Tôi cũng ngồi yên. Tôi chớp mắt. Hai mí mắt tôi chậm chạp hạ xuống và kéo lên, như trời tối dần và sau một đêm dài lại sáng trở lại. Không khí yên ắng, chỉ có tiếng sột soạt từ con đường hầm bên ngoài cửa. Rồi đến một tiếng huýt sáo khẽ như tiếng chim cu gù gù, Koh đứng lên, đi tới chỗ bức vách, lách qua, cúi xuống mặt tôi – tôi chưa kịp quay lại tư thế cũ – túm lấy tóc tôi, không phải cái đuôi sam giả, mà là lọn tóc trước trán rồi hôn tôi một cách thô bạo, đẩy cái lưỡi mềm mượt vào miệng tôi, quấn lấy lưỡi tôi, cọ xát nó vào hai má tôi, lên vòm miệng, vào giữa những cái răng nanh mài nhọn, vào những vết rách mới và vết sẹo cũ trên môi, xuống tận cuống lưỡi, vào mọi ngóc ngách…