Chương 17

    
ai lạng cà-phê của chấp pháp Hà Nội tặng, uống vừa hết thì quản giáo gọi ra làm việc. Tôi chưa hết làm việc. Hồ sơ của tôi chưa kết thúc. Tôi có nhiều hồ sơ. Mỗi chấp pháp là một hồ sơ chăng? Và mỗi hồ sơ là một thời gian lao động cải tạo chăng? Chấp pháp số 10 đón tôi ở đầu khu C-1 và dẫn tôi sang khu B. Hắn ta dân Bắc kỳ, khuôn mặt lạnh lùng. Gói thuốc Vàm Cỏ và hộp quẹt đẩy sát chỗ tôi, chấp pháp số 10 nói:
- Anh hút thuốc đi rồi chúng ta làm việc.
- Tôi tưởng hồ sơ đã kết thúc.
- Bổ sung hồ sơ.
Hắn cười:
- Một sự làm việc hoàn toàn mới. Anh cần đổi không khí. Không viết tự khai nữa. Anh chán viết tự khai hả?
Tôi đáp:
- Anh thừa hiểu điều này.
Hắn nhìn tôi ranh mãnh:
- Anh có trí nhớ tốt lắm. Bản tự khai nào của anh cũng giống nhau, không sai từng dấu chấm. Anh viết... hấp dẫn vô cùng!
Nỗi khổ tự khai của một nhà văn bị còng tay vào tù ngục đã làm người Cộng sản thích thú. Tạp chí Nghệ Thuật Công An, số ra tháng 4-1981, cùng chiến dịch tái tổng càn quét ảnh hưởng văn hoá Mỹ Ngụy trên các đài truyền thanh, truyền hình, báo chí nhà nước và các buổi học tập ở đại học, trung học, phường, khóm, đã rao rêu: “Duyên Anh viết tự khai nhiều nhất. Nó viết tốn cả bó bút Bic và hàng ngàn tờ giấy”. Người Cộng sản bắt tôi viết ngày viết đêm, viết đói, viết mệt lả, dại khờ về quá trình 50 tác phẩm của tôi. Họ bắt tôi tóm tắt cốt truyện, ghi lại các nhân vật tiểu thuyết, nói rõ cá tính của nhân vật. Rồi bắt tôi phê bình tôi. Phê bình xong, họ bắt tôi trung thực tự kiểm viết theo cảm hứng nào, nhằm mục đích gì, nhận tiền Mỹ bao nhiêu. Một mặt, họ bảo tôi nguy hiểm, chống cộng tự nguyện. Một mặt, họ bảo tôi viết ăn lương CIA. Nghĩ mà bẽ bàng cho cái thân phận tôi. Bẽ bàng hơn, hôm nay, Cộng sản chưa ngớt nhục mạ tôi, có phần họ còn nhục mạ nghiệt ngã gấp bội, sau khi, tôi đã trả lời họ, trả lời một cách ngạo nghễ “Thế giới đã đọc sách của tôi”. Nhưng khi ấy không ít những thằng ngu, những con tôm, mắt mờ vì đố kỵ, hồn đục vì ganh ghét, nhận mình là quốc gia, chụp mũ Cộng sản lên đầu tôi. Tôi chiến đấu bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa sừng sững không thèm chối cãi. Những kẻ chiến đấu bằng mồm dễ chối cãi nhất. Những tên núp xó tối sủa bậy càng dễ chối cãi. Chúng sẽ cúi mặt: Tôi đâu có chữ để viết. Những tên núp xó tối sủa bậy đó đây, vẫn nhiều. Chúng tiếp tay Cộng sản hạ gục uy tín của những tài năng chống Cộng sản, những thủ đoạn vặt của ngụy quốc gia, đã hết hiệu quả. Tôi đã dẫm lên những hèn mọn của chúng, đi mãi không bao giờ mệt mỏi, cùng dân tộc tôi chiến đấu cho ngày mai hạnh phúc đoàn tụ, thương yêu, tự do, dân chủ.
- Chúng ta bắt đầu nhé?
- Tùy anh.
- Tôi hỏi, anh trả lời.
- Được.
- Trả lời thôi.
- Được.
- Nguyễn Cao Kỳ gọi anh làm chủ bút báo Chí Trai của Bộ Thanh Niên Ngụy?
- Không.
- Ai?
- Đỗ Tiến Đức.
