Món Hời

    
ng bà Christopher và Margaret Roberts luôn đi nghỉ hè rất xa nước Anh trong chừng mực họ có thể trang trải. Tuy nhiên, do ông Christopher là thầy giáo môn Văn học cổ Hi – La tại trường St. Cuthbert’s, một trường tiểu học nhỏ ở mạn phía Bắc của Yeovil, và bà Margaret là quản lý của ngôi trường đó, nên sự trải nghiệm của họ về bốn trong số năm châu lục chủ yếu gói gọn trong những tạp chí số ra hàng tháng như Tạp chí địa lý Quốc gia và Thời báo.
Kỳ nghỉ của gia đình Roberts thường vào tháng tám hàng năm, và nó quan trọng đến mức không thể thay đổi. Họ dành mười một tháng trong năm để dành dụm tiền, lập kế hoạch, và chuẩn bị cho sự chi tiêu xa xỉ đó. Quãng thời gian mười một tháng sau đó được dành để truyền đạt lại những khám phá của họ cho lũ “con cái”. Vợ chồng Roberts không có con, và họ coi tất cả các em học sinh trường St. Cuthberth’s như là các “con”.
Trong các buổi tối dài đằng đẵng, khi lũ “con” được sắp xếp đi ngủ trong buồng ngủ của chúng, ông bà Roberts thường miệt mài trên những tấm bản đồ, phân tích các ý kiến của các chuyên gia và rồi sau cùng, xem xét một bản danh sách đã được chọn lọc và rút ngắn. Trong những chuyến thám hiểm mới đây, họ đã đến được tận Na Uy, miền Bắc Italia và Nam Tư. Kết thúc chuyến thăm quan hồi năm ngoái là việc khám phá hòn đảo của vị thần Achilles, đảo Skyros, ngoài khơi phía Đông bờ biển Hy Lạp.
“Năm nay phải là Thổ Nhĩ Kỳ mới được,” ông Christopher nói sau khi đã cân nhắc kỹ.
Một tuần lễ sau, bà Margaret cũng đi tới kết luận tương tự, và thế là họ có thể chuyển sang giai đoạn thứ hai.
Mỗi cuốn sách viết về Thổ Nhĩ Kỳ trong thư viện địa phương đều được mượn, được đem ra thảo luận, được mượn lại và thảo luận lại. Mỗi một tập quảng cáo có thể mượn được từ Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ hoặc từ các đại lý du lịch địa phương, đều được họ nghiên cứu liên tục một cách kỹ lưỡng.
Đến ngày đầu tiên của học kỳ mùa hạ, các tấm vé đã được trả tiền, một chiếc xe hơi được thuê, nơi ăn chốn ở đã được đặt và mọi thứ có thể được bảo hiểm thì đã được lo liệu chu toàn. Kế hoạch của họ chỉ thiếu duy nhất một chi tiết cuối cùng.
“Vậy thì món hời của chúng ta năm nay sẽ là gì đây?” Ông Christopher hỏi.
“Một tấm thảm,” bà Margaret nói không do dự. “Tất nhiên là nó rồi, đã hơn một ngàn năm nay, Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất ra những tấm thảm được người ta săn lùng nhiều nhất trên thế giới. Sẽ là ngu ngốc nếu như chúng ta xem xét bất cứ thứ gì khác.”
“Chúng ta sẽ tiêu bao nhiêu vào tấm thảm?”
“Năm trăm bảng,” bà Margaret nói, cảm thấy rất xa xỉ.
Thống nhất như vậy, họ một lần nữa lại nói chuyện về các “món hời” mà họ đã thực hiện được trong nhiều năm qua. Tại Na Uy, đó là một cái răng của cá voi được một nghệ nhân địa phương chạm khắc thành hình một chiếc thuyền buồm lớn. Tại Tuscany, đó là một chiếc bát gốm được tìm thấy tại một ngôi làng nhỏ, nơi mà họ đúc khuôn và nung chúng để đem bán ở Roma với giá cắt cổ: Một lỗi nhỏ, mà chỉ một chuyên gia mới có thể nhận thấy, làm cho nó thành “món hời”. Ở ngay ngoại ô thành phố Skopje, vợ chồng Roberts thăm quan một nhà máy thủy tinh địa phương và kiếm được một chiếc bình đựng nước ngay sau khi nó được thổi trước mắt họ. Và tại Skyros họ đã có một thắng lợi lớn nhất từ trước cho đến lúc này, họ đã tìm thấy ở gần một địa điểm khai quật cũ một mảnh vỡ của một chiếc lư. Vợ chồng Roberts ngay lập tức báo vật họ tìm thấy với chính quyền, thế nhưng các quan chức Hy Lạp không cho là mảnh vỡ đó đủ quan trọng để cần thiết ngăn cản nó được xuất khẩu sang St Cuthbert’s.
Trở về nước Anh, ông Christopher không thể cưỡng nổi việc đến ông giáo sư cao cấp về các môn học kinh điển tại trường alma mater cũ của ông để kiểm tra. Vị này khẳng định cái mảnh đó có lẽ thuộc thế kỷ mười hai. Cái “món hời” mới mẻ nhất này, giờ đây, đang hiện diện, được kê đỡ cẩn thận, trên mặt lò sưởi phòng khách của họ.
“Đúng, một tấm thảm sẽ là hoàn hảo,” bà Margaret ngâm nga. “Điều phiền phức là, mọi người đi Thổ Nhĩ Kỳ với ý nghĩ nhấc được một tấm thảm với giá rẻ. Vì vậy để tìm được một tấm thực sự là tốt…”
Bà ta quỳ xuống và bắt đầu đo đạc khoảng không gian nhỏ bé phía trước cái lò sưởi trong phòng khách của họ.
“Hai mét mốt khổ chín mươi sẽ ổn đây,” bà ta bảo.
°
° °
Học kỳ đã kết thúc được vài ngày, vợ chồng Roberts đi xe buýt tới sân bay Heathrow. Chuyến đi kéo dài lâu hơn một chút so với đi tàu hỏa, thế nhưng giá chỉ bằng một nửa.
“Số tiền dành dụm được là để mua tấm thảm đấy,” bà Margaret nhắc nhở ông chồng bà.
“Đồng ý, thưa bà Quản lsy,” ông Christopher bảo, cười lớn.
Khi tới sân bay, họ gửi hành lý lên chiếc máy bay họ đã mua vé, lựa chọn hai chỗ ngồi không được hút thuốc. Thấy còn thời gian rỗi rãi, họ ngắm nhìn những chiếc máy bay khác cất cánh bay đến những nơi mới lạ.
Chính ông Christopher là người đầu tiên trông thấy hai hành khách chạy ngang qua đường băng, rõ ràng là bị trễ chuyến bay.
“Hãy nhìn xem,” ông ta bảo, tay chỉ vào hai ông bà đang chạy. Bà vợ ông ta chăm chú xem xét cặp vợ chồng mập ú, nước da vẫn còn nâu nâu từ một kỳ nghỉ trước đó, khi họ hì hục trèo lên thang máy bay.
