TAI NẠN DÂY CHUYỀN

    
ần đầu tiên chúng tôi gặp Patrick Travers là vào kỳ nghỉ đông hàng năm ở Verbier. Khi chúng tôi đang đứng đợi thang máy trượt tuyết buổi sáng thứ bảy đầu tiên của kỳ nghỉ thì một người đàn ông tuổi ngoại tứ tuần đứng dẹp sang bên, nhường cho Caroline thế chỗ anh ta để chúng tôi có thể lên cùng nhau. Anh ta bảo đã kết thúc hai cua trượt buổi sáng hôm đó và có đợi một chút cũng không hề gì. Tôi cảm ơn anh ta và không nghĩ ngợi gì thêm về điều đó nữa.
Lên đến đỉnh là tôi và vợi tôi ai đi đường nấy ngay, cô ấy tới dốc A để gặp Marcel – người chỉ dạy những chân trượt trình độ cao – vợ tôi đã trượt tuyết từ khi lên bảy, tôi thì đến dốc B, và tìm bất cứ hướng dẫn viên nào đang rảnh rang – tôi mãi đến năm bốn mươi mốt tuổi mới học trượt tuyết. Thực ra thì dốc B vẫn còn quá tầm đối với tôi, cho dù tôi không dám thú nhận như vậy, đặc biệt là với Caroline. Thường thường chúng tôi gặp lại nhau trên đỉnh dốc, chỗ thang máy, sau khi đã hoàn thành những cua trượt của mình.
Buổi tối hôm đó chúng tôi chạm trán Travers tại quầy rượu khách sạn. Vì anh ta dường như chỉ có một mình nên chúng tôi mời anh ta cùng ăn tối với chúng tôi. Travers chứng tỏ mình là một bạn đồng hành đầy thú vị và chúng tôi đã có một buổi tối khá vui vẻ. Anh ta lịch thiệp tán tỉnh vợ tôi mà không hề vượt quá ranh giới, còn vợ tôi tỏ ra phấn khích vì sự chú ý đó. Qua năm tháng, tôi đã dần quen với việc đàn ông dễ bị cuốn hút bởi Caroline, và không khi nào lưu tâm xem mình may mắn ra sao. Trong bữa tối, chúng tôi được biết Travers là chủ một nhà băng nhỏ có một văn phòng trong thành phố và một căn hộ ở Quảng trường Eaton. Anh ta kể rằng năm nào cũng tới Verbier từ khi anh tat ham gia một khóa học hồi cuối thập kỷ năm mươi. Travers vẫn tự hào là người đầu tiên lên đỉnh dốc vào mỗi buổi sáng, hầu như luôn tung hoành trên các ngọn dốc trước các chân trượt địa phương.
Travers tỏ ra thực sự quan tâm tới việc tôi có một gallery mỹ thuật nhỏ tại khu West End. Hóa ra, bản thân Traverrs cũng là một nhà sưu tập chuyên về các tác gia nhỏ thuộc trường phái ấn tượng. Anh ta hứa sẽ ghé xem buổi triển lãm tiếp theo của tôi khi trở về London.
Tôi nhhiệt tình mời mọc nhưng chẳng hề nghĩ gì đến việc đó nữa. Sự thực là cho tới khi kết thúc kỳ nghỉ đó, tôi cũng chỉ thấy Travers có đôi lần, một lần đang trò chuyện với cô vợ của một người bạn tôi, chủ một gallery chuyên về thảm phương Đông, và lần thứ hai là khi anh ta đang trượt rất diệu nghệ theo sau Caroline xuống con dốc A đầy trắc trở.
°
° °
Phải mất sáu tuần lễ cộng với môt vài phút, tôi mới thấy lại Travers tại phòng tranh của tôi tối đó. Tôi lục tìm bộ phận ghi nhậ tên tuổi trong não bộ, một kỹ năng mà các chính trị gia phải trông cậy đến hàng ngày.
“Gặp được anh thật tốt quá, anh Edward,” anh ta nói. “Tôi thấy có bài về anh trên tờ Independent và nhớ ra lời mời ân cần của anh đén dự cuộc triển lãm cá nhân.”
“Rất vui anh đã đên xem, anh Patrick,” tôi trả lời, nhớ ra cái tên vừa đúng lúc.
“Bản thân tôi không phải là một gã ham rượu sâm panh đâu,” anh ta bảo tôi, “nhưng mà tôi sẵn sàng vất vả để được chiêm ngưỡng một bức Vuillard.”
“Anh đánh giá cao ông ta sao?”
“Ồ, vâng. Tôi đánh giá ông ta còn trên cả Pissarro và Bonnard, dù ông ta vẫn là một trong số các bậc thầy bị đánh giá thấp nhất của trường phái ấn tượng.”
“Tôi đồng ý,” tôi trả lời. “Tuy nhiên pòng tranh của tôi đã nhìn nhận như thế về Vuillard khá lâu rồi.”
“Bức Quý bà bên khung cửa sổ giá bao nhiêu?” anh ta hỏi.
“Tám mươi ngàn bảng,” tôi nói khẽ.
“Nó gợi cho tôi nhớ tới một bức tranh cảu ông ta tại bảo tàng Metropolitan,” Travers nói, trong lúc xem xét bức chụp lại trong catalogue.
Tôi hơi ngạc nhiên, bảo Travers rằng bức tranh của Vuillard ở New York đã được vẽ cách bức tranh mà anh ta hâm mộ chưa đầy một tháng.
Anh ta gật đầu. “Còn bức khỏa thân nhỏ?”
“Bốn mươi bảy ngàn,” tôi bảo.
