Chương 4

    
ột con ong ngựa to tướng dị thường, khắp mình vằn những khoang vàng đen, bay vòng trên lưng con long câu còn ướt đẫm nước sòng, rồi sà xuống dưới bụng ngựa.
Người giám mã già mẫn cán vội thụp người xuống, quơ túm lá tràm trên tay xua con ong dữ. Qua khoảng trống từ bụng đến cặp chân trước của con long câu, người giám mã bỗng bắt gặp đôi mắt long lanh ti hí trên khuôn mặt choắt cheo như mặt chuột kẹp, đang trên bờ sông nhìn chõ xuống – “À ra bọn vô lại muốn dòm ngó ngựa quí của ta. Có giỏi cứ mó vào dái ngựa rồi sẽ biết thân”. Vừa lầm bầm, lão vừa nuốt những giọt nước đọng dưới bụng ngựa. Từ trên bờ, một câu nói vọng xuống: “Tội nghiệp cho con ngựa quí thế kia mà phải tắm nước sông”.
Vẫn không nhìn lên, lão xẵng giọng: “Không tắm nước sông thì tắm nước gì?”
- “Ngựa này thì phải tắm cho nó nước ngũ vị hương mới xứng” – Tiếng nói theo người xuống bến. Lão giám mã ngẩng đầu lên bỗng đâm ra lúng túng, thái độ nghi ngờ lúc nãy tan dần. Đứng trước mặt lão, không phải là một tên đầu trộm đuôi cướp mà một con người có tư thế đường hoàng, áo quần tề chỉnh nếu không nói là sang trọng.
- “Thưa tôn ông, thiên hạ thường hay mê gái, còn kẻ quê mùa này lại phải cái tật mê ngựa. Hễ trông thấy ngựa tốt là cặp mắt cứ dính chặt vào không gỡ ra được. Xin tôn ông tha cho tội đường đột vừa rồi”.
Lão giám mã định dắt ngựa đi nhưng thấy gã mặt chuột có vẻ biết người biết của, ăn nói lại lễ độ nên lão đứng lại. Gia dĩ lão lại có cái tính hễ gặp ai tán dương con Xích Long là lão có thể đứng nghe hàng giờ không biết chán.
- Nhà bác phải cái tật mê ngựa từ bao giờ thế?
- Dạ, mẹ cháu đẻ rơi cháu trong tàu ngựa. Nên có khi là cháu mê ngựa từ lúc mới lọt lòng. – Gã đưa tay chỉ vào con ngựa Xích Long miệng điểm một nụ cười trơn tuột:
- “Chân cao săn bắp, bụng thon mông đầy, lông ngắn mà mượt, đúng là con ngựa nòi này lai giống Đặc Ma. Đã bôn nhanh mà còn dai sức.
Lão giám mã cười độ lượng:
- Kể ra nhà bác cũng sành xem ngựa đấy. Nhưng cái quí nhất của con thần mã này nằm ở đâu bác biết không? Ở đây này! Lão trỏ vào hai đốm lông trắng mọc ở cặp vó sau.
Gã mặt chuột kêu lên một tiếng kinh ngạc:
- Trời đất ơi! Lại thế nữa! Thời bố cháu còn sống, cháu có nghe bố cháu nói qua một lần. Ai ngờ bây giờ mới được trông thấy. Đúng! Đúng! Toàn thân là một khối lửa đỏ lại thêm hai cụm mây trắng sau chân. Đúng là dòng ngựa Vạn-lí-Vân, vượt núi băng đèo, ngày đi ngàn dặm.
Thấy lão giám mã khoái chí cười tít mắt, gã lựa lời tiếp:
- Quí thì quí thật. Nhưng giá ông có biếu không con ngựa này cho cháu, thì cháu cũng lạy cả tơi lẫn nón mà xin trả lại thôi”.
Lão giám mã hơi biến sắc. – Thế con ngựa này có tật xấu gì mà nhà bác nói như vậy?