Đố Tiến Đức là bạn hàn vi của tôi thuở di cư Nhà Hát Tây, Saigon. Năm 1964 cãi nhau với Tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Tú, tôi bỏ Bộ Thanh Niên. Thời Nguyễn Tấn Hồng làm tổng trưởng, Đỗ Tiến Đức làm Giám đốc. Anh ta mời tôi giữ chức chủ bút tạp chí Chí Trai. Bị một ông nhà văn công cán ủy viên “bỏ nhỏ” chi đó, Đổng lý Trần Đỗ Cung, “vua cơm heo” gọi về Bộ trách báo ra chậm và hỏi tôi “có nghiện thuốc phiện” không. Tôi nổi giận trả lời: Tôi làm việc với Đỗ Tiến Đức và chỉ cần biết Đỗ Tiến Đức. Và tôi trả lại chức chủ bút cho Đỗ Tiến Đức. Từ đó, tôi không thèm dính dáng đến nhà nước nữa. Nhà nước động đến tài của tôi, phải chi thật nặng. Tôi lấy tác quyền của Nguyễn Văn Hảo 2 triệu viết vẩn vơ trong Hình ảnh kỉnh tế Việt Nam, còn đòi trả lại tiền lấy lại bài xé đi vì cố vấn Nguyễn Cao Hách ghi nhận xét lên bài của tôi. Tôi lấy tác quyền 2 triệu làm đặc san Cách Mạng Xanh cho Nguyễn Văn Hảo. Chính Nguyễn Xuân Nghĩa trả trước 1 triệu. Vì chưa kịp phát hành Cách Mạng Xanh thì Ban Mê Thuột thất thủ, Ngày Nông Dân bị hủy bỏ, nên Nguyễn Văn Hảo vẫn nợ tôi 1 triệu.Tôi đã trả tác quyền một bản nhạc in báo cho Phạm Duy 50 ngàn, một bài thơ cũ của Hà Huyền Chi 5 ngàn, một bài tạp ghi cũ của ký giả Lô-Răng 40 ngàn. Vân vân... Thời kỳ này, giá biểu viết phơi-ơ-tông nhật báo một tháng 15 ngàn. Ông nhà văn công cán ủy viên huyết thống cách mạng tưởng là gì ghê gớm. Cải tạo ở Kà Tum về sớm, ông ta viết một bài “vĩ đại” trên tạp chí Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan ca ngợi cách mạng tưng bừng, ông ta sắp sang Mỹ đấy. Chắc chắn, ông ta sẽ quên “Giáng sinh ở Kà Tum".
- Chủng tôi sẽ hỏi Đỗ Tiến Đức.
- Anh cứ hỏi.
- Minh Vồ khai anh nắm hết tuần báo Con Ong. Đúng chứ?
- Đúng.
- Anh viết bài ký tên nó?
- Đúng.
- Nhất định đúng, văn của anh dễ nhận và Minh Vồ viết lý lịch mình không nổi. Miền Nam có nhiều chủ báo lạ nhi? Tự do thật, tự do ngu dốt.
- Anh hỏi và tôi trả lời.
- Tôi được bình luận, anh thì không.
- Anh có đủ quyền hành.
- Anh thích thi sĩ nào?
- Hoàng Anh Tuấn.
- Tại sao?
- Vì nó làm thơ xong là vất đi.
- Anh đã viết trong cuốn Lứa tuổi thích ô mai. Anh không thích thi sĩ cách mạng?
- Tôi chưa đọc.
- CIA đỡ đầu anh viết cuốn Điệu ru nước mắt hả?
- Không ai đỡ đầu cả.
- Không có CIA đỡ đầu mà anh dám viết bạo và được xuất bản à?
- Do Sở Phối Hợp Nghệ Thuật cho phép.
- Do CIA
- Cũng được, tùy anh.
- Anh nhận tiền của ai viết Bò sữa gặm cỏ cháy?
- Của nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng.
- Anh âm mưu “trồng người” chống chúng tôi. Cuốn này nguy hiểm nhất, ác độc nhất.
Nguy hiểm nhất, ác độc nhất đối với Cộng sản, Bò sữa gặm cỏ cháy của tôi. Thế mà nó đã bị om ở Phủ tổng thống mấy tháng, bị tự ý kiểm duyệt. Và chẳng đứa nào của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đọc cả. Tôi nhớ buổi tiếp tân của Nhã Ca ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam nói về cuốn Vi ơi, bước tới mà Barry Hilton sẽ dịch sang Anh Ngữ. Bấy giở, Phủ đặc trách văn hóa được trao vào tay nhà khuyến lệ cổ ca Đỗ Văn Rỡ. Linh mục Thanh Lãng đã nồng nhiệt giới thiệu tôi với ông già Đỗ Văn Rỡ. Ông ta đưa cho tôi tấm danh thiếp, mời tôi ghé Phủ của ông ta đàm đạo văn hóa. Tôi bèn hỏi: “Thế ngài đã đọc cuốn sách nào của tôi chưa”? Rất thành thật, nhà văn hóa đáp: “Chưa!” Tôi bèn gửi lại nhà văn hóa cái danh thiếp của ông ta. Làm văn hóa mà chỉ biết khuyến lệ cổ ca Nam phần thì hỏng quá! Rốt cuộc, nhà văn vào tù. Và tôi viết Bò sữa gặm cỏ cháy cho... Cộng sản đọc. Để họ kết án tôi nặng nề.