“Bà Hensell, bà vợ của người buôn bán tranh cho ông ta, và nếu tôi không nhầm bà ta là cô nhân tình thứ hai của Vuillard. Những người Pháp luôn luôn văn minh hơn chúng ta rất nhiều trong những chuyện như thế. Nhưng mà bức tranh tôi ưa thích tại cuộc triển lãm này,” Travers nói tiếp, “chắc chắn có thể sánh được với những kiệt tác xuất sắc nhất của ông ấy.” Anh ta quay sang, hướng vào một bức sơn dầu lớn vẽ một thiếu nữ đang chơi dương cầm, người mẹ cô gái đang cong người lật giở khuông nhạc.
“Tuyệt tác,” anh ta thốt lên. “Tôi mạo muội hỏi nó đang giá bao nhiêu nhỉ?”
“Ba hảy mươi ngàn bảng,” tôi bảo, băn khoăn tự hỏi không biết cái giá như thế có quá tầm với của Travers không.
“Bữa tiệc tuyệt vời quá, Edward à,” một giọng nói cất lên phía sau lưng tôi.
“À! Percy!” tôi thốt lên, quay đầu a\lại. “Tớ cứ tưởng cậu bảo cậu không thể đến được.”
“Ờ, quả có thế thật, ông bạn ạ, nhưng tớ đã quyết định không thể cứ một mình ở nhà mãi được, nên tớ đã đến để dìm nỗi đau trong rượu sâm panh.”
“Đúng quá còn gì,” tôi bảo. “Thật đáng tiếc về Diana.” Tôi nói thêm khi Percy đi khỏi. Khi tôi quay đầu lại để tiếp tục câu chuyện với Patrick Travers thì không trông thấy anh ta đâu nữa. Tôi tìm quanh gian phòng và thấy anh ta đang đứng ở góc xa phòng tranh, chuyện trò với vợ tôi, với một ly rượu sâm panh trên tay. Caroline bận một bộ váy áo xanh lá cây hở vai mà tôi cho là hơi quá hiện đại. Đôi mắt của Travers dường như gắn chặt vào một điểm phía dưới cặp vai. Lẽ ra tôi đã không để ý đến điều này nếu như anh ta nói chuyện với một ai khác trong buổi tối hôm đó.
Dịp gặp gỡ kế tiếp với Travers diễn ra khoảng một tuần sau, khi tôi từ ngân hàng trở về với một ít tiền mặt. Lại một lần nữa anh ta đứng trước bức sơn dầu Vuillard vẽ bà mẹ và thiếu nữ bên cây dương cầm.
“Chúc buổi sáng vui vẻ, anh Patrick,” tôi nói khi đến bên anh ta.
“Dường như tôi không thể quên được bức tranh này,” anh ta nói khi tiếp tục ngắm nghía hai thân hình trong tranh.
“Cũng dễ hiều thôi.”
“Không hiểu anh có thể cho phép tôi sống với họ trong một hai tuần, cho đến khi tôi đi đến một quyết định cuối cùng được không? Đương nhiên tôi rất sẵn lòng đặt trước một khoản cược.”
“Tất nhiên là được,” tôi bảo. “Tôi muốn có một chứng nhận của ngân hàng nữa và khoản cược sẽ là hai mươi lăm ngàn bảng.”
Travers đồng ý với cả hai đề nghị không chút đắn đo, vậy nên tôi hỏi anh ta muốn bức tranh được chuyển đến đâu. Anh ta đưa cho tôi một tấm danh thiếp ghi địa chỉ của anh ta tại Quảng trường Eaton. Buổi sáng hôm sau các chủ nhà băng của anh khẳng định rằng ba trăm bảy mươi ngàn bảng không là vấn đề gì đối với thân chủ của họ.
Trong vòng hai mươi tư giờ đồng hồ, bức tranh Vuillard đã được mang tới và treo trong phòng ăn tại tầng một nhà anh ta. Travers gọi điện lại cho tôi vào buổi chiều để cảm ơn và hỏi xem liệu Caroline và tôi có thể đến dùng bữa tối với anh ta không; anh ta bảo muốn nghe ý kiến thứ hai về bức tranh.
Với ba trăm bảy mươi ngàn bảng đã đặt cược, tôi thấy mình không dễ gì từ chối lời mời này, và dù sao đi nữa Caroline cũng có vẻ sốt sắng chấp nhận, nói rằng nàng muốn xem ngôi nhà anh ta ra sao.
Chúng tôi ăn tối với Travers vào ngày thứ năm. Hóa ra chúng tôi là những vị khách duy nhất. Tôi còn nhớ là tôi đã rất ngạc nhiên vì không có một bà Travers nào cả, hay ít nhất cũng là một cô người yêu thường trú ở đó. Travers là một chủ nhà chu đáo và bữa ăn mà anh ta chuẩn bị rất tuyệt vời. Tuy nhiên, lúc đó tôi thấy anh ta có vẻ hơi quan tâm lo lắng quá cho Caroline, dù nàng tỏ ra thích thú với sự chú ý mạnh mẽ đó. Có lúc tôi tự hỏi nếu tôi tan biến vào không khí thì không biết có ai trong hai người nhận biết được không.
Đêm hôm đó, khi chúng tôi rời khỏi Quảng trường Eaton, Travers bảo tôi anh ta gần như đã quyết định về bức tranh. Tôi cảm thấy ít nhất buổi tối này cũng đã phục vụ được cho một mục đích nào đấy.