“Ông bà Kendal Hume,” bà Margaret nghi hoặc. Sau khi do dự giây lát, bà ta tiếp, “Tôi không muốn nghiệt ngã với bất cứ đứa nào trong đám trẻ, nhưng mà tôi thấy thằng cu Malcolm Kendall Hume là một...” Bà ta tạm dừng lời.
“Một thằng nhóc được nuông chiều hỗn xược?” Ông chồng bà gợi ý.
“Đúng như vậy,” bà Margaret nói. “Tôi không thể không bắt đầu nghĩ xem cha mẹ nó là người thế nào.”
“Rất thành đạt, nếu tin vào những câu chuyện của thằng bé,” ông Christopher nói. “Một loạt những gar a sửa xe từ Birmingham đến Bristol.”
“Ơn Chúa, họ không đi cùng máy bay với ta.”
“Tôi đoán là họ sẽ tới Bermuda hoặc Bahamas,” ông Christopher nói.
Một giọng nói phát ra từ chiếc loa không cho bà Margaret cơ hội nói thêm.
“Chuyến bay Olymic Airways 172 tới Istanbul đang đón khách lên máy bay tại cửa số 37.”
“Chúng ta đó,” ông Christopher vui vẻ nói khi họ bắt đầu đi bộ tới cửa khởi hành.
Họ là những hành khách đầu tiên lên máy bay, và khi đã được đưa đến chỗ ngồi, họ ngồi xuống để nghiên cứu những cuốn sách hướng dẫn du lịch về Thổ Nhĩ Kỳ và ba tập hồ sơ của họ.
“Chúng ta nhất định phải đi thăm quan lăng Diana khi chúng ta dến Ephesus,” Ông Christopher bảo, khi chiếc máy bay lăn bánh ra đường băng.
Đừng quên rằng đến lúc đó chúng ta chỉ còn cách ngôi nhà nổi tiếng của Đức Mẹ Mari đồng trinh có vài cây số,” bà Margaret nói thêm
“Bà nói cứ như một nhà sử gia thế,” ông Christopher nói, như thể đang phê bình một học sinh lớp bốn, thế nhưng bà vợ không hề nhận thấy vì đang quá mải mê với quyển sách của bà. Hai người lại tiếp tục nghiên cứu riêng, sau đó ông Christopher hỏi bà vợ đang đọc gì vậy.
“Cuốn ‘Những tấm thảm – thực tế và tưởng tượng’ tác giả Abdul Verizoglu – tái bản lần thứ mười bảy,” bà nói, tin rằng bất cứ sai lầm nào cũng đã phải được xóa bỏ trong mười sáu lần xuất bản trước kia. “Nhiều thông tin ghê gớm. Những mẫu tinh xảo nhất, dường như từ vùng Hereke và được người phụ nữ trẻ, thậm chí cả trẻ con làm cùng một lúc.”
“Tại sao là những người trẻ?” ông Christopher trầm tư. “Mọi người thường nghĩ kinh nghiệm sẽ rất quan tongjd dối với một công việc đòi hỏi sự tinh xảo như thế chứ.”
“Rõ ràng là không,” bà Margaret bảo. “Những tấm thảm Hereke được những con mắt trẻ trung dệt nên, có thể thấy rõ những kiểu mẫu phúc tạp, đôi khi không lớn hơn một mũi kim và có tới chính trăm nút trong một inch vuông. Một tấm như thế,” bà Margaret nói tiếp, “có thể lên tới mười lăm, thậm chí là hai mươi ngàn bảng.”
“Và những tấm thảm khác được những người đàn bà già nua dệt từ len cũ, dư thừa?” ông Christopher gợi ý và cũng là trả lời cho câu hỏi của chính mình.
“Chắc rồi,” bà Margaret bảo. “Đối với hầu bao nhỏ bé của chúng ta cũng có thể theo một số chỉ dẫn đơn giản.”
Ông Christopher nghiêng người sang bên để có thể nghe rõ những lời bà vợ nói qua tiếng ầm của động cơ.
“Các tấm có họa tiết đỏ và lam trầm trên nền xanh lục được coi là cổ điển và rất được các nhà sưu tập Thổ Nhĩ Kỳ khâm phúc, nhưng người ta thường tránh màu vàng và da cam sặc sỡ,” Bà vợ của ông đọc to lên. “Và không bao giờ xem xét một tấm thảm dệt hình thú vật, cá hay chim chó bởi vì chúng được sản xuất chỉ để thỏa mãn thị hiếu phương Tây mà thôi.”
“Họ không thích thú vật sao?”
“Tôi không cho đó là điểm chính,” Bà Margaret nói.
“Hồi giáo Sunni, là tôn giáo chính của nước này, luật của họ không tán thành các hình ảnh tạc khắc. Thế nhưng nếu chúng ta tìm kiếm cẩn thận ở các khu chợ, chúng ta vẫn có thê mua bán ở tầm vài trăm bảng.”
“Thật là một lý do tuyệt vời để dành cả ngày ngoài chợ.”
Bà Margaret mỉm cười, rồi tiếp. “Nhưng hãy nghe này. Quan trọng nhất là việc mặc cả. Cái giá ban đầu người bán đưa ra thường là gấp đôi số tiền mà anh ta mong muốn được nhận, và gấp ba lần giá trị của tấm thảm.” Bà ta nhìn lên từ cuốn sách. “Nếu như anh có bất cứ vụ mặc cả nào thì anh nhớ đấy, cưng à. Họ không quen với những việc kiểu như theesnayf tại các cửa hàng Marks & Spencer.”
Ông Christopher mỉm cười.
“Và cuối cùng,” Bà vợ ông ta lật tiếp một trang của cốn sách, “Nếu người bán hàng mời anh uống cà phê thì anh nên nhận lời. Nó có nghĩa là ông ta mong vụ mua bán diễn ra lâu lâu một chút, vì ông ta thưởng thức cả việc mặc cả cũng nhiều như việc bán được hàng vậy.”
“Nếu như sự việc xảy ra đúng như vây, họ nên có một cái phin pha thật to cho chúng ta,” Ông Christopher nói, nhắm mắt lại và bắt đầu suy nghĩ về những điều thú vị đang chờ đợi.
Bà Margeret chỉ gấp cuốn sách về thảm của bà lại khi máy bay chạm xuống đường băng sân bay Istanbul, và lập tức mở tập hồ sơ thứ nhất ra, nó có tựa đề “Tiền – Thổ Nhĩ Kỳ”.
“Một chiếc xe buýt chờ chúng ta ở phía bắc cửa ra. Nó sẽ đưa chúng ta tới chuyến bay nội địa,” Bà Margaret quả quyết với chồng lúc bà cẩn thận vặn đồng hồ sớm lên hai tiếng.