- “Dạ cháu đâu có dám nghĩ thế. Tôn ông tính xem, bỏ hẳn cái công chăm sóc hàng ngày ra một bên, cứ nguyên cái khoản chạy thức ăn cho nó cũng đủ sạt nghiệp nhà cháu rồi. Người ta thường nói vật quí là phải trao vào tay người quí. Chứ hạng người như cháu thì quả thực không dám mơ tưởng sờ đến sợi lông chân của nó.
Lão giám mã gật gù tán đồng câu nói thật lòng mà rất chí lý của gã.
- Dạ, không dám giấu gì tôn ông, nhà cháu cũng có nuôi một con ngựa còm để đôi lúc nghễu nghện cho vui. Cháu đã tốn vào đấy bao nhiêu công của mà nó vẫn còm nhom như con cò hương.
- Ấy, cái nghề vỗ ngựa là cứ phải có cỏ sữa non và thóc cẩm.
- Dạ, tôn ông nói chí phải. Nhưng thóc cẩm ở vùng này hiếm lắm. Không đào đâu ra được một hạt. Cháu cứ phải đón bọn khách buôn qua lại trên sông may ra mới có. Hôm nay cháu ra đây cũng vì việc ấy.
Nghe đến chuyện thóc cẩm như chạm vào chỗ ngứa, lão giám mã buột mồm nói: - Này nhà bác có tìm được khơ khớ cái món thóc cẩm ấy thì nhượng lại cho lão một ít nhé.
- Chào, tưởng chuyện gì chứ chuyện vặt ấy, tôn ông chả cần phải nhắc. Giá nhà cháu có sâm, cháu sẵn lòng mang ra cho nó ngoạm vài củ để trông cho sướng mắt”
Trên mặt gã biểu lộ đầy đủ nhiệt tâm của một con người mê ngựa đến quên cả mọi việc trên đời. Bỗng mắt gã sáng lên, gã trỏ tay ra phía bờ sông: -“Kìa! Có thuyền lên”. Nhìn theo tay gã, lão giám mã trông thấy một con thuyền từ dưới hạ lưu men bờ chèo ngược lên. Gã khúm tay trên miệng, gọi to: “-Có hàng gì không, hở các người anh em?”
Một cái đầu thò ra ngoài mui thuyền, chiếc nón khum tùm hụp che lấp cả mặt mũi. – Có chục cây vải Vũ Duyên với ít muối Hải Đông thôi.
- Này các chú lái ơi! Các chú có thùng thóc cẩm nào cho tớ vỗ con nghẻo còm của tớ không? Hay các chú đã vỗ lời hẹn phiên trước với tớ rồi.
Giây lâu mới có tiếng đáp:
- Dạo này, hàng họ khan hiếm lắm, chỉ mang được dăm thúng thôi.
- Được, cứ áp thuyền vào đi. Có bao nhiêu cũng tốt.
Gã hớn hở nói với viên giám mã:
- Con ngựa quí của ta gặp may rồi. Cháu xin nhượng tất.
Lão giám mã vội xua tay từ chối nhưng gã đã tiếp, nét mặt rầu rầu: - Sao tôn ông lại không hiểu cho tấm lòng của cháu…
Lão giám mã chừng như cũng xiêu lòng:
- Nhưng nhà bác cũng cần phải hỏi giá cả phân minh.
Mặt gã trở nên tươi tỉnh: “Ồ, chuyện ấy xin ông cứ yên tâm. Đây toàn là bạn bè quen nhau nhẵn mặt. Mua hộ chứ buồn gì bán gì cái của này. Họ chỉ tính giá gốc thôi chứ chẳng chịu lấy lãi đâu”. Gã xăm xăm đi xuống bến. Thuyền đã cập bờ. Gã nhòm vào trong khoang: “- Thóc đâu? Người anh em cứ quẳng ra cho tớ”. Rồi gã xắn tay áo, nhanh nhẹn vác từng bao lên bờ.