Sáu ngày sau, bức tranh được gửi trả lại phòng tranh của tôi với mấy lời nhắn kèm theo, nói rằng anh ta không cần đến nó nữa. Travers không nhọc lòng nêu lến lí do, mà đơn giản kết thúc lời nhắn, anh ta nói hy vọng một lúc nào đó sẽ ghé qua xem lại các bức Vuillard khác. Đầy thất vọng, tôi gửi trả lại tiền ứng trước, nhưng tôi cũng nhận thấy khách hàng thường hay quay lại, đôi khi hàng tháng, thậm chí hàng năm sau.
Thế nhưng Travers không bao giờ quay lại.
Khoảng chừng một tháng sau thì tôi biết lý do tại sao. Khi tôi đang ăn trưa tại chiếc bàn lớn đặt chính giữa câu lạc bộ của tôi, giống như tại những nơi dành cho đàn ông khác, chiếc bàn được giữ cho những thành viên đi một mình. Percy Fellows là người bước vào câu lạ bộ sau tôi nên anh ngồi xuống ghế đối diện. Tôi chưa gặp được anh để trò chuyện kể từ buổi triển lãm cá nhân tranh của Vuillard, và lúc đó chúng tôi cũng chưa thực sự nói hết câu chuyện. Percy là một trong những nhà buôn bán đồ cổ được kính trọng nhất tại Anh Quốc. Tôi đã có một lần đổi chác  thành công với anh, một chiếc bàn giấy của vua Charles Đệ Nhị đổi lấy một bức phong cảnh Hà Lan của Utrillo.
Tôi nhắc lại mình lấy làm tiếc về chuyện của Diana.
“Chuyện của chúng tớ chắc chắn sẽ kết thúc bằng một vụ ly hôn,” anh ấy giải thích. “Cô ta thông thạo mọi giường chiếu ở thủ đô London này. Tớ đã bắt đầu giống như một thằng ngốc bị cắm sừng, và cái gã Travers chết dẫm ấy là giọt nước cuối cùng.”
“Travers ư?” Tôi nói, không hiểu.
“Patrick Travers, cái thằng cha được nêu tên trong đơn ly dị của tớ. Cậu biết thằng đó à?”
“Tôi biết cái tên đó,” tôi ngập ngừng nói, muốn nghe thêm trước khi thú nhận mối quen biết sơ sơ của chúng tôi.
“Buồn cười thật,” anh ấy bảo. “Xin thề là tớ đã trông thấy hắn tại cuộc triển lãm cá nhân ở gallery của cậu.”
“Nhưng cậu định nói gì, hắn ta là giọt nước cuối cùng?” Tôi hỏi, gắng đưa tâm trí Percy ra khỏi buổi khai trương triển lãm.
“Chúng tớ gặp gã đó ở trường đua Ascot. Hắn nhập hội với chúng tớ cùng ăn trưa, rất vui mừng uống rượu sâm panh của tớ, ăn bánh kem dâu tây của tớ, rồi sau đó, chưa kết thúc tuần lễ đã đưa vợ tớ lên giường. Nhưng đó chưa là một nửa câu chuyện đâu.”
“Chưa được một nửa sao?”
“Gã đó còn dám vác mặt đến cửa hiệu của tớ, đặt cọc một khoản lớn cho một cái bàn kiểu Georgian. Rồi hắn mời hai chúng tớ đến ăn tối để ngắm nghía cái bàn. Sau đó khi đã có đủ thời gian làm tình với Diana, hắn gửi trả lại cả hai, hơi cũ đi một chút. Trông cậu sao thế, anh bạn,” Percy bỗng nhiên kêu lên. “Thức ăn có vấn đề hả, nó không được như trước nữa kể từ hồi Harry chuyển đến nấu cho Carlton. Tớ đã viết về việc này mấy lần cho hiệp hội rượu vang nhưng mà…”
“Không sao, tớ khỏe mà,” tôi bảo. “Tớ chỉ cần thoáng khí một chút. Tớ xin lỗi nhé, Percy.”
Trên đường từ câu lạc bộ trở về tôi quyết định tôi phải làm một cái gì đó với ông Travers.
°
° °
 Sáng hôm sau tôi đợi thư từ gửi đến và kiểm tra mọi phong bì gửi cho Caroline. Không có điều gì bất thường, thế nhưng tôi nghĩ Travers không ngu dại gì lại để lại cái gì đó trên giấy tờ. Tôi cũng bắt đầu nghe trộm điện thoại của nàng, nhưng hắn cũng không nằm trong số những người gọi điện thoại, ít nhất là trong lúc tôi còn ở nhà. Thậm chí tôi còn kiểm tra công tơ mét xe hơi của nàng xem nàng có đi đâu xa không, nhưng quảng trường Eaton thì đâu có xa xôi. Thường thường những điều ta không làm lại để lộ ra vấn đề, tôi rút ra quyết định đó: Chúng tôi đã không làm tình nửa tháng nay, và nàng chẳng mảy may đả động tới chuyện đó.
Tôi tiếp tục theo dõi Caroline cẩn thận hơn trong suốt nửa tháng sau, nhưng tôi thấy rõ ràng Travers đã mệt mỏi với nàng vào ngay thời gian mà hắn gửi trả lại bức Vuillard. Điều này càng làm tôi điên tiết.
Rồi tôi lên kế hoạch trả thù mà lúc đó tôi thấy rất tuyệt diệu, tôi tự nhủ rằng mất vài ngày tôi sẽ vượt qua được vụ này, thậm chí còn quên nó đi. Nhưng tôi không quên được. Dường như là ý nghĩ đó đã lớn lên thành một sự ám ảnh. Tôi bắt đầu tự thuyết phục mình, rằng trách nhiệm lớn lao của tôi là phải giải quyết Travers trước khi hắn ta bôi nhọ thêm bất cứ bạn bè nào của tôi.