Vợ chồng Roberts đi ngay theo đám hành khách hướng về cửa kiểm tra hộ chiếu. Những người đầu tiên mà họ trông thấy lại chính là đôi vợ chồng đứng tuổi nọ mà họ nghĩ là đã đi đến những bãi biển xa lạ.
“Không biết họ định đi đâu nhỉ,” Ông Christopher nói.
“Tôi đoán là khách sạn Hilton Istanbul,” Bà Margaret nói khi họ bước lên một chiếc xe quá cổ lỗ của công ty xe buýt Glasgow quãng hai mươi năm trước. Nnos phụt phì phì ra làn khơi thải đen xì khi rồ ga, rồi lăn bánh về hướng chuyến bay địa phương THY.
Vợ chồng Roberts sớm quên hết về ông bà Kendall Hume khi họ nhìn ra ngoài những ô cửa sổ máy bay nho nhỏ để chiêm ngưỡng bờ biển phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ, nó nổi bật lên dưới ánh mặt trời đang tắt dần. Máy bay hạ cánh tại cảng Izmir đúng vào lúc quả cầu lửa óng ánh biến mất phía sau quả đồi cao nhất. Một chiếc xe buýt khác, thậm chí còn cổ lỗ hơn chiếc xe trước, đảm bảo rằng vợ chồng Roberts sẽ tới được ngôi nhà nghỉ nhỏ bé của họ kịp bữa tối muộn.
Căn phòng của họ chật, nhưng sạch sẽ và người chủ nhà trọ cũng có vè dễ chịu. Ông ta chào đón hai người bọn họ với những cử chỉ khá thân thiện và nụ cười rạng rỡ, đó là điềm báo trước tốt lành cho hai mươi mốt ngày sắp tới.
Sáng sớm hôm sau, vợ chồng Roberts kiểm tra những kế hoạch cụ thể của họ cho ngày thứ nhất trong tập hồ sơ thứ hai. Đầu tiên, họ sẽ nhận chiếc xe hơi Fiat đã được trả tiền thuê khi họ còn ở nước Anh, rồi sẽ lái xe qua những vùng đồi núi, tới pháo đài Byzantine cổ kính ở Selcuk vào buổi sáng, nối tiếp là lăng Diana vào buổi chiều nếu họ vẫn còn thời gian.
Sauk hi bữa ăn sáng đã được dọn đi và đã đánh răng, vợ chồng Roberts rời khu nhà nghỉ trước chín giờ vài phút. Trang bị chiếc phiếu thuê xe hơi và cuốn sách hướng dẫn du lịch, họ khởi hành hướng tới Gara Beyazik, nơi mà chiếc xe hơi được đặt trước đang đợi chờ họ. Họ rảo bước dọc theo những con phố nhỏ lát đá, ngang qua những ngôi nhà quét sơn trắng, tận hưởng những đợt gió biển, cho đến khi họ tới bên bờ vịnh. Ông Christopher đã trông thấy chiếc biển hiệu cả Gara Beyazik khi nó vẫn còn cách họ quãng chừng trăm mét phía trước.
Khi họ đi ngang qua những chiếc du thuyền tuyệt diệu thả neo dọc theo bờ cảng, họ cùng nhau kiêm tra quốc tịch của các lá cờ, cảm thấy không khác mấy những đưa “con cái” đang hoàn thành một bài kiểm tra địa lý.
“Ý, Pháp, Liberia, Panama, Đức. Không có nhiều tàu thuyền Anh,” Ông Christopher nói, nghe có vẻ yêu nước một cách bất thường. Ông luôn tỏ ra như vậy những lúc họ ra nước ngoài, bà Margaret nghĩ.
Bà Margaret nhìn chằm chặp vào dãy thân tàu bóng loáng xếp hàng như các xe buýt tại khu trung tâm Piccadilly trong giờ cao điểm: một vài chiếc thậm chí còn lớn hơn các xe buýt. “Tôi không biết liệu ai có thể trang trải cho sự xa xỉ như thế chứ?” bà hỏi và không chờ đợi câu trả lời nào.
“Ông bà Roberts, đúng không nhỉ?” một giọng nói vang lên từ phía sau lưng họ.
Hai người quay lại và thấy một bóng dáng quen thuộc. Ông ta bận một chiếc sơ mi và quần soóc trắng, đội một chiếc mũ trông chẳng khác viên thuyền trưởng đang vẫy vẫy họ từ mũi tàu của chiếc “Thần Ưng”, một trong những chiếc du thuyền lớn.
“Lên tàu đi, mấy vị,” Ông Kendall Hume sốt sắng nói, với một thái độ ra lệnh nhiều hơn là mời mọc.
Một cách miễn cưỡng, vợ chồng Roberts bước dọc theo những tấm ván cầu tàu.
“Nhìn xem ai đây này,” vị chủ nhân của họ hét xuống một cái lỗ lớn ở giữa con tàu. Lát sau, bà Kendall Hume xuất hiện từ phía dưới, mặc một tấm xà rông màu da cam trong mờ và một tấm bikini che ngực nhiều màu.
“Là ông bà Roberts – em có còn nhớ không, ở trường của thằng Malcolm đó.”
Kendall Hume quay lại đối mặt với đôi vợ chồng đang mất hết tinh thần. “Tôi không còn nhớ tên của các vị, còn tên của vợ tôi Melody và của tôi là Ray.”
“Chúng tôi là Christopher và Margaret,” Ông giáo nói khi họ bắt tay nhau.
“Hãy uống chút gì nhé? Rượu Gin, vodka hay?...”
“Ồ, không,” bà Margaret nói. “Xin cảm ơn nhiều, xin cho cả hai chúng tôi một ly cam vắt.”
“Cứ tự nhiên,” Kendall Hume bảo. “Các vị phải ở lại ăn trưa đấy nhé.”
“Nhưng chúng tôi không theerlamf phiền…”
“Tôi thực lòng mà,” Kendall Hume nói. “Vì chúng ta cùng đang đi nghỉ. Nhân tiện chúng tôi sẽ đi sang phía bên kia vịnh để ăn trưa. Có một bãi biển thiên thần ở bên đó, chúng ta có thể tắm nắng và bơi rất yên tĩnh.”
“Anh thật chu đáo quá,” ông Christopher bảo.
“Thế cậu bé Malcomlm đâu?” bà Margaret hỏi.
“Nó đang trong kỳ nghỉ hướng đạo ở Scotland, nó không thích lăn lộn trên tàu thuyền như chúng tôi.”
Lần đầu tiên ông Christopher nhớ ra là ông cũng cảm thấy có chút khâm phục nào đó đối với cậu bé. Lát sau động cơ nổ như sấm rền.
Trong chuyến du hành xuyên qua vịnh, Ray Kendall Hume trình bày chi tiết mớ lý thuyết của ông ta về “hãy quẳng gánh lo đi”. “Không có cái gì có thể đảm bảo sự riêng tư của chúng ta như một chiếc du thuyền, và chúng ta không phải dính dáng tới đám người trên kia.” Ông ta chỉ muốn những điều giản đơn của cuộc sống: ánh nắng, biển cả và một nguồn cung cấp vô tận thức ăn và đồ uống ngon lành.