Tình cờ tìm được thóc cẩm mà lại giá hời, lão giám mã mừng rơn trong bụng. Nhưng lão cứ phải có vài lời từ chối lấy lệ rồi mới thuận để cho gã mặt chuột đặt hai bao thóc lên lưng ngựa. Lão thọc tay vào hầu bao, chợt khựng lại, mặt cứ đuỗn ra, giây sau, lão mới ấp úng: “Lão thật vô tâm… Cứ nghĩ đi tắm cho ngựa, lão chẳng đem theo mình một tí tiền nong nào cả”. Gã mặt chuột vồn vã: - Tôn ông chả nên bận tâm chuyện quái ấy làm gì. Của này có đáng là bao. Cháu xin biếu không cho con ngựa quí”.
Mặt lão giám mã bỗng nghiêm hẳn lại: - “Đời lão xưa nay chưa hề ngửa tay lấy không của ai một vật gì”.
Gã mặt chuột vội vàng cười khỏa lấp: - Vâng, vâng! Cháu biết. Thế thì cháu xin theo gót ông về tận nơi vậy”.
Khi hai người quay lưng đi được dăm bước thì từ trong mui thuyền, ba cái đầu ló ra nhòm theo. Một gã đẫy đà có cái mũi đỏ bầm như quả mận chín. Gã thứ hai gầy hơn, mắt lác. Mắt gã nhóng lên bờ mà tưởng chừng như gã liếc vào khoang trong. Gã thứ ba ra sau cùng. Khi gã này đứng lên mới thấy người gã cao nhõng như cây sào, đôi tay vượn dài quá khổ. Gã có một cái đầu quả dưa rất ngộ nghĩnh, hai bên thái dương hóp lại rồi phình ra ở đôi lưỡng quyền cao gồ, trông như cái eo của quả bầu nậm. Từ nơi giữa hai con mắt một mí, buông thõng xuống một sống mũi thẳng và dài thượt. Mọi cái trên con người của gã đều dài ngoẵng. Riêng cái miệng của gã lại hẹp và nhỏ nhắn, môi mọng đỏ như miệng con gái. Gã đứng nhìn theo lão giám mã và tên mặt chuột cho đến khi bóng hai người khuất sau lưng đồi. Trên đôi môi xinh xắn mọng đỏ của gã như phảng phất một nụ cười tủm tỉm. Rồi gã vẫy tay cho thuyền xuôi về mé bờ bên kia. Đến một chỗ có lau sậy mọc um tùm, thuyền dừng lại. Ba gã xách tay nải nhảy lên bờ. Con thuyền vẫn tiếp tục trôi xuôi.
Ba gã len lỏi qua đám lau sậy, vượt qua các đám cỏ gai, hướng bóng cây đa cao trước mặt. Bọn chúng lùi lũi đi, lặng thinh như ba con vật không mồm. Đến trước cây đa, chúng đi chậm lại đảo mắt nhìn quanh. Tựa vào gốc đa, một ngôi miếu cổ nằm khuất trong đám lá cây hoang vu, rậm rạp. Dường như bọn chúng đã qua lại nơi đây một đôi lần. Cỏ ống cao ngất, mọc đầy cả sân miếu, ăn lẫn vào tận bực thềm. Sau cái gật đầu của tên đầu quả dưa, bọn chúng vạch cỏ tiến vào ngôi miếu cổ.
Ngôi miếu nhỏ này đã bỏ hoang lâu ngày. Cửa long tường lở, nhện giăng tứ tung khắp các lỗ thủng trên mái ngói. Tượng thần trên bệ, người ta đã mang đi từ lâu. Còn trơ lại cái màu đìu hiu, vàng vọt của năm, tháng.
