CHƯƠNG 3

    
ãy để tôi được bắt đầu bằng vài nét miêu tả về mái tóc của cô ấy - bởi vì, quả thực, không thể bắt đầu bằng bất cứ điều gì khác được. Mái tóc của cô giống như những chùm nho Tartarus(12) mọc trong đêm, vươn lên từ một nơi tối tăm đến nỗi ánh sáng mặt trời chỉ là lời đồn thổi. Nó mọc lan ra khắp nơi, những lọn quăn đen rủ xuống quyến rũ tới mức trông chúng như thể sẵn sàng nuốt chửng tay bạn nếu bạn may mắn được lướt những ngón tay của mình qua vậy. Mái tóc của cô lạ lùng đến độ thậm chí giờ đây, sau rất nhiều năm, tôi vẫn phải ngồi chế ra những ẩn dụ vớ vẩn này đây, việc tôi biết sẽ làm mình phải tiếc thương mỗi sáng.
Đôi mắt của cô cũng sắp làm tôi cảm thấy lúng túng. Nó cháy bùng như trái tim xanh lét của bao cặp tình nhân ghen tuông cứ buộc tội nhau mỗi khi đêm về. Không, tôi nhầm rồi, mắt cô không phải màu lục: nó màu xanh nước biển. Những con sóng đại dương cuộn lên trong tròng mắt cô, như một cơn bão bất ngờ ập đến, sẵn sàng cướp lấy viên thủy thủ khỏi người vợ của anh. Không, đợi chút… có thể mắt cô màu xanh lục: đôi mắt có khả năng thay đổi màu sắc tùy tâm trạng, có lẽ vậy, như những chiếc nhẫn cẩn đá quý công khai chuyển màu theo cảm xúc người đeo.
Cô xuất hiện tại khoa bỏng trong bộ áo dành cho người thăm bệnh màu xanh lá cây nhạt, với đôi mắt khó hiểu cùng mớ tóc rối tinh rối mù, và tôi đợi một cử chỉ há hốc miệng quen thuộc của bất cứ ai mới nhìn thấy tôi lần đầu. Tôi đợi cô lấy tay che miệng vì sốc và kinh hãi. Cô làm tôi thất vọng khi chỉ nở nụ cười:
“Anh bị bỏng. Một lần nữa.”
Thông thường tôi luôn tuân theo quy tắc không đáp lại bất cứ câu nói kỳ quái nào của người lạ. Nhưng, thành thực mà nói, trong trường hợp này sự im lặng của tôi xuất phát từ việc tôi không muốn cô nghe cái giọng vịt đực như toilet vỡ của tôi. Cổ họng tôi đang lành lại, nhưng tai tôi (bên còn nghe được) vẫn chưa quen với chất giọng thảm hại hiện tại. Tôi chỉ muốn cô nghe được giọng nói trước đây của mình, giọng nói có thể dụ dỗ phụ nữ lên giường.
Trước sự im lặng của tôi, cô nhắc lại. “Đây là lần thứ ba anh bị bỏng.”
Tôi thu hết can đảm và chỉnh cô. “Mới một lần thôi.”
Một thoáng bối rối hiện ra trên mặt cô. “Có lẽ anh không còn là mình nữa.”
Cô tiến lại giường tôi, mắt không ngừng xoáy sâu vào mắt tôi, kéo chặt những tấm rèm nhựa dày mắc xung quanh chúng tôi để đảm bảo cuộc nói chuyện được riêng tư. Cô rướn người về trước, cách tôi có vài phân, chăm chú nhìn vào mặt tôi. Chưa có bất cứ ai nhìn tôi kiểu ấy, trước vụ bỏng cũng vậy và hiển nhiên là kể từ sau đó thì càng không. Mắt cô, lấp lánh lúc xanh lục, lúc xanh biển, có những quầng thâm đen phía dưới, như thể cô chưa ngủ cả tuần liền rồi. Khi môi cô gần như chạm vào môi tôi, cô thì thầm một từ. “Engelthal.”