Vợ chồng Roberts cũng chẳng hỏi thêm điều gì. Vào cuối ngày, cả hai người đều đang phải chịu đựng một cơn say nắng và cũng cảm thấy đôi chút say sóng. Cho dù đã được bà Melody cung cấp thoải mái các viên thuốc trắng, thuốc đỏ và thuốc vàng, cuối cùng, khi đã về lại được phòng mình đêm hôm đó, họ không tài nào ngủ được.
°
° °
Tránh mặt vợ chồng Kendal Hume trong suốt hai mươi ngày sau không phải dễ. Beyazik xưởng gara nơi họ thuê chiếc xe hơi nhỏ đợi họ vào buổi sáng và được đem trả lại vào mỗi tối, chỉ có thể đến được đó khi băng qua mảnh đất bên rìa cầu cảng, nơi chiếc du thuyền gắn mô-tơ của vợ chồng Kendall Hume thả neo, giống như một thanh barie không thể nào vượt qua tại một cuộc thi thể thao. Hầu như không có ngày nào là vợ chồng Robers không phải dành một phần thời gian quý báu của họ bập bềnh trên những con sóng lớn của bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, ăn những đồ ăn nhiều dầu và bàn bạc chuyện một tấm thảm phải to cỡ nào mới lấp đủ gian phòng tiền sảnh của gia đình Kendall Hume.
Mặc dù vậy, họ vẫn cố hoàn thành được phần lớn chương trình thăm quan cuarminhf và quyết tâm dành ra cả ngày cuối cùng của kỳ nghỉ để tìm bằng được một tấm thảm. Bởi vì họ không cần chiếc xe hơi Beyazik để đi vào thành phố, họ cảm thấy tin tưởng rằng ít nhất trong ngày hôm đó, họ có thể an toàn tránh được người tra tấn họ.
Vào buổi sáng cuối cùng, họ dậy muộn hơn một chút so với kế hoạch. Sau khi ăn sáng, họ cùng rảo bước xuống con đường nhỏ lát đá, ông Christopher cầm cuốn sách  tái bản lần thứ mười bảy “Những tấm thảm – thực tế và tưởng tượng”, bà Margaret thì cầm một cái thước dây và năm trăm bảng bằng séc du lịch.
Khi ông giáo và bà vợ tới khu chợ, họ bắt đầu xem xét xung quanh vo số các cửa hiệu nhỏ, băn khoăn không biết nên bắt đầu chuyến phiêu lưu từ đâu. Những người đàn ông đội mũ đuôi sao cố gắng mời chào họ vào cửa hiệu của mình, nhưng vợ chồng Roberst muốn dành tiếng đồng hồ đầu tiên đơn giản chỉ để làm quen với bầu không khí và khu chợ.
“Tôi đã sẵn sàng bắt đầu cuộc tìm kiếm rồi đây,” bà Margaret nói to át cả những tiếng rì rầm xung quanh.
“Thế thì chúng tôi tìm được các vị đúng lúc rồi,” một giọng nói họ nghĩ là đã thoát khỏi cất lên.
“Chúng tôi đang định…”
“Thế thì đi theo tôi.”
Trái tim của vợ chồng Roberts như đập chậm lại khi họ bị Ray ol Hume dẫn ra khỏi khu chợ và quay chở lại thành phố.
“Cứ tin tôi đi, chắc chắn các vị sẽ có một cuộc mặc cả tuyệt vời đấy.” Kendall Hume bảo đảm với cả hai. “Tôi đã nẫng được một số vật phẩm tuyệt mỹ thực sự từ mọi miền của thế giới với cái giá các vị không thể tin nổi đâu. Tôi vui sướng để các vị được hưởng lợi thế trọn gói từ những kiến thức tinh thông của tôi mà không tính thêm phụ phí đâu.
“Tôi không thể ngờ làm sao các vị lại chịu đựng được tiếng ồn ào và những mùi vị khó ngưởi của khu chợ đó,” bà Melody bảo, rõ ràng là mừng rỡ được quay trở lại với những dấu hiệu quen thuộc của Gucci, Lacoste và Saint Laurent.
“Chúng tôi thích…”
“Được giải thoát kịp thời nhé,” Ray Kendaal Hume nói. “Và tôi được biết cái nơi ta cần phải khởi hành và về đích, nếu ta muốn mua một tấm thảm nghiêm túc, là cửa hiệu Osman.
Bà Margarets nhớ lại cái tên đó từ cuốn sách về thảm: “Chỉ nên thăm viếng nếu như tiền bạc không phải là vấn đề, và bạn biết chính xác bạn đang tìm kiếm thứ gì.” Buổi sáng cuối cùng tối quan trọng xem chừng đi tong rồi, bà nghĩ khi đẩy cánh cửa kính to lớn của hiệu Osman để bước vào khu tầng trệt, có diện tích cỡ một sân đánh tennis. Căn phòng được che phủ bằng các tấm thảm: trên sàn, các bức tường, các bậu cửa sổ, và thậm chí là các mựt bàn. Bất cứ nơi đâu một tấm thảm có thể trải ra, thì đã có nó ở đó đế xem rồi. Cho dù vợ chồng Roberts nhận ran gay rằng, không có tấm thảm nào ở đây nằm trong tầm chi trả của họ, chỉ vẻ đẹp lộng lẫy, mê ly của cuộc trưng bày thôi cũng đã hớp hồn họ.
Bà Margaret chậm rãi bước quanh phòng, ghi nhớ trong đầu những đo đạc về những tấm thảm nhỏ để bà có thể tính toán trước loại hàng mà họ có thể tìm kiếm khi họ đã thoát khỏi chỗ này.
Một người đàn ông cao, dáng thanh nhã, đôi tay giơ cao như thể đang cầu nguyện và ăn vận hoàn hảo không chê vào đâu, trong bộ đồ sợi len, mà có thể do Savile Row cắt may, tiến lên chào đón họ.
“Xin chúc buổi sáng tốt lành, thưa quý ngài,” ông ta nói với Ông Kendall Hume, không mấy khó khăn chọn lựa ra người tiêu pha phóng khoáng. “Tôi có thể giúp được gì?”
‘Anh chắc chắn có thể giúp được đấy,” Kendall trả lời. “Toi muốn được xem những tấm thảm xin nhất của anh, nhưng tôi không định trả những cái giá xịn nhất của anh.”
Người bán hàng mỉm cười lịch thiệp và vỗ tay. Sáu tấm thảm nhỏ được bangwowif giúp việc mang vào, họ trả chúng ra giữa phòng. Bà Marjrgaret thấy yêu ngay một tấm với nền xanh dương thanh nhã, với những ô vuông đỏ nhỏ xíu dệt viền quanh thảm. Mẫu mã tinh xảo đến mức bà không thể nào rời mắt khỏi nó được. Bà đo tấm thảm vì thích thú: chính xác hai mét mốt khổ chín mươi.