Trong đời mình, tôi chưa bao giờ phạm pháp một cách có ý thức. Đỗ xe phạm luật làm tôi khó chịu, vứt rác lung tung làm tôi phật ý và tôi trả thuế VAT ngay ngày đầu tiên khi cái phong bì to tướng rơi vào thùng thư.
Tuy nhiên khi tôi đã quyết định cần làm việc gì thì tôi tỉ mỉ chuẩn bị kế hoạch. Đầu tiên, tôi cho rằng phải bắn Travers, rồi tôi nhận ra rất khó khăn mới có được một giấy phép sử dụng súng. Hơn nữa, nếu tôi thực hiện trôi chảy thì hắn chết rất ít đau đớn, mà điều này không nằm trong kế hoạch tôi dành cho hắn. Rồi trong đầu tôi nảy ra ý định đầu độc hắn – nhưng cái này liên quan đến nhân chứng kê đơn, mà tôi cũng không được chứng kiến cái chết từ từ tôi mong muốn. Bóp cổ chăng, tôi cho là phải vận dụng quá nhiều can đảm – và trong mọi tình huống, hắn ta to con hơn tôi, có khi tôi lại là người bị bóp cổ cũng nên. Chết đuối ư, có khi phải mất hàng năm hắn ta mới gần nước, mà tôi chưa chắc đã tiếp cận được hắn khi hắn lặn xuống nước lần thứ ba. Thậm chí tôi còn nghĩ đến cán chết thằng cha chết tiệt đó, nhưng lại thôi vì thấy cơ hội gần như bằng không, hơn nữa tôi không có thời gian xem hắn ta đã chết hay chưa. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng thật là khó để giết một ai đó mà không một ai biết đấy là đâu.
Đêm đêm tôi thức đọc tiểu sử những kẻ giết người, nhưng tất cả bọn họ đều bị bắt, và bị kết án, nên tôi không an tâm. Tôi chuyển sang tiểu thuyết trinh thám, trong đó luôn luôn cho phép một sự tình cờ, may rủi, hay một sự kì diệu mà tôi không sẵn lòng mạo hiểm, cho đến khi tôi vớ được một câu của Conan Doyle: “Bất cứ nạn nhân tương lai nào có một thói quen thường ngày lập tức làm cho chính bản thân họ dễ bị nguy hiểm hơn”. Tôi nhớ đến thói quen thường ngày của Travers, mà vì nó hắn ta rất đỗi tự hào. Việc này cần mất thêm sáu tháng đợi chờ nữa, nhưng đó cũng là thời gian để tôi hoàn chỉnh kế hoạch. Tôi sử dụng rất có hiệu quả quãng thời gian này để củng cố kế hoạch, bởi vì mỗi khi Caroline đi vắng quá hai mươi tư giờ là tôi lại đăng ký học ngay buổi trượt tuyết tại con dốc khô ở Harrow.
Tôi thấy vô cùng dễ dàng để tìm hiều xem Traveers sẽ trở lại Verbier vào thời gian nào, và tôi có thể thu xếp kì nghỉ đông của mình sao cho trùng khớp, khoảng ba ngày thôi – một quãng thời gian đủ cho tôi thực hiện tội ác đầu tiên của mình.
°
° °
Caroline và tôi tới Verbier vào ngày thứ sáu thứ hai của tháng giêng. Nàng đã hơn một lần nhận xét về tính khi khác thường của tôi trong dịp lễ Noel, và hy vọng kì nghỉ sẽ giúp tôi thư giãn. Tôi có thể nào giải thích nàng hay rằng chính ý nghĩ về kì nghỉ này đã làm cho tôi căng thẳng. Khi máy bay đang trên đường bay tới Thụy Sĩ, nàng hỏi tôi liệ Travers sẽ tới đó năm nay không. Điều đó cũng không giúp ích gì cho tính khí của tôi.
Buổi sáng đầu tiên sau khi tới nơi, chúng tôi đi thang máy lên đỉnh dốc lúc khoảng mười giờ ba mươi, Caroline đến đăng kí ngay với anh Marcel. Khi nàng cùng anh ta đi dốc A, tôi quay lại dốc B để trượt một mình. Như thường lệ, chúng tôi thống nhất sẽ gặp lại nhau ở thang máy, hoặc nếu lạc nhau, thì ít nhất chúng tôi cũng gặp nhau trong bữa ăn trưa.
Trong những ngày sau đó, tôi duyệt qua duyệt lại nhiều lần kế hoạch tối ưu mà tôi đã hoàn chỉnh trong đầu và đã luyện tập siêng năng ở Harrow cho đến khi tôi đã chắc chắn là nó hoàn hảo. Kết thúc tuần lễ đầu tiên, tôi đã tự thuyết phục mình rằng tôi đã sẵn sàng.
°
° °
Buổi tối trước hôm Travers dự định sẽ tới, tôi là người cuối cùng rời khỏi con dốc. Ngay cả Caroline cũng nhận xét trình độ trượt của tôi đã tiến bộ và nàng gợi ý với Marcel rằng tôi đã sẵn sàng với con dốc A, với những khúc cua gấp hơn và độ dốc đứng hơn.
“Có lẽ phải đợi đến sang năm,” tôi bảo nàng, cố gắng tỏ ra bình thường, và quay lại dốc B.
Trong buổi sáng cuối cùng, tôi trượt đi trượt lại dặm đầu tiên của đường trượt, và bị cuốn hút vào đường trượt đến mức tôi hoàn toàn quên mất là phải gặp Caroline để ăn trưa.