Gã mắt lác bẻ một túm lá quét qua lớp bụi dày trên mặt đất, rồi cùng chia chỗ nằm với gã mũi đỏ. Còn gã đầu quả dưa thót lên ngồi trên bệ cao trong hậu tẩm. Mãi đến lúc này, gã mắt lác mới hướng vào hắn, cất mồm hỏi:
- Anh cả này, trước khi ra đi, lão chủ nhân có căn dặn…
Gã chợt nhìn thấy đôi mắt một mí của tên đầu quả dưa quắc lên, gã biết lỡ lời, vội nín bặt. Đi ra ngoài mà nhắc đến lão chủ nhân là một điều cấm kị. Gã vội quay sang gã mũi đỏ, lảng chuyện:
- Anh Hai, em có mang theo cho anh lọ nước “giếng thờ” của mụ chủ quán đấy.
Nhưng từ trong hậu tẩm, tên đầu quả dưa đã buông gọn một câu:
- Thằng Ba đừng lèm bèm nữa. Ngủ đi còn lấy sức.
Trong ngôi miếu cổ lại im vắng hoàn toàn. Nghe rõ tiếng con nhặng xanh đang vùng vẫy kêu cứu từng hồi trong lưới nhện bên vòm cửa… Tiếng quạ chiều quang quác trên ngọn đa đánh thức bọn chúng dậy; gã mũi đỏ ngáp dài vươn vai lấy đá đánh lửa châm bùi nhùi, vấn thuốc hút. Gã mắt lác chốc lát lại đứng lên bước ra, nhón chân nhòm qua bức bình phong xây bằng gạch đã đổ nát sạt hẳn một bên góc. Cuối cung, không chịu nổi, gã ghé vào tai tên mũi đỏ, thầm thì: “Sao đến bây giờ hắn chưa đến?” Gã mũi đỏ vẫn im lặng nhả khói. Hắn liếc vào trong hậu tẩm thấy ông anh cả vẫn bình thản lấy miếng trầu bỏ vào mồm nhai bỏm bẻm. Hắn đành tiu nghỉu ôm gối ngồi nhìn ánh hoàng hôn ủ dột đang nhạt dần trên bức tường loang lổ.
Chợt hắn nghe tiếng động ngoài sân miếu. Vừa ngẩng đầu lên hắn đã trông thấy tên mặt chuột lần vào đến bậc thềm. Hắn nôn nóng hỏi ngay: - Thế nào rồi?
- Ổn cả! Tên mặt chuột hổn hển đáp.
Gã mũi đỏ bước ra: - Đã khử con ngựa chưa?
- Khử xong rồi.
Gã mắt lác nhảy cẫng lên: - Lần này thì tha hồ mà tiêu tiền!
Tên mặt chuột đưa tay ra: -“Có rượu mừng trước cho tớ một hớp”. Gã mắt lác thò tay vào nải lôi ra một nậm rượu. Tên mặt chuột chụp lấy nậm, tu một hơi liền.
Gã mũi đỏ hớn hở bảo: “- Mày khá thật! Làm sao mà công việc trơn tru, trót lọt đến thế. Hãy kể cho bọn tớ nghe với”.
- Mọi sự trót lọt được cũng nhờ vào cái này. Tên mặt chuột vừa nói vừa lấy ngón tay xỉa vào cái mồm kẹp của hắn. Tớ cũng không ngờ lão già chăn ngựa ấy lại thích tâng bốc đến thế. Tớ làm cho lão ta mê tít cù đèn. Đến mức mình bỏ nắm thóc độc vào máng trước mũi lão mà lão chẳng hay biết gì cả. Lúc trộn thóc cho ngựa ăn, lão bóp bóp hạt thóc độc rồi bảo:
- Thóc tốt nhưng cũng có đôi hạt lép. Hắn cười ục ục trong cổ họng. Nhưng được cái tính của lão ta rất sòng phẳng. Chẳng chịu trả thiếu một đồng kẽm nhỏ.
Gã mắt lác nóng ruột hỏi dồn: - Vậy con ngựa ấy đã chết thật rồi chứ?