“Bà có khiếu thẩm mỹ tuyệt vời, thưa bà,” người bán hàng nói. Bà Margaret, hơi đỏ mặt, nhanh chóng đứng dây, lùi ra sau mọt bước và giấu cái thước dây đằng sau lưng.
“Em cảm thấy cái lô này thế nào, cưng?” Kendall Hume hỏi, phẩy tay mọt cái qua sáu tấm thảm.
“Không có cái nào đủ lớn,” bà Melody trả lời, chỉ thoáng liếc qua chúng.
Người bán hàng vỗ tay lần thứ hai, những tám phẩm trưng bày được cuộn lại và đem đi khỏi đó. Bốn tấm lớn hơn nhanh chóng thế chỗ chúng.
“Các vị có muốn uống chút cà phê không?” người bán hàng hỏi ông Kendall Hume khi những tấm thảm mới đang nằm trả ra dưới chân họ.
“Không có thời gian,” Kendall Hume nói cụt lủn. “Đến đây để mua thảm. Nếu tôi muốn uống cà phê, tôi luôn có thể đến quán cà phê,” ông ta nói với tiếng cười khùng khục khoái trá. Bà Melody mỉm cười đồng lõa.
“À vâng, tôi muốn uống một chút cà phê,” bà Margaret nói, quyết định phản kháng đôi chút trong kỳ nghỉ.
“Rất hân hạnh, thưa bà,” ông bán hàng nói, và một người giúp việc đi khỏi để thực hiện yêu cầu của bà trong khi vợ chồng Kendall Hume nghiên cứu những tấm thảm mới.
Cà phê được mang đến sau giây lát. Margaret cảm ơn người giúp việc trẻ tuổi và bắt đầu nhấm nháp chầm chậm thứ dung dịch đen đậm đặc. Ngon tuyệt, bà nhigx, và mỉm cười thừa nhận với người bán hàng.
“Vẫn chưa đủ lớn,” Bà Kendall Hume khăng khăng nói. Ông bán hàng khẽ thở dài và lại vỗ tay lần nữa. Thêm một lần nữa, những người giúp việc bắt đầu cuộn lại những hàng hóa bị chối từ. Rồi ông ta nói với một trong những người nhân viên của mình bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Anh giúp việc này nhìn sư phụ mình đầy nghi haowcj nhưng ông bán hàng gật đầu dứt khoát, và vẫy tay bảo anh ta đi đi. Người giúp việc quay trở lại sau một thoáng, với một tiểu đội nhỏ những người giúp việc hạng thấp hơn, đem theo hai tấm thảm, cả hai tấm này, khi trải ra, choán gần hết toàn bộ sàn nhà. Bà Margaret không ưa chúng, thậm chí bằng những tấm mà bà vừa mới được cho xem, nhưng bởi vì không được  hỏi ý kiến, nên bà không nói gì.
“Có vẻ được hơn rồi đấy,” Ray Kendaal Hume bảo. “Có vẻ đúng cái kích cỡ của gian tiền sảnh, em bảo sao nhỉ, Melody?”
“Hoàn hảo,” bà vợ ông ta trả lời, không hề đo một cái nào
“Anh rất vui mừng chúng ta thống nhất,” Ray Kendall Hume bảo. “Nhưng mà tấm nào, hả cưng? Tấm đỏ và lam nhạt, hay tấm vàng và da cam rực rỡ?”
“Tấm vàng và da cam,” bà Melody nói không chút do dự. “Em thích kiểu cách những con chim màu sắc sặc sỡ chạy nhảy ở bên ngoài.”
Ông Christopher nghĩ ông ta trông thấy người bán hàng nhăn mặt.
“Vậy thì tất cả việc còn lại chúng ta phải làm bây giờ là thống nhất một cái giá,” Kendall Hume nói. “Tốt honwn em nên ngồi xuống, cưng à, bởi vì có thể mất một lúc đó.”
“Em hy vọng là không,” Bà Kendall Hume bảo, cương quyết cứ đứng. Vợ chồng Roberts vẫn yên lặng.
“Thật không may, thưa ngài,” người bán hàng bắt đầu, “Bà vợ ngài đã lựa chọn một trong số những tấm thảm đẹp nhất trong bộ sưu tập của chúng tôi, và do đó, tôi sợ rằng sẽ không thể điều chỉnh lại giá nhiều được nữa.”
“Bao nhiêu?” Kendall Hume nói.
“Ngài thấy đấy, thưa ngài, tấm thảm này được dệt ở Demirdji, tỉnh Izmir, do hơn một trăm người thợ dệt dệt và họ phải mất hơn một năm để hoàn thành nó.
“Đừng nói với tôi cái chuyện vớ vẩn đó,” Kendall Hume nói, nhấm nháy mắt với Christopher. “Hãy chỉ cho tôi biết tôi phải trả bao nhiêu đây.”
“Tôi cảm thấy là trách nhiệm của tôi phải chỉ ra, thưa ngài, rằng tấm thảm này không nên có mặt ở đây chút nào,” Người Thổ nói buồn rầu ai oán. “Nó ban đầu được làm ra cho một ông hoàng Ảrập. Ông ta đã không thể mua nó khi giá dầu sụt giảm.”
“Thế nhưng chắc ông ta đã đồng ý với một cái giá vào lúc đó chứ hả?”
“Tôi không thể tiết lộ con số chính xác, thưa ngài. Tôi thấy bối rối khi nêu nó lên.”
“Nó không làm tôi bối rối,” Kendall Hume nói. “Thôi nào, nói đi, giá bao nhiêu?” ông ta khăng khăng vặn hỏi.
“Ngài muốn mua bằng tiền loại nào?” Người Thổ hỏi.
“Đồng bảng”
Người bán hàng lấy ra một chiếc máy tính mỏng từ trong túi áo jacket, nhập mấy con số vào đó, rồi buồn rầu nhìn về phía vợ chồng nhà Kendall Hume.
Ông Christopher và bà Margaret vẫn giữ im lặng, giống như những đứa học trò sợ hãi ông thầy hiệu trưởng có thể vặn hỏi chúng một câu hỏi mà chúng không thể nào biết câu trả lời.
“Nào, nhanh nào, anh muốn bao nhiêu?”
“Tôi nghĩ ngài chắc phải chuẩn bị cho mình một cú sốc, thưa ngài,” người bán hàng nói.
“Bao nhiêu?” Kendall Hume sốt ruột nhắc lại.
“Hai mươi lăm ngàn.”
“Bảng?”
“Bảng.”