Buổi chiều, tôi kiểm tra đi kiểm tra lại những chỗ cắm cờ đỏ đánh dấu đường trượt, và khi tôi tin chắc chân trượt cuối cùng đã về nghỉ tối, tôi thu hồi khoảng ba mươi cây cờ, và cắm chúng lại theo một đường trượt mới và tôi đã vạch ra một cách kỹ lưỡng. Nhiệm vụ cuối cùng là kiểm tra lại đoạn đường đã chuẩn bị đó rồi đắp một ụ tuyết lớn cách chừng hai mét phía trên cái điểm đã được lựa chọn. Sau khi hoàn thành việc chuẩn bị, tôi chầm chậm trượt xuống núi dưới ánh chiều tà.
“Anh định đoạt huy chương vàng Olympic hay sao?” Caroline hỏi tôi khi cuối cùng tôi đã mò về tới phòng. Tôi đóng cửa nhà tắm để nàng khỏi chờ đợi một câu trả lời.
°
° °
Travers nhận phòng khách sạn chừng một giờ sau đó.
Tôi chờ đợi cho trời tối hẳn rồi xuống quầy rượu gặp hắn và cùng uống. Hắn tỏ ra hơi căng thẳng khi mới trông thấy tôi, nhưng tôi nhanh chóng làm cho hắn thấy thoải mái. Vẻ tự tin trước đây của hắn trở lại ngay làm cho tôi càng thêm quyết tâm thực hiện kế hoạch của mình. Tôi bỏ hắn tại quầy rượu một vài phút trước khi Caroline xuống ăn tối để nàng khỏi thấy tôi và hắn ngồi với nhau. Sự ngạc nhiên thơ ngây sẽ là cần thiết một khi hành động đã được thực hiện.
“Ăn ít như vậy chẳng giống anh chút nào, hơn nữa anh còn bỏ bữa trưa nay,” Caroline nhận xét khi chúng tôi rời phòng ăn tối hôm đó.
Tôi chẳng bảo sao khi chúng tôi đi ngang qua Travers đang ngồi bên quầy rượu. Bàn tay hắn đang đặt trên đầu gối của một phụ nữ đứng tuổi vô tội khác. Đêm đó tôi không chợp mắt được một giây nào, tôi bước xuống giường trước sáu giờ sáng một chút, thận trọng để không đánh thức Caroline. Mọi thứ đều nằm trên sàng buồng tắm đúng như vị trí tôi đã sắp sẵn đêm trước. Một thoáng sau, tôi đã nai nịt sẵn sàng. Tôi bước xuống cầu thang phụ của khách sạn, tránh chiếc thang máy và tuồn ra ngoài theo “cửa thoát hiểm”, lần đầu tiên biết cảm giác của một tên trộm. Tôi đội một chiếc mũ len kéo xuống trùm hết tai và đôi kính trượt tuyết úp lên mặt: Ngay cả Caroline cũng sẽ không nhận ra tôi.
Tôi tới chỗ chân thang máy trước giờ mở cửa của nó bốn mươi phút. Đứng một mình phía sau căn phòng nhỏ chứa cỗ máy điện dùng để kéo thang, tôi biết rằng giờ đây tất cả mọi điều phụ thuộc vào sự tuân thủ thói quen của Travers. Tôi không dám chắc mình có hoàn tất công việc được hay không nếu như kế hoạch của tôi phải dịch chuyển sang ngày hôm sau. Trong lúc chờ đợi tôi giậm chân lên những bông tuyết tươi roi rói và đập hai bàn tay lên ngực để giữ ấm. Chốc chốc tôi lại nghiêng ngó xung quanh, hy vọng sẽ thấy hắn ta rảo bước về phía tôi. Bỗng loáng một cái, có cái gì đó xuất hiện tại chân đồi ven đường, một đôi ván trượt nằm trên đôi vai một người đàn ông. Nhưng rốt cuộc nếu không phải là Travers thì sao nhỉ.
Một chút sau, tôi bước ra từ phía sau căn phòng nhỏ đi tới chỗ người đàn ông ăn vận rất âm áp nọ. Đó chính là Travers và hắn ta không giấu nổi ngạc nhiên thấy tôi đang đứng ở đấy. Tôi bắt đầu bằng cách tán gẫu rằng đêm qua bị mất ngủ và nảy ra ý định nhân tiện trượt  một vài vòng trước giờ cao điểm. Giờ đấy tất cả những gì tôi cần là thang máy bắt đầu chạy đúng giờ. sau bảy giờ vài phút, một kỹ sư đến nơi và cỗ máy khổng lồ đầy dầu mỡ bắt đầu lanh canh chuyển động.
Chúng tôi là hai bị khách đầu tiên ngồi lên những chiếc ghế nhỏ bé chuyển động lên cao và ngang qua thung lũng sâu thăm thẳm. Tôi luôn ngoái cổ lại để kiểm tra phía sau xem có ai không.
“Tôi thường trượt hết một vòng ngon lành rồi mà người thứ hai vẫn chưa tới,” Travers bảo khi thang máy lên đến đỉnh. Tôi quay nhìn lại để chắc chắn rằng chúng tôi đã ra khỏi tầm nhìn của viên kỹ sư điều khiển thang máy, và nhìn xuống độ cao khoảng sáu mươi mét, tự hỏi không biết rơi cắm đầu xuống thung lũng thì sẽ cảm thấy thế nào nhỉ? Tôi bắt đầu thấy chóng mặt buồn nôn và ước gì mình chưa nhìn xuống.
Chiếc thang máy chầm chậm giật cục trên những dây cáp cho đến khi chúng tôi đến được điểm xuống thang.
“Chết tiệt,” tôi nói, khi chúng tôi nhảy xuống từ những chỗ ngồi nhỏ bé. “Marcel chưa có  mặt.”