- Anh yên tâm, Nguyễn Văn Thiệu không đọc đâu.
- May là nó không đọc. May là nó coi thường tác dụng mãnh liệt của văn nghệ. Nếu không, chúng tôi còn phải hy sinh nhiều nữa, gian khổ nhiều nữa. Thằng Thiệu ngu. Anh cũng ngu. Anh giai cấp vô sản lại viết sách dạy ngụy quyền huấn luyện nhi đồng thành giai cấp tiểu tư sản.
Một sự làm việc hoàn toàn mới của chấp pháp số 10 đấy. Nó chửi rủa tôi ngu. Mà tôi không dám chửi lại nó. Mà ai dám chửi lại nó, ở địa vị một tù nhân như tôi? Tôi có thể viết, hôm nay, những trang rất hào hùng của người quốc gia trong ngục tù Cộng sản. Ở tiểu thuyết thôi và chỉ xẩy ra với bầy sư tử lãng mạn. Cá nhân tôi, lặng thinh nghe chúa ngục Cộng sản chửi mình, không lạy nó đừng chửi mình, đã khá rồi. Cứ ba hoa nói phét mình chửi lại, mình ăn thua đủ thì không khá. Và mình sẽ xấu hổ, nếu mình còn liêm sỉ. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh đã thú nhận ở tù, ông bị dắt đi như trâu bò. Tôi đã hân hạnh gặp những người Cộng sản trung kiên bị nhốt tại quân lao Nha Trang, hồi ông Lê Khánh làm tỉnh trướng Khánh Hòa. Nhân vụ giáo sư Trần Vinh Anh bị một thí sinh tú tài đâm chết. Tôi phải đóng vai ủy viên Quân đoàn 2 vào thăm quân lao để phỏng vấn mấy cậu học trò tạm nhốt ở đây. Vậy thì ông ủy viên rởm thăm một phòng nhốt Cộng sản. Tù nhân Cộng sản đứng nghiêm răm rắp. Ủy viên rởm vẫy tay chào. “Anh em ngồi xuống”. Cộng sản ngoan ngoãn ngồi. “Anh em đang làm gì vậy”? Lãnh tụ tù Cộng sản đáp: “Thưa, chúng tôi đang học tập chính nghĩa quốc gia ạ”! Phải biết sau 30-4-75, vị lãnh tụ tù này sẽ nói phét đấu tranh trong ngục tù Mỹ Ngụy dường nào. Tôi là nhà văn. Tôi trung thực. Tôi viết đúng vì, có lần, theo sự đổi đời, tôi đã đứng nghiêm trong một nhà giam chào đón một cán bộ trung ương. Và Trưởng phòng của tôi đã nói: “Thưa chúng tôi đang học tập cái thế tất thắng của cách mạng ạ”! Bạn ơi, ở tù nào cũng khổ. Ở tù Cộng sản khổ hơn, dĩ nhiên. Bạn phải nhịn nhục cả những đứa không đáng gì. Theo tôi, biết nhịn những kẻ mạt hạng mới là thái độ anh hùng, thái độ kẻ cả. Bạn đừng hy vọng, ở tù Cộng sản, bạn được bầy tỏ lòng can đảm với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Ở tù Cộng sản chỉ có một cách chết là chết dưới lỗ chân trâu. Những ai muốn tìm cho mình một cách chết xứng đáng với sự chịu đựng thống khổ, đều khước từ cái chết ở lỗ chân trâu. Và muốn thế, người ta phải thẩm thấu triết lý sống chết, phải soi sáng trí tuệ vào oan khiên, phải hiểu tận cùng rằng “có một thời im lặng và một thời lên tiếng”, phải biết “xếp tàn y lại để dành hơi”.
Chấp pháp số 10 khoái “bình luận”. Hắn chuyên chế... bình luận.Thằng này ham chửi rủa.
- Anh đã gài mìn?
- Tôi đâu biết gài mìn.
- Chính anh gài mìn khúc đường Trung Lương – Cai Lậy. Anh bịa đặt, đổ vạ cho Cộng sản hại dân lành.
Hắn muốn đề cập cuốn Hưng Mập.