“Chắc anh đang đùa hả,” Kendall Hume nói, đi vòng quanh tấm thảm và sau cùng đứng bên cạnh bà Margaret. “Các vị sẽ biết được nguyên nhân tại sao tôi lại được coi là người chặt chẽ trong ngành buôn bán ô tô vùng trung du miền Đông,” ông ta nói khẽ với bà. “Tôi sẽ không trả quá mười lăm ngàn cho tấm thảm kia.” Ông ta quay lại để giáp mặt với người bán hàng. “Ngay cả khi cuộc sống của tôi phụ thuộc vào nó.”
“Vậy thì tôi e rằng thời gian của ngài đã bị phí hoài, thưa ngài,” người Thổ trả lời. “Bởi vì đây là một tấm thảm chủ ý chỉ dành cho những người sành điệu. Có thể quý bà sẽ xem xét tấm đỏ và lam chứ?”
“Chắc chắn là không,” Kendell Hume nói. “Màu sắc của nó phai nhạt hết rồi. Anh không thấy sao? Rõ ràng anh đã để nó trên cửa sổ quá lâu, và mặt trời đã tác động đến nó. Không được, anh sẽ phải xem xét lại giá cả của anh nếu anh muốn cái tấm da cam và vàng được kết thúc ở ngôi nhà của một tay sành chơi.”
Người bán hàng thở dài khi các ngón tay ông ta bấm bấm lại vào chiếc máy tính.
Trong lúc cuộc mua bán vẫn tiếp diễn, bà Melody lơ đãng, thỉnh thoảng nhìn ra ngoài khung cửa sổ về phía vịnh.
“Tôi không thể bớt một xu dưới hai mươi ba ngàn bảng.”
“Tôi sẽ sẵn lòng tăng lên tới mười tám ngàn,”Kendall Hume nói, “nhưng không thêm một xu nữa đâu.”
Vợ chồng nhà Roberts dõi theo người bán hàng nhấn số vào chiếc máy tính.
“Số tiền đó thậm chí chưa đủ cho chi phí mà chính tôi đã phải trả cho nó,” ông ta nói với vẻ đáng tiếc, nhìn chằm chặp xuống các con số đang sáng ánh lên.
“Anh đang ép tôi đấy, nhưng đừng có đi quá xa nhé. Mười chín ngàn,” Kendall Hume bảo. “Đó là con số cuối cùng tôi đưa ra đó.”
“Hai mươi ngàn bảng là con số thấp nhất mà tôi có thể xem xét,” người bán hàng trả lời. “Một cái giá cho đi, thề trên mộ mẹ tôi đó.”
Kendall Hume móc chiếc ví ra và đặt nó lên mặt bàn bên phía người bán hàng.
“Mười chín ngàn bảng và anh đã giành được cho mình một vụ làm ăn rồi đó,” ông ta bảo.
“Thế thì làm sao tôi nuôi được các con tôi đây?” người bán hàng nói, hai cánh tay ông ta giơ lên cao quá đầu.
“Cũng giống y như tôi nôi các con tôi vậy thôi,” Kendall Hume nói, cười to. “Bằng cách làm ra một lợi nhuận kha khá.”
Người bán hàng tạm dừng lời như thể đang suy tính lại, rồi nói. “Tôi không thể làm thế được, thưa ngài. Tôi xin được thứ lỗi. Chúng tôi phải cho các vị xem những tấm thảm khác vậy.” Những nhân viên giúp việc tiến lên trước theo hiệu lệnh.
“Không được, đó là tấm mà tôi muốn,” Bà Kendall Hume bảo. “Đừng cãi cọ vì một ngàn bảng, cưng à.”
“Hãy tin lời tôi nói, thưa quý bà,” người bán hàng nói, quay sang bà Kendall Hume. “Cả nhà tôi sẽ chết đói nếu như chúng tôi chỉ bán cho những khách hàng giống như đấng phu quân của quý bà.”
“OK, anh có hai mươi ngàn bảng, nhưng với một điều kiện.”
“Điều kiện?”
“Hóa đơn của tôi phải được ghi thanh toán là mười ngàn bảng. Nếu không, tôi sẽ phải trả chênh lệch thuế hải quan.”
Người bán hàng cúi thấp đầu, cứ như thể tỏ ra rằng ông ta không thấy yêu cầu này lạ lùng chút nào.
Ông Kendall Hume mở ví và rút ra mười ngàn bảng bằng séc du lịch và mười ngàn bảng tiền mặt.
“Như anh thấy đấy,” ông ta bảo, cười rạng rỡ, “Tôi đến đã có chuẩn bị sẵn sàng.” Ông ta rút ra thêm năm ngàn bảng nữa và vẫy vẫy tập tiền trước mặt người bán hàng, tiếp lời, “và tôi đã có thể vui lòng trả nhiều hơn nữa.”
Người bán hàng nhún vai. “Ngài mặc cả chắc quá, thưa ngài. Thế nhưng ngài sẽ không phải nghe tôi phàn nàn đâu, giờ đây vụ mua bán đã thỏa thuận xong.”
Tấm thảm khổng lồ được bó và gói ghém lại, một hóa đơn mười ngàn bảng được viết khi những tấm séc du lịch và tiền mặt được trả.
Vợ chồng nhà Roberts đã không thốt lên một tiếng nào trong hai mươi phút vừa qua. Khi họ thấy số tiền được đổi chủ, trong đầu bà Margaret hiện lên ý nghĩ rằng khoảng tiền này nhiều hơn cả hai vợ chồng họ kiếm được trong một năm.
“Đã đến giờ quay lại du thuyền,” Kendall Hume nói. “Hãy nhớ nhập bọn với chúng tôi ăn trưa nếu các vị chọn được một tấm thảm đúng giờ.”
“Xin cảm ơn anh,” Vợ chồng nhà Roberts đồng thanh. Họ đợi cho vợ chồng nhà Kendall Hume đi khuất, hai người giúp việc khiêng tấm thảm da cam và vàng đi theo sau, rồi mới cảm ơn người bán hàng vì tách cà phê và lần lượt đi về phía cửa.
“Các vị đang tìm kiếm loại thảm như thế nào?” người bán hàng hỏi.
“Tôi e rằng giá của ông vượt tầm chúng tôi quá xa,” ông Christopher nói lịch thiệp. “Nhưng dù sao cũng xin cảm ơn.”
“À vâng, ít nhất hãy để tôi tìm hiểu. Ông hoặc vợ ông đã nhìn thấy một tấm nào mà các vị ưa thích chưa?”
“Có,” bà Margaret trả lời, “tấm thảm nhỏ, thế nhưng mà… »
“À vâng,” người bán hàng bảo. “Tôi nhớ được ánh mắt của quý bá khi trông thấy tấm thảm Hereke.”
Ông ta bỏ lại họ ở đó, giây lát sau quay lại với tấm thảm màu nhã, nền xanh dương với những ô vuông bé nhỏ mà vợ chồng nhà Kendall Hume đã kiên quyết từ chối. Không chờ được giúp đỡ, ông ta tự mình trải nó ra để cho vợ chồng nhà Roberts xem xét kỹ lưỡng hơn.