- Chết đứ đừ rồi còn thật với giả! Ông cả quản đây đã dặn tớ là chính mắt mình thấy con ngựa chết rồi mới được lui. Vì vậy tớ vờ ra về rồi quay lại lẻn vào cái lều chất cỏ ở phía sau chuồng ngựa, nằm phục đấy, phủ cỏ lên mình, lấy ngón tay chọc thủng một lỗ ở trên bức vách để nhòm sang. Tớ thấy tận mắt con vật ấy, miệng sùi bọt mép, rùng mình mấy cái rồi khuỳnh hai chân sau, ỉa tong tong từng hồi như xối nước. Cứ thế nó khụy dần, lăn kềnh ra mặt đất, các thớ thịt giật liên hồi như kẻ động kinh. Còn lão chăn ngựa thì mặt mày xám xanh, nhìn qua con ngựa rồi bỏ chạy đi trình với lão Thái Úy.
Gã mắt lác lại hỏi: - Thế cậu có được xem mặt lão Thái Úy không?
- Đáng lẽ sau khi con ngựa chết là tớ phải chuồn ngay. Nhưng vì tò mò muốn biết mặt lão Thái Úy nên tớ mới nằm nán lại. Lát sau tớ mới thấy lão Thái Úy đi xuống, theo sau là gã tì tướng trẻ với lão chăn ngựa.
- Lão Thái Úy đẹp lắm mà oai nghiêm như thần phải không? – Gã mắt lác lại cắt lời.
- Ối! Thiên hạ đồn đại chứ lão có thần thánh gì đâu. Lão cũng thường như mình thôi. Chỉ có măt mày của lão thì sáng sủa hơn bọn ta nhiều. Có lẽ người ta sợ là vì cặp mắt của lão, cặp mắt trong veo, đồng tử lấp loáng, nhìn ai như soi thấu vào tâm cn. Nhưng lão ăn mặc lại rất xoàng xĩnh, các cậu ạ. Tớ thấy lão bước thẳng lại chỗ con ngựa nằm, vạch mồm, banh mắt, sờ nắn khắp mình ngựa, chẳng kể gì cứt đái ngựa vung vãi đầy mặt đất. Hồi lâu chừng như thấy không phương cứu chữa, lão đứng thừ người rồi khóc…
Gã mắt lác vụt kêu lên: “- Lão Thái Úy mà khóc à? Mày chỉ khéo bịa!” Tên mặt chuột cãi lại: “Thằng nào nói điêu, trời đánh thánh vật nó đi. Lão khóc nhưng chỉ khóc thầm, mặt quay vào tấm phên nên không một ai trông thấy”.
Đến bây giờ gã mũi đỏ mới đánh một câu: - Ối mẹ ơi! Lão này keo kiệt quá, chỉ mất một con ngựa mà xót của đến rơi nước mắt.
Gã mắt lác bồi thêm: Nếu tớ mà làm đến chức Thái Úy thì chết một chứ chết mười con ngựa, tớ cũng không thèm rỏ một giọt nước mắt, cứ lấy tiền công khố bảo quân hầu lùng mua ngựa khác là xong.
- “ Lão không chỉ khóc mà còn nói lảm nhảm với con ngựa như người đọc văn tế. Tớ không nhớ hết nhưng đại khái lão kể lể nào nắng lửa Đồ Bàn quạt sém đuôi, nào Ải Bắc gió rung bờm tuyết, nào đèo gió ải mây, lão xông pha trận mạc cùng với ngựa như hai người bạn thân thiết”.
Gã mũi đỏ bật cười: Rõ lão này tiếc của quá sinh cuồng rồi.
- “ Khóc xong, lão Thái Úy lau nước mắt rồi quay lưng lại, lúc ấy lão ta mới thấy lão già chăn ngựa đang nằm mọp dưới đất, trên lưng đặt một cái hèo to tướng.