- Anh đầu độc tâm hồn thiếu nhi nông thôn.
Tôi nhiều tội quá. Mỗi cuốn sách của tôi là một trọng tội. Tôi có cảm tướng, chấp pháp số 10 bổ xung chấp pháp số 7. Một đứa bắt tôi viết, một đứa bắt tôi nói. Tôi bị chấp pháp số 10 quần thảo năm ngày về sách rồi về báo. Hắn chửi tôi kỹ nhất thời gỉan tôi cộng tác với nhật báo Xây Dựng.
- Những tờ báo có tiếng nói là những tờ báo chống cộng có trọng lượng. Xây Dựng có hậu thuẫn rõ rệt. Nó đã tạo đoàn kết thiên chúa giáo vụ Đặng Sĩ. Nó đã lãnh đạo vụ đuổi cổ thằng Cabot Lodge. Rồi nó cấu kết với hết Kỳ Loan lại cấu kết với Thiệu Bình.
Tôi không tin nhật báo Xây Dựng có trọng lượng ghê gớm thế. Nhưng cá nhân ông chủ nhiệm của nó, linh mục Nguyễn Quang Lãm, là người thích bám nhà cầm quyền. Như một số linh mục Bùi Chu, Phát Diệm, kẻ khoái làm giầu như ông Trần Đức Huynh, kẻ ham chính trị như ông Hoàng Quỳnh, ông Lãm mê giật giây thống trị và làm đảo điên thống trị. Bước đầu mon men làm quen nhà cầm quyền của ông Lãm là mấy chai rượu lễ nhờ ông Minh Vồ biếu ông Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Phạm Văn Liễu. Ông Liễu không ưa cần Lao nhân vị cách mạng đảng, không ưa cố đạo, ông đã cho tôi uống hết. Ông Lãm chống ông Liễu, ông Thi và nhờ vậy, rất thân với ông Loan, ông Kỳ. Vụ Mậu Thân 1968, nhà ông Lãm có máy truyền tin do ông Loan cấp để theo rõi báo cáo tình hình. Ông Kỳ, ông Loan thất thế, ông Lãm tìm đường đến ông Thiệu, ông Bình. Bị chê, ông ta chống Thiệu dữ dội. Ông Lãm đã xúi dục hàng Giáo Phẩm chống ông Phan Huy Quát, ông Bùi Diễm, ông Lãm đã gài Mặc Giao vào quốc hội. Vân vân.... Không oanh liệt như linh mục Thanh Lãng có quyền chỉ định Tổng trưởng, nhưng ông Lãm đã là con lươn của chính trường Saigon một thuở. 1-5-1975, ông xuất bản nhật báo Xây Dựng 2 trang chửi gỡ Nguyễn Văn Thiệu lập công với Cộng sản. Bị cấm ngay, cả hai ông Lãng và Lãm đều không bị Cộng sản bắt. Chỉ có bọn đã viết báo Xây Dựng bị nằm tù, bị viết tự khai, bị hạch hỏi về báo của ông Nguyễn Quang Lãm.
- Báo Xây Dựng trả anh nhiều tiền lắm, phải không?
- Báo nhà chùa và báo nhà chúa bóc lột nhất nước.
- Tôi không tin nó bóc lột anh.
- Tùy anh. Tôi đã từng bỏ Xây Dựng sau một lần tranh đấu lương tháng 13 cho anh em thất bại.
- Anh đã lĩnh lương tháng... 14?
- Tháng 20. Không có nhà văn nào “ăn khách” mà không biết yêu sách chủ báo. Tôi yêu sách đúng công lao của tôi, tôi không để bị bóc lột.
- Báo nào anh lĩnh lương nhiều nhất?
- Công Luận.
- Bao nhiêu mỗi tháng?
- Hai trăm ngàn, tiền giá năm 1968.
- Cả công viết hồi ký bố láo cho thằng Đính?
- Phải.
Quay tôi tít con mòng mòng về văn, về báo, hắn hỏi tội tôi viết bình luận ở Đài Saigon giáo dục Cảnh Sát công lộ thời Phạm Văn Liễu.
- Bao nhiêu tiền một bài đọc 5 phút?
- Năm ngàn.
- Anh viết bao nhiêu bài?
- Bốn.
- Tại sao nghỉ?
- Vì ông Phạm Văn Liễu kêu đắt và vì tôi không chịu ký tên Ổi, tên Xoài lĩnh tiền.
- Tại sao?
- Tôi bán bài đọc trên đài phát thanh, không bán tin tức mật.
- Liễu cho anh những gì?
- Cái máy đánh chữ Remington trước khi ông ta tử chức.