Bà Margaret nghĩ nó thậm chí còn đẹp lộng lẫy hơn nữa trong lần thứ hai này và e rằng mình không thể hy vọng tìm được tấm nào sánh ngang với nó trong một vài giờ còn lại của họ.
“Thật hoàn hảo,” bà thừa nhận không hề e ngại.
“Vậy thì chúng ta chỉ còn phải bàn bạc về giá cả thôi,” ông bán hàng nói tử tế. “Các quí vị định tiêu bao nhiêu, thưa bà?”
“Chúng tôi đã có kế hoạch tiêu ba trăm bảng,” ông Christopher nói xen vào. Bà Margaret không thể giấu nổi sự ngạc nhiên của mình.
“Nhưng mà chúng ta đã đồng ý…” bà ta bắt đầu nói.
“Em yêu, anh nghĩ anh sẽ xử lý vấn đề này.”
Ông bán hàng mỉm cười và quay lại với việc thỏa thuận giá cả.
“Tôi sẽ phải tính với các vị sáu trăm bảng,” ông ta bảo. “Thấp hơn một tý nào sẽ là sự cướp đoạt.”
“Bốn trăm bảng là giá cuối cùng của tôi,” ông Christopher cố gắng nói bình tĩnh.
“Năm trăm bảng là giá sàn của của tôi đấy,” người bán hàng nói.
“Tôi mua nó!” ông Christopher kêu lên.
Một người giúp việc bắt đầu vẫy vẫy đôi cánh tay và nói rất to với người bán hàng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Người chủ cửa hiệu giơ một bàn tay lên để phủ nhận những lời phản đối của anh thanh niên trong khi vợ chồng nhà Roberts sốt ruột dõi theo.
“Thằng con trai tôi,” người bán hàng giải thích, “không vui với giá cả như thế, nhưng tôi sung sướng khi biết rằng cái tấm thảm nhỏ này sẽ ở trong ngôi nhà của những người rõ ràng sẽ biết thưởng ngoạn giá trị thực của nó.”
“Xin cảm ơn,” ông Christopher nói khẽ.
“Các vị cũng sẽ yêu cầu một tấm hóa đơn với giá tiền khác đi chứ?”
“Không đâu, xin cảm ơn,” Christopher nói, đưa ra mười tờ giấy bạc năm mươi bảng rồi chờ đợi cho đến khi tấm thảm được bọc lại và ông ta nhận được tấm hóa đơn ghi đúng số tiền như vậy.
Người bán hàng dõi theo đôi vợ chồng nhà Roberts rời khỏi cửa hiệu, giữ chặt lấy món hàng mới mua được, người bán hàng mỉm cười một mình.
Khi họ tới được cầu cảng, con tàu của vợ chồng nhà Kendall Hume đã đi tới giữa vịnh, hướng tới bãi biển yên tĩnh. Vợ chồng nhà Roberts cùng thở phào nhẹ nhõm và quay trở lại khu chợ để ăn trưa.
°
° °
Đúng vào lúc họ đang chờ hành lý của mình xuất hiện trên băng chuyền tại sân bay Heathrow thì ông Christopher cảm thấy một cái vỗ nhẹ vào vai. Ông ta quay người lại đối mặt với ông Ray Kendaal Hume đang cười tươi như hoa.
“Không hiểu anh có thể giúp tôi một việc không, bạn mến?”
“Tôi sẽ làm nếu tôi có thể làm được,” ông Christopher nói, vẫn chưa hết hoàn hồn sau cuộc gặp gỡ cuối cùng của họ.
“Việc cũng đơn giản thôi,” Kendaal Hume bảo. “Tiểu thư già nhà tôi và tôi mang quá nhiều tặng phẩm về và tôi không biết liệu anh có thể mang một trong những món đồ đó qua hải quan được không. Nếu không chúng tôi chắc phải bị mắc kẹt lại cả đêm ở đây mất.”
Bà Melody, đang đứng đằng sau một chiếc xe đẩy chở va li chất nặng đầy, mỉm cười độ lượng với hai người đàn ông.
“Anh sẽ vẫn phải trả bất cứ khoản tiền thuế nào đánh vào món đồ đó,” ông Christopher quả quyết.
“Tôi sẽ không làm gì khác đâu,” Kendall Hume nói, vật lộn với một gói đồ lớn rồi đẩy nó lên chiếc xe đẩy của vợ chồng nhà Roberts. Ông Christopher muốn lên tiếng phản đối khi Kendall Hume lấy ra hai ngàn bảng và đưa số tiền đó cùng tấm hóa đơn cho ông giáo.
“Chúng tôi phải làm thế nào nếu như họ bảo tấm thảm của anh có giá trị lớn hơn mười ngàn bảng rất nhiều?” bà Margaret lo lắng hỏi, đến đứng bên cạnh ông chồng của bà.
“Cứ trả bù đi rồi tôi sẽ trả lại cho các vị ngay tắp lự. Nhưng mà tôi cam đoan với các vị là điều đó rất khó xẩy ra.”
“Tôi hy vọng là ông đúng.”
“Tất nhiên là tôi đúng mà,” Kendall Hume nói. “Đừng ngại, tôi đã từng làm những việc kiểu như thế này trước kia rồi. Và tôi sẽ không quên sự giúp đỡ của các vị trong buổi lạc quyên năm học tới,” ông ta nói thêm, bỏ họ lại với gói đồ khổng lồ.
Khi ông Christopher và bà Margaret nhận được những chiếc túi hành lý của họ, họ lấy thêm chiếc xe đẩy thứ hai và đứng xếp hàng trước tấm biển đỏ “Hàng hóa phải khai”.
“Các vị có mặt hàng nào trị giá trên năm trăm bảng không?” anh nhân viên hải quan trẻ lịch thiệp hỏi.
“Có,” ông Christopher nói. “Chúng tôi mua hai tấm thảm trong kỳ nghỉ của chúng tôi ở Thổ Nhĩ Kỳ.” Ông ta xuất trình hai tấm hóa đơn biên nhận.
Anh nhân viên hải quan xem các hóa đơn kỹ lưỡng, sau đó xin phép được tự mình xem xét những tấm thảm.
“Chắc chắn rồi,” ong Christopher nói, và bắt đầu công việc tháo dỡ các gói dồ lớn trong lúc bà Margaret làm việc với gói đồ nhỏ hơn.
“Tôi sẽ cần phải để một chuyên gia xem xét những tấm thảm kia,” anh nhân viên hải quan nói khi những gói đồ được cởi bỏ vỏ bọc. “Sẽ không mất quá mấy phút đồng hồ đâu.” Những tấm thảm nhanh chóng được mang đi chỗ khác.
“Mấy phút” đó biến thành hơn mười lăm phút, ông Christopher và bà Markaret sớm cảm thấy hối tiếc về qyết định giúp đỡ vợ chồng nhà Kendall Hume, bất kể nhu cầu về cuộc lạc quyên năm học mới có cần kíp đến đâu. Họ bắt đầu sa đà vào những chuyện vặt vãnh không đáng và nó không thể qua mắt được những thám tử cho dù là nghiệp dư nhất.