Không nghi ngờ gì nữa, thưa bạn đọc, bạn hẳn đã có lúc nào đó trong đời mặt đối mặt với một người điên chứ. Bạn có thể cảm nhận được sự điên rồ ngay lập tức, thường thì ngay trước khi đối phương có cơ hội nói được gì, nhưng cái câu rất vô nghĩa này cứ bám chặt lấy tôi. Gặp một người điên thì chẳng có gì đáng nói cả, vì cả thế giới đều sống chung với họ; cái thu hút tính hiếu kỳ của tôi là phản ứng của chính bản thân kia. Thông thường với mỗi cuộc gặp gỡ như vậy, bạn chỉ muốn tránh ra xa. Nếu đang đi trên phố, bạn sẽ nhìn vội sang chỗ khác rồi rảo bước nhanh hơn, nhưng ở phòng điều trị bỏng cách duy nhất tôi có thể làm là rung chuông gọi y tá. Nhưng tôi đã không làm thế. Phản ứng duy nhất của tôi trước tình huống có thể rất nguy hiểm này là không phản ứng gì cả. Vậy ai điên hơn, người phụ nữ tóc tai rối bù hay là tôi?
Cô lùi lại một bước. “Anh không nhớ gì cả.”
“Phải.” Cho dù điều cô nghĩ lẽ ra tôi phải nhớ có là gì đi nữa thì cũng rõ như ban ngày là tôi không nhớ gì hết.
“Thế càng thú vị,” cô nói. “Anh có biết họ đang cố đầu độc những trái tim của tôi không?”
“Không,” tôi lại trả lời, nhưng cảm aacute;u cứ nhỏ giọt xuống đống đá vụn dưới chân cô. “Phòng khám thú y.”
“Để tôi xem nào.” Tôi với lấy cổ tay cô.
Marianne Engel, với vẻ sợ hãi đột ngột hiện lên trên mặt, giơ thẳng cái đục về phía tôi. Trước đây cô mới chỉ dùng bạo lực dọa tôi có một lần, khi cô ném bình cà phê vào tôi lúc ở trên tháp chuông. Lúc đó tôi đã chắc chắn rằng cô cố ý ném trượt nhưng bây giờ tôi biết nếu cô quăng cái đục vào tôi, thì cô thực sự muốn ném trúng đấy. Cô trông như thể không biết mình đang ở đâu, hay tôi là ai; cô trông như thể sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ quyền được tiếp tục làm việc của mình.
Tôi lùi lại một bước, giơ tay lên theo đúng cách mọi người luôn làm để chứng tỏ rằng họ không có ý định xấu. “Nó là con chó của cô, Marianne. Cô không muốn đi với chúng tôi à? Với tôi và con chó của cô, Bougatsa ấy?”
Cái tên dường như đã khuấy động trí nhớ của cô. Đôi vai co rúm của cô giãn ra và cô buông một hơi thở đã nín từ nãy. Quan trọng nhất, cô hạ cái đục khi nỗi sợ đã rời khỏi ánh mắt cô.
“Không.”
Không có chút tức giận nào trong giọng nói của cô, nhưng cũng chẳng có chút hối hận nào cả. Giọng cô chỉ trầm đục và rỗng không, chẳng chút thương cảm, như thể những thứ cô nói ra không phải âm thanh mà chỉ là những tiếng vọng.
Khi tôi đặt được chân lên bậc đầu tiên của cầu thang dẫn lên nhà, cô lại dồn hết sự chú ý vào tảng đá trước mặt mình.
Bác sĩ thú y là một phụ nữ đẫy đà tên Cheryl với mái tóc đỏ và đôi mắt sáng, có lẽ là người gốc Ailen. Một trong những điều đầu tiên bà hỏi là tại sao tôi lại sở hữu cái bộ dạng mà tôi đang mang đây, thật là một cách cư xử tốt hơn nhiều so với việc cố giả vờ rằng ngoại hình của tôi chẳng có gì bất thường. “Tại nạn ô tô.”
“Tôi hiểu. Vậy anh bắt đầu nhận thấy có chuyện với, à” - bà liếc vào cái bảng mà cô tiếp tân đã điền - “Bougatsa? Bánh ngọt Hy Lạp, là khi nào nhỉ?”
“Phải. Cùng màu. Tôi thấy nó bị ỉa chảy vào sáng nay, và tôi nghĩ nó đã ăn lá cây.”