Vụ giao du với Phạm Văn Liễu, Phạm Huy sảnh, Nguyễn Hoàng Đạt, tôi không khai mà chấp pháp số 10 biết rõ ngọn ngành. Tôi biết người khác đã khai. Cho nên, những gì đã trở thành sự kiện, bạn đừng hòng dấu diếm công an, bất cứ công an của chế độ nào. Bạn chỉ có thể dấu kỹ tư tưởng và ước mơ của bạn.
Sau mười ba ngày làm cái chong chóng trước gió chấp pháp số 10, tôi bị bỏ rơi. Hai Phận thay đổi vài sinh hoạt ở các phòng giam C-1. Hắn bắt tù nhân điểm danh hai lần một ngày. Có hàng ngàn chuyện xẩy ra giữa các tù nhân. Vì khốn quẫn. Vì tù túng. Vì dồn nén. Vì bệnh hoạn. Vì tuyệt vọng. Toàn là những “chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tù nhân “con bà phước” – những người không được thân nhân tiếp tế thực phẩm, thuốc men – được phát một bộ quần áo tù may bằng vải sô và... một cái hột gà tươi duy nhất! Thế thôi, đã đủ kèn cựa và bóng gió sỉ nhục nhau.
Thấm thoát, tôi nằm đề lao Gia Định đã 6 tháng. Đầu năm 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả giam nhốt rải rác các phòng bốn khu được tập trung tại khu A học tập một tháng để được thả về ăn Tết. Vào thời gian này, tự nhiên, điều tôi mong muốn đã tới: Tôi bị tống vào cachot khu B không lý do báo trước. Tôi thích được biệt giam. Tôi chán sống chung đụng với tù nhân ô hợp đủ tội trạng. Nhưng hạnh phúc đời tù thật ngắn ngủi với tôi. Được đúng hai tuần, tôi ra phòng tập thể 5 C-2. Ở đây, tôi gặp Đoàn Kế Tường và linh mục Thiên, Dòng Chúa Cứu Thế. Ở đây, tôi biết, đối diện phòng tôi là cachot nhốt luật sư Vũ Đăng Dung, thủ lãnh luật sư đoàn Huế. Cạnh luật sư Dung là cachot nhốt một tử tù vụ đánh cướp nhà băng quốc doanh gây sôi nổi ở đại lộ Hàm Nghi. Ở đây, tôi biết Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân (Bẩy Bốp, Phạm Thái) học tập cải tạo trở về đã bị bắt lại và đang nằm chung với hai cuốn tự điến Như Phong, Lâm Văn Thế. Nguyễn Ngọc Tân cũng là... tự điển Đại Việt, người Xứ ủy miền Nam này đã ra Hà Nội làm việc ở căn nhà phố Hàng Quạt, nơi Hồ Chí Minh viết Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945; người Xứ ủy này đã chiến đấu tại chiến khu Nam Ngãi, đã bị lưu đầy thời ông Diệm. Tôi ở 5 C-2 có bốn ngày, được Hai Phận vĩ đại “giáo dục” một bài học nhân vụ linh mục Phạm Minh Thiện "làm lễ” trưa chủ nhật với đám con chiên bị ngay con chiên ghẻ tố cáo.
- Trong tù không có thánh, chẳng có thần. Thần tượng của các anh là chấp pháp. Nói cho các anh rõ, Chúa Giêsu nằm tù, tôi cũng còng tay tống cổ vào cachot.
Hai Phận biểu diễn quyền uy Cộng sản. Bạn cần suy nghĩ câu nói của Hai Phận vĩ đại. Và bạn sẽ nhận diện những vị anh hùng tù ngục Cộng sản thoát ra ngoại quốc ồn ào. Một trong những vị anh hùng phét lác ấy là Đoàn Văn Toại, người đã làm... kiến nghị và lấy chữ ký của hàng trăm tù nhân!
Bốn ngày ở 5 C-2 chưa quen hết tù nhân, tôi bị trở lại 1 C-1. Rồi vừa mới treo xong hành lý, tôi lại được gọi: “Vũ Mộng Long, chuẩn bị rời phòng. Khẩn trương”. Tôi sang 3 C-2 với Nguyễn Hữu Miên. Ở đây, tôi gặp nhóm Trịnh Hùng Dần, Thịnh, Dũng cận và Mai Viết Dũng vượt biên đường bộ bị bắt tại Quảng Trị. Các bạn trẻ kể tôi nghe những nhà tù dọc quốc lộ số 1. Ở đây tôi gặp người anh kết nghĩa Khai Trí. Ở đây, thú vị nhất, tôi gặp Lê Xuyên và Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Chức sắc của 3 C-2 nghiêm chỉnh, đúng ý Nội quy. 3 C-2 không có can phạm hình sự. Đa số là can phạm vượt biên. Khu C-2 bí hơn C-1. Tường xây sát khít mái tôn, bít kín lối vào của dưỡng khí. Thời gian này, đề lao tiếp nhận thêm can phạm từ các quận gửi tới. Con số tù nhân ở mỗi phòng trên 50. 50 ổ bánh mì trong lò. 50 con cá mòi trong hộp sắt.