Gã mũi đỏ lại reo lên: -“ À, chết một con ngựa mà thầy hóa điên, tớ cũng điên theo. Rồi sao nữa kể đi”.
Tên mặt chuột cao hứng nốc một ngụm rượu rồi kể tiếp:
- Thấy vậy, lão Thái Úy mới hỏi – “Ngươi làm chi vậy?”
Lão chăn ngựa thưa: “—Dạ, con biết tội con quá nặng xin Thái Úy hãy thẳng tay trừng phạt, con mang ơn”.
Lão Thái Úy cau mày bảo: “Ngựa chết là vì bệnh thời khí, hôm qua bên dinh phò mã cũng có một con ngựa chết như vậy. Ta đâu có hỏi tội ngươi”.
Nhưng lão chăn ngựa cứ dập đầu nói: “Dạ, thưa Thái Úy, con đã vào nếm cơm ở nhà Thái Úy từ lúc Thái Úy còn đương chức ở nội đình. Hơn hai mươi năm nay, con chưa có điều gì sơ suất, vậy mà bỗng dưng vô ý không chăm sóc đến nơi đến chốn để con ngựa quí…” Lão nói chưa hết câu đã khóc hu hu. Thái Úy đỡ lão dậy rồi ôn tồn bảo: “Ngựa quí đến đâu cũng là con vật. Ta với lão tuy thân phận khác nhau nhưng cùng là con người. Chả lẽ ta đi quý ngựa hơn người, ta đâu phải kẻ coi người rơm của ngọc”. Nhưng khi lão chăn ngựa vừa ngẩng đầu lên, Thái Úy bỗng nhìn sững vào bộ mặt mếu máo của lão. Giây lâu, Thái Úy hỏi: -“ Ngươi có đau ốm gì không? – Dạ không ạ! Thái Úy tặc lưỡi: “Lạ nhỉ!” Lão chắp tay sau lưng hết nhìn mặt tên giữ ngựa đến xác con ngựa chết. Giây sau, Thái Úy hỏi: - Thế vừa rồi ai trộn thóc cho ngựa ăn? Lão chăn ngựa đáp: - Dạ, chính tay con đây trộn một đấu thóc cẩm!” Vừa nói hắn vừa xòe hai bàn tay ra. Thái Úy chăm chú nhìn rồi hỏi: - Ngươi bị thương ở ngón út này phải không? Hắn bảo: “- Dạ không ạ… à, dạ có ạ - vừa rồi khi lấy cỏ, con sơ ý để gai tre cào tướp máu”. Thái Úy gật đầu rồi nhìn hắn nói: - Này, có phải vừa rồi ngươi nhất mực đòi ta phải trừng phạt ngươi không? – Dạ, nếu được Thái Úy trừng phạt thì con mới yên tâm. Nếu không thì con cứ tự giày vò con mãi đến sinh ốm mất”.
Thái Úy rút ngọn đao cài ở lưng viên tì tướng rồi bỗng nghiêm giọng: “- Vậy đao đây, ngươi hãy chặt đứt ngón út đi.” Lão chăn ngựa vui vẻ: “- Con xin tuân lệnh!”. Hắn hoành đao, chặt phăng ngón tay út.
Gã mắt lác lè lưỡi: “ Lão Thái Úy này ác độc mà thâm hiểm. Ngoài mặt thì lão nói tha mà cuối cùng lão cũng lấy một ngón tay của người ta”.