“Tôi hiểu rồi.” Cheryl gật đầu. “Lông nó lúc nào cũng thế này à? Có vẻ không được bóng mượt lắm.”
“Chị nói đúng,” tôi trả lời, “và đợt này lông có vẻ nhờn hơn bình thường. Nó gần đây đã không ổn rồi, nhưng sáng nay dường như mọi thứ đồng loạt rối tung cả lên. Nó chắc chắn đang bị sụt cân.”
Bà hỏi là nó có bị uể oải không, và tôi xác nhận là có. Rồi bà kiểm tra nó một chút, chiếu đèn vào mõm và mắt nó, Bougatsa cứ nằm rên ư ử suốt. Tôi hỏi xem bà nghĩ vấn đề của nó là gì.
“Nó có đau ở vùng này không nhỉ?” Bà hỏi trong khi ấn tay vào bụng của Bougatsa, và rồi tự trả lời câu hỏi của mình. “Thực sự là nó có vẻ không có vấn đề gì ở chỗ này lắm. Có dấu hiệu gì của mỡ chưa tiêu trong phân của nó không?”
Ai - ngoại trừ một bác sĩ thú y - biết được mỡ chưa tiêu trong phân chó thì trông như thế nào? Tôi trả lời là tôi đã quên làm một bài phân tích thành phần hóa học trước khi mang nó đến đây, vì thế tôi không thể nói chắc được. Cheryl ném cho tôi một cái nhìn khó chịu trước khi nhấc đuôi Bougatsa lên để kiểm tra hậu môn. “Nó có hay ăn phân của mình không?”
“Chúa ơi.” Lại nữa, Cheryl lại mong đợi ở khả năng quan sát của tôi nhiều hơn mức tôi thấy là hợp lý. “Tôi không biết. Có lẽ?”
“Tôi không chắc vấn đề là gì,” bà nói, “nếu không làm thêm vài xét nghiệm nữa. Anh có thể để nó ở đây một hai ngày được không?”
Giờ không phải lúc giải thích rằng Bougatsa thực ra không phải là chó của tôi, thế là tôi cứ thế ký giấy để nó ở lại thôi. Khi tôi hỏi liệu việc xét nghiệm có gây đau đớn cho nó không, nữ bác sĩ thú y giỏi giang trông có vẻ bị xúc phạm. “Không, nếu tôi có thể.”
Tôi bảo con chó phải ngoan ngoãn ở với bác sĩ Cheryl và nó thè lưỡi ra liếm tay tôi. Vài người có thể nghĩ việc này là một dấu hiệu thể hiện tình cảm, nhưng tôi hiểu rõ rằng chó chỉ làm thế theo bản năng thích liếm láp chải chuốt của chúng mà thôi.
Khi tôi gọi điện đến phòng khám vài ngày sau đó, Cheryl vẫn chưa tìm ra nguyên nhân gây bệnh cho Bougatsa nhưng bà cũng trấn an tôi rằng sắp oacute;i năng linh tinh, nhưng cô đã đặt một ngón tay lên môi tôi. Khi tôi cố nói bằng mọi giá, cô đã hôn lên đôi môi mỏng dính của tôi và tất cả những từ ngữ định nói ra đã bị đẩy lại vào trong miệng.
“Tôi không muốn chết,” cô thì thầm, “nhưng tôi cần phải vứt gánh nặng của hàng trăm trái tim này đi.”
“Chỉ là… cô đang gặp phải tình trạng bệnh lý thôi.” Tôi băn khoăn không biết mình thương cảm cô ngần nào do cô bị tâm thần phân liệt và yêu mến cô bao nhiêu dù cô có mắc bệnh hay không. “Tôi biết cô không muốn tin vào điều đó, nhưng đó là sự thật. …”
“Những điều anh tin mới ít làm sao, và để anh tin mới mất nhiều công sức thế nào,” cô nói. “Nhưng anh sẽ tin thôi. Giờ hãy đi vào trong nào.”
Cái cách cô nói chúng tôi sẽ đi vào trong đầy cả quyết và chắc chắn, làm tôi không khỏi lo lắng chuyện xấu nhất có thể xảy ra. “Tại sao?”