Sau cùng anh nhân viên hải quan quay trở lại.
“Tôi không biết liệu ông bà có thể trao đổi riêng đôi lời với người đồng nghiệp của tôi không?” anh ta hỏi.
“Cái đó có thực sự cần thiết hay không?” ông Christopher hỏi, mặt đỏ lựng lên.
“Tôi e là cần thiết, thưa ngài.”
“Tôi e là cần thiết, thưa ngài.”
“Chúng ta lẽ ra đã không nên đồng ý ngay từ ban đầu,” bà Margaret thầm thì. “Trước đây chúng ta chưa bao giờ gặp phải phiền phức với chính quyền bao giờ.”
“Đừng nói nữa, cưng à. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy, chỉ mấy phút nữa thôi, bà sẽ thấy,” ông Christopher bảo, không tin chắc vào lời nói của chính mình. Họ đi theo người trẻ tuổi đi ra ngoài về phía đằng sau tòa nhà và bước vào một căn phòng nhỏ.
“Xin chức một ngày tốt lành, thưa ngài,” một người đàn ông tóc bạch kim, với mấy chiếc vòng vàng đeo quanh cổ tay áo, lên tiếng. “Tôi xin được thứ lỗi vì để các quí vị phải chờ đợi, nhưng viên chuyên gia của chúng tôi xem xét những tấm thảm của quý vị và ông ta cảm thấy chắc chắn đã có một sự nhầm lẫn.”
Ông Christopher muốn lên tiếng phản đối nhưng không thể thốt lên một lời nào.
“Một sự nhầm lẫn ư?” bà Margaret cố gắng thốt lên.
“Vâng, thưa bà. Những hóa đơn mà quý vị xuất trình chẳng có nghĩa lý gì đối với ông ta.”
“Không có nghĩa lý gì sao?”
“Không, thưa bà,” viên quan chức hải quan cao cấp nói. “Tôi nhắc lại, chúng tôi cảm thấy chắc chắn đã xảy ra một sự nhầm lẫn.”
“Nhầm lẫn gì vậy?” ông Christopher hỏi, sau cùng đã lấy lại được sự bình tĩnh.
“À, vâng, quý vị đã khai báo hai tấm thảm, một tấm giá là mười ngàn bảng, và tấm kia có giá là năm trăm bảng, theo những tấm hóa đơn kia.”
“Thì sao?”
“Hàng năm, có hàng trăm người quay trở về nước Anh với những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ, do đó chúng tôi có những kiến thức nhất định về những vấn đề này. Ông cố vấn của chúng tôi thấy chắc chắn rằng các hóa đơn biên nhận đã bị làm sai.
“Tôi chưa hiểu mô tê gì hết…” ông Christopher nói.
“Thế này,” viên quan chức cao cấp giải thích, “tấm thảm lớn, chúng tôi tin chắc là nó đã được dệt với một con quay kéo sợi thô và chỉ có hai trăm mối, hay nút chỉ, trong một inh sơ vuông. Nên dù với kích cỡ lớn của nó, chúng tôi chỉ dự đoán giá trị của nó tầm năm ngàn bảng. Tấm thảm nhỏ, chúng tôi tính nó có chín trăm nút chỉ trong một inh sơ vuông, và là một ví dụ tinh xảo của thảm lụa dệt thủ công Hereke giàu truyền thống và chắc chắn có giá trị năm ngàn bảng. Bởi vì cả hai tấm thảm này đều từ cùng một cửa hiệu, chúng tôi cho là chắc có một sự nhầm lẫn nào đó trong việc ghi hóa đơn.”
Vợ chồng nhà Roberts vẫn không thốt lên lời.
“Nó sẽ khôgn tạo ra bất cứ thay đổi nào về số tiền thuế mà ông bà sẽ phải trả, thế nhưng chúng tôi thấy chắc chắn là ông bà muốn biết, vì những mục đích bảo hiểm ấy mà.”
Vợ chồng nhà Roberts vẫn không nói gì.
“Bời vì các vị được miễn trừ năm trăm bảng không phải trả thuế, số tiền thuế nội địa sẽ vẫn là hai ngàn bảng.”
Ông Christopher nhanh chóng đưa ra tập giấy bạc của vợ chồng nhà Kendall Hume. Viên hải quan cao cấp đếm số giấy bạc trong khi anh nhân viên dưới quyền của ông ta bọc lại hai tấm thảm.
“Xin cảm ơn các anh,” ông Christopher nói, khi họ được trao lại những kiện hàng hóa và hóa đơn biên nhận hai ngàn bảng vừa rồi.
Vợ chồng nhà Roberts nhanh chóng tống cái kiện hàng lớn lên chiếc xe đẩy fooif đẩy xe đi qua gian phòng đợi lớn của sân bay và ra tới vỉa hè bên ngoài, nơi vợ chồng nhà Kendaal Hume đang sốt ruột chờ đợi họ.
“Các vị ở trong đó thật là lâu,” Kendall Hume nói. “Có vấn đề gì không?”
“Không, họ chỉ đánh giá giá trị của những tấm thảm thôi.”
“Có chi phí phụ trội nào không?” Kendall Hume hỏi lo lắng.
“Không, hai ngàn bảng của anh chị đã trang trải tất cả mọi thứ,” ông Christopher nói, đưa ra cái biên lai.
“Vậy là chúng ta thoát rồi, bạn thân mến. Tuyệt quá. Một vụ mua bán quá tuyệt cộng thêm vào bộ sưu tập của tôi.” Kendall Hume xoay người để ấn cái kiện hàng khệ nệ vào trong cốp chiếc xe hơi Mercedes của mình, rồi khóa cốp xe lại và ngồi vào ghế sau tay lái. “Được lắm,” ông ta nhắc lại qua cánh cửa sổ mở, khi chiếc xe lao vút đi. “Tôi sẽ không quên dịp lạc quyên của trường học đâu.”
Vợ chồng nhà Roberts đứng và dõi theo chiếc xe màu xám bạc nhập vào dòng xe hơi rời phi trường.
“Tại sao anh không bảo cho ông Kendall Hume biết giá trị thực tấm thảm của ông ta?” Bà Margarets hỏi khi họ đã ngồi trên chiếc xe buýt.
“Anh đã suy nghĩ khá kỹ, nhưng anh rút ra kết luận rằng sự thật là điều cuối cùng Kendall Hume muốn được nghe.”
“Nhưng anh không cảm thấy một chút tội lỗi nào sao? Suy cho cùng, chúng ta đã phỗng tay trên…”
“Không tí nào đâu, em yêu. Chúng ta chẳng phỗng tay trên cái gì cả. Thế nhưng chúng ta đã vớ được “món hời” trời ơi chứ sao nữa.”
HẾT