Tôi được an ủi nhiều nhờ nằm cạnh Lê Xuyên. Tác giả Rặng trâm bầu đã nằm đề lao Gia Định thời cách mang Nhân Vị. Anh bị ông Diệm bắt về tội Đại Việt và tuần báo Tự Quyết. Người quốc gia bắt nhốt người quốc gia. Cần Lao bắt nhốt Đại Việt. Bây giờ, Cộng sản bắt nhốt hết. Ra tù cách mạng Nhân Vị, Lê Xuyên viết Chú Tư Cầu trên nhật báo Saigon Mai sau chính biến 1960. Anh nổi tiếng từ đó. Và từ đó, anh mưu sinh bằng nghề văn, nghề báo, rời bỏ chính trị. Lê Xuyên hiền lành, thành thật, ít nói và... nhút nhát, khác hẳn những sôi nổi tình dục trong tiểu thuyết của anh. “Văn là người”, câu này không đúng với trường hợp Lê Xuyên. Nó đã chẳng đúng với trường hợp Vũ Trọng Phụng. Nó không đúng với nhiều nhà văn Việt Nam. Lê Xuyên dạy tôi bài học này: “Công việc là công việc. Bất cứ công việc nào, ở bất cứ đâu, một là không thèm làm, khước từ nó đến nơi đến chốn hoặc là làm việc đến nơi đến chốn. Đứng nghĩ ai giao phó công việc, hãy nghĩ việc làm. Việc nhỏ, việc bị cưỡng bức làm chu đáo sẽ làm nổi những việc lớn, những việc tự nguyện”. Lê Xuyên đã trung thành với lời anh nói. Anh là người thư ký toà soạn mẫn cán nhất, gương mẫu nhất Việt Nam: Đến sớm, về muộn, bám sát toà soạn. Anh là người tù biết sống đời tù: Thà ngồi bó gối dựa lưng, không nằm ngủ; trực sinh lau rửa cầu tiêu sạch nhất phòng. Kẻng báo thức sáng, Lê Xuyên dậy giũ chiếu đợi trực sinh quét bục nằm. Rồi anh tắm gội. Và ngồi bó gối. Lê Xuyên chỉ nằm vào giờ ngủ, dẫu không ai bắt anh ngồi- Anh vấn thuốc rê bằng giấy báo, hút liên miên. Người tù thản nhiên Lê Xuyên không bao giờ thở dài, không hề nôn nóng ngày thăm nuôi. Nhận quà sớm, anh bảo “Vợ tôi thắng bài bữa nay”. Nhận quà muộn, anh bảo “Vợ tôi thua bài bữa nay”. Luôn luôn, chú Tư Cầu nhận quà vào giờ chót.
- Nó bắt anh làm việc chưa, Lê Xuyên?
- Nó quên tôi rồi.
Tôi kể cho Lê Xuyên nghe chuyện làm việc của tôi. Anh lắc đầu:
- Ông bị... sao vàng chiếu kỹ. Từ ngày bị bắt, nó chưa gọi tôi lần nào.
- Tự khai?
- Chưa.
- Chụp hình, lăn tay?
- Một lần, bên Sở. Nó bảo tôi viết lý lịch. Thế thôi.
Lê Xuyên không thắc mắc. Cuối tháng 1-1977, tôi tạm biệt anh, chuyển phòng. Cuối tháng 9- 1981, hay tin tôi được tha, vợ chồng Lê Xuyên đến thăm tôi. Hỏi chuyện cũ, anh kể:
- Ngày các ông sang Chí Hoà, tôi biết. Sau ngày đó, Hai Nghiêm gọi tôi ra. Nó hỏi tôi: “Anh viết bao nhiêu cuốn sách”? Tôi nói tổng số. Nó dọa tôi: “Mỗi cuốn sách của anh là 2 năm tù, anh về suy nghĩ đi”! Tôi về. Hôm sau, tôi nhận Giấy ra trại. Ông thấy ly kỳ chưa?