“Vì ngoài này lạnh như băng ấy,” cô nói, và vẻ nhẹ nhõm của tôi rõ đến nỗi có thể nhìn thấy được. “Đừng lo lắng, tôi không định chết tối nay đâu. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm.”
“Ví dụ?”
“Ví dụ như giúp anh bỏ thuốc kích thích.” KHÓ LẮM. Cô nói, “Anh thực sự nghĩ tôi không biết anh đang mua thêm morphine à?”
Buổi sáng hôm đó, ngày Valentine, khi thức dậy, tôi đã nhìn ngay vào cái hộp gỗ nhỏ cất quỹ đen để mua morphine của mình và thấy nó trống rỗng. Tôi lật đật đi vào phòng ngủ của Marianne Engel, nơi cô đang nằm bất động. Tôi lắc mạnh vai cô và khi cô mở he hé mắt ra, tôi liền hỏi hộp thuốc của mình đang ở đâu.
“Trèo lên giường với tôi. Anh sẽ ổn thôi.”
“Cô không hiểu. Có một con rắn trong xương sống của tôi...”
“Anh chàng ngốc nghếch,” cô nói. “Anh cần biết không nên nghe lời bọn rắn. Chúng toàn nói dối thôi.”
“Cô đã không cho tôi đủ thời gian để thích ứng với ý tưởng đó,” tôi nài nỉ. “Ngày mai, tôi sẽ bỏ, nhưng cho tôi một ngày...”
TA ĐÃ GẦN ĐẾN ĐÂY RỒI…
“Chịu đựng là một bài tập tốt cho tâm hồn.”
“Không phải thế!”
“Nếu anh không thể yêu được nỗi đau” - cô cố xoay chuyển tình thế - “ít nhất anh cũng có thể yêu được những bài học nó dạy cho mình.”
… VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ…
Tôi thà cứ vô học còn hơn. “Tôi có thể điền lại đơn thuốc của mình và...”
“Tôi giật nó trôi xuống toilet rồi,” cô trả lời, “và bác sĩ Edwards sẽ không điền lại đơn đâu. Tôi cũng đã đóng băng tài khoản của anh rồi, vì thế anh chỉ còn cách cướp tiền của tôi để mua thuốc kích thích ngoài đường, không thì trèo lên giường.”
… CẢN ĐƯỢC ĐÂU.
“Ngủ đi,” Marianne Engel nói. “Hãy cứ ngủ đi.”
Morphine được sản xuất từ cây anh túc, Papaver somniferum, và được chiết xuất lần đầu tiên vào những năm đầu thế kỷ mười chín bởi y sĩ người Đức F.W.A. Serturner. Nó được đặt theo tên của Morpheus, vị thần của những giấc mơ trong thần thoại Hy Lạp, và tôi có thể chứng nhận rằng cái tên đó rất chuẩn xác. Morphine mang lại ảo giác và mê muội cho mọi hoạt động sống kể từ lần đầu được tiêm thẳng vào mạch máu tôi.
Dù chức năng chủ yếu của morphine là giảm đau, nó cũng có thể giảm nỗi sợ hãi và lo lắng, giảm đói và tạo cảm giác hưng phấn. Bất cứ khi nào tôi tiêm morphine vào người, nó cuộn trào trong cơ thể tôi những cảm giác ngọt ngào tuyệt hảo đến nỗi khiến cuộc sống của tôi dễ chịu hơn. Morphine cũng giúp làm giảm khát khao tình dục của tôi, điều mà, trong khi có lẽ không phải là tác dụng mong muốn cho hầu hết số đông, là món quà của thượng đế dành cho một người đàn ông không có dương vật nhưng vẫn còn duy trì khả năng sản xuất kích thích tố sinh dục nam. Tác dụng tiêu cực, tuy thế, tôi vẫn thường xuyên bị táo bón.
Nhưng điều morphine thực sự giúp tôi - chức năng tối quan trọng của nó - là khóa miệng con rắn lại, ít nhất là một lúc.
Khi mới đến ở với Marianne Engel, tôi đã dùng khoảng một nghìn milligram một ngày. Liều dùng của tôi theo thời gian đã trườn qua cả sức chịu đựng của tôi và cuối cùng, tôi hiện đang dùng morphine với liều lượng gấp bốn lần lúc đầu.