“Tầm này thì chưa bao giờ,” Travers nói, đi về hướng dốc trượt cao cấp. “Còn quá sớm đối với anh ta.”
“Tôi nghĩ là anh sẽ trượt xuống cùng với tôi chứ?” tôi gọi với theo Travers.
Anh ta dừng lại và quay nhìn tôi đầy hồ nghi.
“Caroline cho là tôi đã sẵn sàng nhập hội với các vị,” tôi giải thích, “Thế nhưng tôi không vững tâm được như thế và tôi trân trọng một ý kiến thứ hai. Tôi đã tự phá kỉ lục của bản thân bên dốc B mấy lần rồi, nhưng tôi không muốn làm thằng ngốc trước mắt vợ tôi.”
“Ồ, tôi…”
“Tôi sẽ yêu cầu Marcel nếu anh ta có ở đây. Nhưng dù sao anh cũng là chân trượt giỏi nhất mà tôi biết.”
“À, nếu anh…” anh ta lên tiếng.
“Chỉ một lần thôi, rồi anh có thể trượt bên dốc A từ nay cho đến hết kỳ nghỉ. Anh thậm chí có thể coi đường trượt này là động tác làm cho nó ấm lên thôi mà.”
“Có lẽ cũng nên thay đổi một chút.”
“Chỉ một lần thôi mà,” tôi lặp lại. “Đó là điều tôi cần. Rồi sau đó anh có thể cho tôi biết tôi đã đủ trình độ hay chưa?”
“Ta đua tốc độ chứ?” anh ta bảo, làm tôi ngạc nhiên trong lúc tôi xỏ ván. Tôi không thể phàn nàn; tất cả mọi sách viết về những vụ giết người đã cảnh báo tôi phải chuẩn bị sẵn sàng với những điều bất ngờ. “Đó là một cách để biết anh đã sẵn sàng hay chưa,” anh ta thêm vào đầy vênh váo.
“Nếu anh muốn như vậy. Nhưng đừng quên, tôi già hơn và ít kinh nghiệm hơn anh,” tôi nhắc nhở anh ta. Tôi kiểm tra nhanh thanh ván trượt bởi vì tôi biết tôi phải xuất phát trước mũi hắn.
“Thế nhưng anh thuộc lòng dốc B từ sau ra trước,” hắn ta bật lại. “Tôi thì chưa bao giờ thấy nó.”
“Tôi sẽ đồng ý một cuộc đua nếu anh tán thành một vụ cá cược,” tôi trả lời.
Lần đầu tiên tôi thấy mình đã chọc đúng chỗ ngứa của hắn. “Bao nhiêu?” hắn hỏi.
“Ồ, tiền bạc thì trần tục quá nhỉ,” tôi bảo. “Người thắng cuộc phải nói cho Caroline biết sự thật.”
“Sự thật?” hắn nói, tỏ ra bối rối.
“Đúng vậy,” tôi trả lời và lao vút xuống đồi trước khi hắn ta kịp trả lời. Tôi mở đầu tốt khi tôi bay lượn giữa các ngọn cờ đỏ, nhưng nhìn lại qua lưng tôi thấy hắn đã rút ngắn khoảng cách nhanh chóng và đang đuổi tôi sát sạt. Tôi biết điều sống còn với tôi là phải dẫn trước hắn một phần ba đầu tiên của quãng đường trượt, nhưng tôi cảm thấy hắn đang rút dần khoảng cách.
Sau nửa dặm đường vừa lạng lách vừa bay lượn, hắn ta kêu to, “Anh phải trượt nhanh hơn nhiều nữa thì mới có hy vọng chiến thắng tôi.” Câu nói ngạo mạn của hắn càng đẩy tôi lên trước, tôi vẫn dẫn trước chỉ vì tôi có thuận lợi là thuộc lòng từng khúc ngoặt gấp gáp, lồi lõm của dặm đường đầu tiên đó. Khi tôi biết chắc chắn mình sẽ tới khúc đường sống còn đã được đánh dấu trước hắn, tôi bắt đầu thư giãn đôi chút. Tôi đã luyện tập hai trăm mét đường trượt phía trước mặt năm mươi lần mỗi ngày trong mười ngày qua, nhưng tôi cũng quá hiểu rằng chỉ riêng lần này mới quyết định.
Tôi liếc qua vai, thấy hắn ta chỉ còn cách mình chừng ba chục mét. Tôi hơi giảm tốc độ khi tiến gần đến ụ tuyết đã chuẩn bị sẵn, trong lòng hy vọng hắn không lưu ý hoặc nghĩ là tôi đã xuống tinh thần rồi. Tôi giảm tốc độ hơn nữa khi chạm tới đỉnh của đống tuyết cho tới khi hầu như nghe được tiếng thở của hắn ở sau lưng. Rồi đột ngột vào giây phút mà tôi đặt chân xuống tuyets, tôi cày hai chiếc ván trượt vào đống tuyết mà tôi đã đắp sẵn tối qua và dừng hẳn lại. Travers lướt qua tôi với tốc dộ bảy mươi km/h và vài giây sau đó bay cao lên không trung, ngang qua thung lũng với một tiếng thét mà không bao giờ tôi quên được. Tôi không bắt mình phải nhìn xuống rìa núi bởi vì tôi biết rằng hắn đã gãy từng khúc xương trên người khi đáp xuống nền băng tuyết cả trăm mét phía bên dưới.