Ly kỳ thật. Nhưng đó là chuyện 1981. Chúng tôi đang ở 3C-2 tháng 1 năm 1977. Người buồn bã đến rã rượi là Nguyễn Viết Khánh, nguyên Tổng thư ký Việt Tấn Xã, chuyên viên bình luận thời sự quốc tế. Anh ta đã cai thuốc phiện từ lâu và hút lại từ 1-5-1975 và yêu cô học trò báo chí. Anh giã từ cả Phù Dung tiên nữ lẫn người tình cuối đời mà vào tù cởi trần mặc xà lỏn, ăn cơm hẩm với canh rau muống già nấu với muối. Nguyễn Viết Khánh người không bao giờ sang được nước Mỹ, vẫn cay cú cái danh sách nhà văn, nhà báo xin di tản lập tại Usis Saigon đã lọt vào tay Sở Công An. Và Hai Nghiêm đã cầm danh sách đó, chỉ mặt từng nhà văn nhà báo mà hắn làm việc mà kết tội tay sai của CIA. Để quên rã rượi, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh “quay phim” cho anh em nghe. Nghề này của Hoàng Anh Tuấn 1. Anh Khánh đọc nhiều truyện khoa học giả tưởng, anh kể rất hấp dẫn. Với tôi, anh thuật những kỷ niệm, những cuộc tình của anh ở Nhật, ở Saigon.
Người sầu não vẫn là Khai Trí Nguyễn Văn Trương. Anh ta gửi mua cả quầy chuối treo sát tường. Vốn cao lớn và hơi hơi gù, anh ta giống con gấu. Khai Trí dựa lưng vào tường, quầy chuối trên đầu anh, chân anh duỗi dài, tav anh chống bục nằm. Sức nóng của phòng giam làm chuối mau chín. Và chuối đã lần lượt rụng xuống bụng anh khi anh nhắm mắt. Cái nghĩa của phù ảo được sáng tỏ ở đây. Chuối rụng mà trái sầu vẫn xanh. Vương Khải vào tù. Thạch Sùng vào tù. Thiên hạ còn kèn cựa nhau, còn bước qua xác nhau làm giầu, chẳng bao giờ nghĩ cái bất ngờ 30-4-1975 không hứa hẹn chỉ một lần trong đời sống.
Người ta đã thả hai phần ba nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976 về ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai. Những người còn nằm lại:
Doãn Quốc Sĩ
Như Phong
Lê Xuyên
Nguyễn Mạnh Côn
Trịnh Viết Thành
Tô Ngọc
Đằng Giao
Trần Dạ Từ
Nguyễn Hải Chí
Hồ Văn Đồng
Thái Thủy
Mặc Thu
Thanh Thương Hoàng
Mộc Linh
Duyên Anh
Thế Viên
Nguyễn Sĩ Tế
Nguyễn Viết Khánh
Mai Đức Khôi
Cùng với tin vui này, nhóm Trịnh Hùng Dần và Nguyễn Hữu Miên đi lao động cải tạo. Chế độ bắt thêm Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thụy Long. Thủy có mặt ở cachot khu B. Toàn có mặt ở 4 C-2. Long bị nhốt ở nơi khác. Tôi lại bị tống về 1 C-1. Bây giờ, 1 C-1 hoàn toàn mới với các tù nhân mới tôi chưa từng ở chung phòng. I C-1 với tôi nhiều duyên nợ. Về 1 C-1 lần này, tôi gặp gỡ nhiều khuôn mặt. Hoàng tử cachot đề lao là Dương Đức Dũng, trung úy, sĩ quan báo chí Quân đoàn 4, khước từ diện học tập cải tạo, thành lập nhóm chống cách mạng với Đoàn Kế Tường, Lương Việt Cương, có cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Nhóm bị Đỗ Hữu Cảnh, luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng lùa vào với Mai Chí Thọ trọn ổ.
Dũng kể cho tôi nghe những cachots, những kiểu còng anh ta đã chịu đựng. Anh ta biết” tôi là... Bộ trưởng (!) của “nội các” Đinh Xuân Cầu". Tôi không muốn làm anh ta thất vọng nên im lặng chuyện tôi bị Trương Phiên bịp. Ngoài Dương Đức Dũng là vô số sinh viên, học sinh can tội phản động. Được sống với họ rất thú vị. Tôi chợt nẩy mầm mơ ước viết về họ, mai này. Những Đặng Cơ Bản, Ngô Tỵ, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Khánh Long, Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường... Tôi nằm cạnh nhà tỷ phú Phạm Quang Khai với ông cháu không thích ông bác chúa tầu. Có thêm “giáo sư” hồi chánh Phạm Thành Tài và người Cộng sản nằm vùng mất phẩm chất Nguyễn Văn Nha ở 1 C-1.