Tên mặt chuột cười: “Cậu chưa hiểu được đâu”. Rồi hắn nốc thêm một ngụm rượu, say sưa kể tiếp: - Thấy vậy, tên tì tướng kêu thất thanh: Trời ơi! Nhưng lão Thái Úy vẫn lạnh lùng bảo lão chăn ngựa: “- Ngươi vào bảo viên thái y rịt thuốc rồi lo liệu việc chôn cất con long câu cho chu đáo”. Xong xuôi, lão Thái Úy mới quay lại hỏi viên tì tướng: “– Vừa rồi con định nói gì với ta”. Tên tì tướng cứ lúng búng: “- Dạ bẩm… dạ bẩm”. Lão Thái Úy mỉm cười hiền từ: “- Con cứ nói. Ta thích nghe lời nói thật”. Tên tì tướng đánh bạo: “Thưa Thái Úy, lâu nay Thái Úy vốn nhân từ độ lượng…” Lão Thái Úy nối lời ngay: “- mà vì con ngựa chết, chặt ngón tay người giữ ngựa”. Tên tì tướng bối rối: “Dạ, thật quả tình con không hiểu…” Lão Thái Úy ôn tồn: “- Với ta, con cứ nói thật lòng mình, đừng sợ ta phật ý. Còn trong chuyện này nếu không chặt ngón tay ấy đi thì chất độc sẽ gây bối thư ăn vào máu, lúc ấy có chặt cả cánh tay e cũng không còn kịp nữa”. Tên tì tướng trố mắt: “- Trời ơi! Hóa ra Thái Úy đã cứu sống cho viên giám mã và con ngựa của ta đã bị kẻ gian đầu độc”. Lão Thái Úy gật đầu rồi hạ giọng: -“Nhưng ta cấm con không được tiết lộ điều này, cứ bảo con ngựa chết vì bệnh thời khí! Thì ra bây giờ tớ mới nhớ cái lão chăn ngựa ngốc nghếch ấy đã bóp nát những hạt thóc độc và bảo đó là thóc lép nên nọc độc mới thấm vào vết thương”.
Bỗng một tiếng phì nổi lên trong hậu tẩm. Gã đầu quả dưa phun toẹt cả bã trầu lẫn cốt trầu ra đất rồi một giọng nghiêm nghị vọng ra: - “Mày nói lão Thái Úy đã biết rõ âm mưu hạ độc của bọn ta, có phải thế không?”
Tên mặt chuột tái mặt, hơi men bay mất. Đến bây giờ hắn mới thấy hắn đã dại mồm nói ra những lời đáng lẽ không nên nói, có muốn rút lời thì đã chậm mất rồi. Bất giác, hắn hoảng sợ lùi lại mấy bước. Nhưng tên đầu quả dưa đã bước ra theo: “- Mày đã làm hỏng việc lớn của người trên mà còn di họa đến bọn ta nữa, mày đã biết tội chưa”.
Tên mặt chuột ấp úng không thành tiếng: “- Tại vì… tại vì cái lão chăn ngựa”. Rồi hắn vụt quay mình chạy. Nhưng tên đầu quả dưa đã vung tay. Một làn sáng trắng bay thẳng vào lưng hắn rồi phụt tắt. Trên tay tên đầu quả dưa nằm, một lưỡi dao lá trúc có buộc một sợi dây bằng gân thú. Tên mặt chuột rú lên một tiếng, ngã sấp xuống cỏ dại.
Vẫn một nụ cười phảng phất trên đôi môi đỏ thắm cốt trầu, gã đầu quả dưa nhìn hai đứa đàn em, nói nhỏ: “- Thằng này bẻm mép, câu chuyện lọt đến tai chủ nhân thì bọn ta khó sống. Hơn nữa, hắn đã lộ mặt rồi; nếu người của lão Thái Úy bắt được hắn thì hại đến chủ nhân mà bọn ta cũng không yên. Bây giờ cứ về trình là ba anh em ta đã khử con ngựa của lão Thái Úy rất êm thấm mà lão ấy không một mảy may nghi ngờ. Các chú nghe chứ?” Hai tên đàn em gật đầu.
Hắn moi trong tay nải ra một bao bì lớn và một sợi dây ném cho gã mắt lác, ra lệnh: “- Chú ba! Cho hắn vào bao dằn đá cẩn thận, gửi hắn dưới sông cho hà bá giữ hộ. Rồi chú về đây sửa soạn lên đường”. Nụ cười vẫn không tắt trên môi hắn.