Tôi cẩn trọng san phẳng ụ tuyết đã cứu mạng mình và ngược lên đỉnh núi với sự nhanh nhất có thể, gom ba mươi cây cờ mà tôi đã cắm trên con đường giả, rồi tôi trượt chéo từ bên này sang bên kia cắm lại đúng vị trí của chúng trên con dốc B cách đống tuyết tôi dựng lên khoảng một trăm mét. Xong việc, tôi trượt xuống núi, cảm thấy mình như một quán quân Olympic. Khi xuống tới chân dốc tôi kéo mũ che kín đầu và không tháo kính ra, tôi tháo bàn trượt và đủng đỉnh đi bộ về khách sạn. Tôi vào tòa nhà bằng cổng sau, lên giường lúc bảy giờ bốn mươi. Tôi kiềm chế nhịp thở, nhưng phải một một lúc, nhịp đập mới trở lại bình thường. Caroline tỉnh dạy sau đó mấy phút, quay sang ôm lấy tôi.
“Ôi, anh lạnh cứng này, anh đã ngủ không đắp chăn hay sao?”
Tôi cười to. “Chắc em đã kéo để hở anh ra lúc đêm rồi.”
“Dậy đi tắm nước nóng đi.”
Sau khi tôi tắm nhanh xong, chúng tôi làm tình và tôi mặc quần áo lại, kiểm tra thêm một lần nữa rằng tôi không để lại dấu vết nào của cú lượn sáng sớm nay rồi xuống ăn sáng.
°
° °
Khi Caroline rót ly cà phê thứ hai cho tôi, tôi nghe thấy tiếng hú còi xe cứu thương, lúc đầu chạy từ phía thành phố, rồi sau đó quay lại.
“Hy vọng đó không phải là một tai nạn tồi tệ,” vợ tôi bảo, khi nàng tiếp tục rót cà phê cho mình.
“Sao cơ?” Tôi nói hơi to, mắt rời khỏi tờ Thời báo của ngày hôm trước.
“Tiếng còi hú ấy, ngốc ạ. Chắc là có một tai nạn trên núi. Có lẽ là Travers,” nàng bảo.
“Travers sao?” Tôi nói, còn to hơn nữa.
“Patrick Travers. Em trông thấy hắn ta tại quầy rượu tối qua. Em đã không bảo với anh bởi vì em biết anh không ưa hắn.”
“Nhưng tại sao lại là Travers?” Tôi hỏi giọng căng thẳng.
“Chẳng phải hắn luôn tuyên bố mình là chân trượt đầu tiên trên đỉnh dốc vào mỗi buổi sáng sớm đó sao? Thậm chí còn qua mặt các giáo viên hướng dẫn nữa chứ.”
“Vậy sao?” Tôi nói.
“Anh phải nhớ chứ. Cái bữa chúng ta lên thang máy lần đầu hôm gặp hắn thì hắn đã trượt đến vòng thứ ba rồi còn gì.”
“Thế hả?”
“Sáng nay anh làm sao vậy, Edward à. Chắc anh ra khỏi giường không đúng chỗ hả?” nàng hỏi, miệng cười lớn.
Tôi không trả lời.
“Này, em chỉ hy vọng đúng là Travers,” Caroline nói thêm, nhấm nháp ly cà phê. “Em chưa bao giờ ưa hắn.”
“Sao lại không?” Tôi hỏi hơi sửng sốt.
“Hắn ta đã tán tỉnh em một lần,” nàng nói bình thản.
Tôi nhìn nàng chằm chằm, không thốt nên lời.
“Thế anh không hỏi điều gì đã xảy ra sao?”
“Anh bị choáng quá nên không biết nói sao,” tôi trả lời.
“Hắn ta săn đón em ráo riết buổi tối hôm đó tại phòng tranh, rồi mời em đi ăn trưa sau bữa chúng mình cùng ăn tối với hắn. Em bảo hắn biến ngay,” Caroline nói. Nàng khẽ chạm vào tay tôi. “Trước đây, em chưa nói cho anh biết là vì em nghĩ đó là lý do khiến hắn ta gửi trả lại bức Vuillard, và điều đó chỉ làm cho em cảm thấy mình có lỗi.”
“Nhưng người phải cảm thấy có lỗi chính là anh,” tôi nói, tay mâm mê mẩu bánh mỳ nướng giòn.
“Ồ, không đâu, anh yêu, anh không có lỗi gì hết. Dù sao nếu khi nào em quyết định không chung thủy thì  không phải với một con thằn lằn nhà như thế đâu. Trời phật chứng giám, không đâu. Diana đã bảo em hắn sẽ như thế nào rồi. Hoàn toàn không phải típ người em thích.”
Tôi ngồi nghĩ về Travers đang trên đường được đưa tới nhà xác, hay còn tệ hại hơn nữa, vẫn còn bị chôn vùi dưới tuyết, biết rằng tôi chẳng thể làm được gì về chuyện đó.
“Anh biết không, em nghĩ đã đến lúc anh giải quyết dốc A rồi,” Caroline nói khi chúng tôi kết thúc bữa sáng. “Anh tiến bộ quá sức đấy.”
“Ờ,” tôi trả lời, hơi đăm chiêu.
Tôi hầu như chẳng nói năng gì khi chúng tôi cùng nhau rảo bước đến chân núi.
“Anh có sao không, cưng?” Caroline hỏi khi chúng tôi ngồi trên thang máy đi len bên nhau.
“Tốt thôi,” tôi bảo, không thể nhìn xuống hẻm núi khi thang lên đến đỉnh. Phải chăng Travers vẫn còn ở dưới đó, hay đã ở trong nhà xác?
“Thôi đừng làm bộ sợ hãi như con nít nữa đi. Sau tất cả những gì anh làm được tuần vừa rồi, anh phải sẵn sàng hơn để nhập cuộc với em chú,” nàng nói quả quyết.