Thời gian này, Doãn Quốc Sĩ đã chuyển cachot. Cachot số 1 khu C-l nhốt Nguyễn Việt Hưng. Từ cachot 1 đến cachot 7 dành riêng cho can phạm vụ Vinh Sơn. Ali Hùng nằm cachot số 3. Đinh Xuân Cầu bị xích chân, còng tay “trụ trì” cahot số 8.
Tôi ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai tại 1C-1. Năm ngoái, các bạn trẻ kể, ngày mồng một, đề lao cho phép tù nhân đi các khu chúc tụng nhau. Các bạn trẻ đã ôm đàn guitare hát những bản chính huấn 2 nuôi chí phục hận. Rút kinh nghiệm, năm nay, khu nào gặp khu ấy và cấm đàn, cấm hát, cấm chào cờ... Cửa gió cachot mở hết. Vệ binh ôm súng canh ở đầu khu. Tù nhân được tự do trò chuyện 10 phút. Tôi đã lợi dụng lúc ồn ào, tấp nập, “mừng tuổi” ông Đinh Xuân Cầu 10 đồng và cho ông ta biết tôi đã gặp mặt Trương Phiên, ông Cầu xin lỗi tôi. Ông bảo Trương Phiên đã được thả và quả là nó đã bịp nhiều người. Tôi lại có phen đi chống Cộng với một anh ngây thơ và một thằng bịp trong hoàng hôn chống Cộng. Từ đấy, tôi nghi ngờ tất cả những hạng lãnh tụ chống Cộng già nua. Ở bất cứ nơi nào họ tá túc trên trái đất, họ nên chấm dứt cái “sứ mạng” của họ đi. Họ đã trải dài cái “sứ mạng” mọc rêu của họ ròng rã mấy chục năm, rốt cuộc, Đất đã ủng và Nước đã tù. Họ đầy rẫy mặc cảm thua kém Cộng sản và đầy rẫy tội lỗi, tội ác với dân tộc, nên rút vào bóng tối. Cuộc chiến đấu tiêu diệt chủ nghĩa Cộng sản giải thoát quê hương hôm nay phải là của tuổi trẻ, của sư tử sừng sững, không mảy may tự tị mặc cảm khi đương đầu kẻ thù, không mảy may tội lỗi với tổ quốc. Phải để mặt trời tuổi trẻ đốt cháy dĩ vãng bệnh hoạn, mở đường tương lai cho dân tộc. Và tuổi trẻ cần phóng lên phía trước, cần nắm chặt vận mệnh đất nước mình. Giờ cáo chung của lãnh tụ già đã điểm hồi 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuổi trẻ không đuợc phép để bị lãnh tụ khốn kiếp lửa gạt niềm tin, bịp bợm thiện chí. Tuổi trẻ phải biết phóng lên bầu trời những tín hiệu chống Cộng mới. 1986 năm trước, Jesus đã phán: “Cỏ dại chỉ phá hại mùa màng. Thì nhổ hết lên mà đốt để có mùa gặt hái tốt”. Cỏ dại chính là bọn lãnh tù già nua chống Cộng của nước Việt Nam. Họ không có kinh nghiệm gì cả. Kinh nghiệm của họ là chạy dài chạy dài, chạy dài từ 1945 đến 1975. Những kẻ chưa một lần thắng, không có quyền nói kinh nghiệm thua, Nhưng có một thứ kinh nghiệm bịp! Đã đến lúc tuổi trẻ làm mũ đội lên đầu mình chưa? Hay vẫn cứ thích làm guốc cho lãnh tụ cỏ dại?
Tôi về phòng nằm dài suy nghĩ về sự “xin lỗi” của ông Đinh Xuân cầu. Tôi bỗng khen tôi có mấy câu thơ hay trong bài thơ dài mà tôi không nhớ hết. Đại ỷ của bài thơ 3 “Thằng bé tôi nhà quê, mong Tết để có nhiều tiền mừng tuổi. Thằng bé mặc quần áo mới lên đình chơi xuân. Gặp chiếu bầu cua tôm cá. Nhập cuộc. Bị cò mồi dụ vào cửa của nó. Thằng nhỏ rồi cháy túi. Thằng bé lớn lên, học đòi làm chính trị. Bị cò mồi vét cạn niềm tin. Tôi khen tôi để vỗ về tôi:
Tổ guốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em
Cái “Còn gì” chỉ là niềm bất mãn chung thân tạo ra những ngộ nhận khiến vàng vọt tâm sự, hắt hiu đời mình.
Chú thích:
 Hoàng Anh Tuấn giết thì giờ bằng cách kể lại những phim anh đã coi cho các bạn trẻ nghe.
 Những bài ca của Cục Chính Huấn Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
 Đăng trên báo Sống số Tết 1965.