Tôi mỉm cười yếu ớt. Khi chún tôi lên tới đỉnh, tôi nhảy xuống khỏi thang máy hơi sớm một nhịp, và biết ngay rằng tôi đã bị bong gân mắt cá chân khi nhấc bước chân thứ hai.
Tôi không nhận được sự cảm thông nào từ Caroline. Nàng tin chắc tôi làm bộ để tránh phải cố gắng trượt ở dốc cao cấp. Nàng lướt qua tôi và phóng xuống núi trong khi tôi quay trở lại đầy xấu hổ bằng thang máy. Khi tôi xuống chân thang, tôi liếc nhìn viên kỹ sư nhưng ông ta chẳng hề để ý đến tôi. Tôi tập tễnh lê bước tới trạm sơ cứu và vào đăng ký khám. Caroline vào với tôi vài phút sau đó.
Tôi giải thích cho nàng hay rằng người phụ trách an toàn ca trực cho là tôi có thể bị rạn xương và gợi ý rằng tôi nên nhập viện ngay.
Caroline nhăn mặt, tháo bỏ ván trượt và đi kiếm một chiếc ta xi để đưa chúng tôi đến bệnh viện. Đoạn đường không xa, đó là đoạn đường mà tay ta xi đã chạy qua quá nhiều lần, có thể thấy rõ qua các cú ngặt điêu luyện anh ta thực hiện.
“Chắc em phải ăn tối ngoài tiệm cả năm về vụ này quá,” Caroline nói với tôi khi chúng tôi bước vào cánh cửa của bệnh viện.
“Xin bà vui lòng đợi bên ngoài, thưa bà?” một nam hộ lý yêu cầu khi tôi được đưa vào phòng X-quang.
“Vâng, nhưng liệu có bao giờ tôi được gặp lại ông chồng đáng thương của tôi nữa không?” nàng châm chọc khi cánh cửa đóng lại trước mặt nàng.
Tôi bước vào một căn pòng xếp đầy máy móc tối tân được một bác sĩ ăn mặc sang trọng điều khiển. Tôi bảo ông ta tôi bị đau ra sao và ông ta nhẹ nhàng đặt chiếc chân đau lên một chiếc máy X-quang. Giây lát sau, ông ta xem xét một phim âm bản lớn.
“Không có rạn xương,” ông ta trấn an, tay chỉ vào khúc xương. “Nhưng nếu ông còn đau một chút nào thì tốt hơn nên bó chặt mắt cá chân lại.” Rồi ông bác sỹ kẹp tấm phim X-quang của tôi bên cạnh năm tấm phim khác đang treo trên một sợi dây.
“Tôi đã là người thứ sáu ngày hôm nay sao?” Tôi hỏi, nhìn lên hàng phim X-quang.
“Không, không,” ông ta nói, cười to. “Năm tấm kia của cùng một người. Tôi cho là anh ta định cố gắng bay qua hẻm núi, cái thằng ngốc.”
”Qua hẻm núi á?”
“Đúng thế, khoe mẽ mà, tôi nghĩ vậy.” Ông ta vừa nói vừa quấn băng quanh mắt cá chân tôi. “Năm nào chúng tôi cũng có một vụ, nhưng anh chàng đáng thương này gãy cả hai chân và một cánh tay, và sẽ lĩnh một cái sẹo khá khó chịu trên mặt để nhắc nhở anh ta về sự ngu ngốc của mình. Theo tôi còn sống được là may mắn đấy.”
“May mắn còn sống sao?” tôi lặp lại yếu ớt.
“Đúng vậy, nhưng mà chỉ vì anh ta không biết mình đang làm gì. Thằng cháu mười bốn tuổi nhà tôi trượt veo qua khe núi đó và có thể hạ cánh như hải âu tiếp nước vậy. Còn anh này thì,” ông bác sĩ chỉ vào những tấm phim X-quang, “sẽ không thể trượt lại cho tới cuối mùa nghỉ. Thực tế là sẽ không thể đi lại được trong ít nhất sáu tháng tới.”
“Thật vậy sao?” Tôi nói.
“Còn về phần anh,” ông ta nói thêm, sau khi đã băng xong cho tôi, “chỉ cần ngâm chân trong nước đá ba tiếng một lần và thay băng ngày một lần. Anh sẽ lại ở trên dốc trượt chỉ sau vài ngày nữa thôi, ba ngày là tối đa.”
“Tối nay chúng tôi bay về,” tôi bảo ông ta khi gắng gượng đứng dậy.
“Dự trù thời gian tốt đấy,” ông ta bảo, mỉm cười.
Tôi khấp khểnh lê chân khỏi phòng X-quang, Caroline đang chúi mũi vào tạp chí Elle.
“Trông anh có vẻ tự hài lòng với bản thân,” nàng bảo, mắt nhìn lên.
“Đúng là như vây, rốt cuộc chỉ bị gãy hai chân, một tay và một vết sẹo trên mặt.”
“Em ngu thế không biết,” Caroline nói, “em đã nghĩ đó chỉ là một cú bong gân đơn giản.”
“Không phải anh,” tôi bảo nàng. “Là Travers – vụ tai nạn sáng nay, em còn nhớ chứ? Chiếc xe cứu thương đó. Tuy vậy, họ đảm bảo với anh là anh ta sẽ sống,” tôi nói thêm.
“Tiếc quá,” nàng bảo, quàng cánh tay nàng vào cánh tay tôi. “Sau tất cả những phiền phức mà anh phải chịu đựng, em đã hy vọng là anh sẽ thành công cơ đấy.”

HẾT