Chương 22

    
hí Hòa không phải là đề lao Gia Định. Để có nhận xét này, nhiều tù nhân đã sưng mặt, phù mỏ. Kinh nghiệm Chí Hòa được phổ biến ở phòng mới. Bây giờ, mọi người mới vỡ lẽ, với Cộng sản không có đòi hỏi, không được phép đòi hỏi. Với Cộng sản, phải giành lại. Muốn giành lại, phải chiến đấu. Khi chưa đủ sức trực diện chiến đấu, cần biết “xếp tàn y lại để dành hơi.” Theo Cựu ước, có một thời im lặng và một thời lên tiếng. Đa số chúng ta không quán triệt cái thời của mình. Nên đã ồn ào lên tiếng vào thời cần thiết im lặng. Do đó, sự lên tiếng vội vàng đã lạc lõng trong hoang vu của thế sự. Mà, buồn thay, sự lên tiếng vội vàng thường hụt hơi. Cuối cùng, nó biến thể thành những gấu ó lẫn nhau vô tích sự, những chụp mũ bôi bẩn lẫn nhau bệ rạc. Rồi tiếng nói nào dõng dạc cho đúng thời? Tôi sợ rằng sẽ không có tiếng nói ấy.
A, tôi cần giới thiệu những nhân vật của phòng tôi. Trước hết là Trần Thành, nhà tài phiệt lừng lẫy Chợ Lớn, một trong những tài phiệt đã góp phần thao túng nền kinh tế miền Nam. Tất cả tỷ phú đều keo cú, bần tiện. Điều này là chân lý. Trần Thành thoát khỏi cái chân lý khốn kiếp. Ông ta hào sảng, cởi mở. Tôi nhớ, có thời gian ngắn sống chung với các ông Hoàng Kim Quy, Lý Sen, Lâm Huê Hồ, Trương Vĩ Nhiên, Trần Thành ở đề lao Gia Định, khu C-1, vào dịp đề lao bắt đăng ký tiền mặt, chỉ cho tù nhân giữ lại 30 đồng. Tỷ phú Trần Thành đã phát tiền tặng các tù nhân “con bà phước.” Ông ta không thèm đăng ký. Ai không nhận tiền, ông ta buồn bã, cố nằn nì được tặng. Trái lại, “vua kẽm gai” Hoàng Kim Quy khó ai xin nổi ông một điếu thuốc lào Cái Sắn chính gốc, hút xong là phê lăn kềnh. Tỷ phú Hoàng Kim Quy, nghị sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã tặng tù nhân đề lao Gia Định, một “giai thoại” bất hủ. Ở đề lao, tù nhân được gửi tiền mua quà. Bài ca nhại lại nhạc và lời Quê em của Nguyễn Đức Toàn sau đây, diễn tả sinh hoạt đề lao:
Trong phòng giam khu C
Thường xuyên 40 người
Một tù hai gang chiếu
Trưa chờ cơm cháy
Sáng chờ chia nước sôi
Ngày điểm danh hai lần
Tờ mờ sáng tinh mơ
Anh em chưa thức dậy
Đã thấy hàng đầy sân
Thôi thì rau, thôi thì chuối
Tương chao, bánh mì, thuốc rê, thuốc lào…
Đủ các mặt hàng, từ dao cạo, cà-phê, trà, rượu, cán bộ phục vụ can phạm với giá cắt cổ. Đó là hiện tượng, không phải bản chất. Tỷ phú Hoàng Kim Quy gửi mua một ký cà-chua. Hôm đó, hàng về trễ. Khi chia, ông bận ngủ trưa. Lúc ông thức dậy, Trưởng phòng bảo ông nhận hàng. Nhà tỷ phú không nhận, ông bắt chia lại để ông chứng kiến. Cả phòng đành gom cà-chua một đống, chia lại. Tù nhân Hoàng Kim Quy đòi hỏi công bằng và hợp lý… chia hàng ở nhà tù, nhưng chưa hề thấy ông đòi hỏi công bằng và hợp lý cho dân chúng ở nghị trường. Mà sự công bằng ông đòi hỏi ở nhà tù cũng chỉ cho riêng ông. Ông lại chỉ đòi hỏi với các bạn đồng tù. Bởi vì, ông ta là một khuôn mặt tiêu biểu của cơ cấu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nên tôi thấy cần thiết nhắc lại “giai đoạn” bất hủ này. Những “chuyện buồn nhỏ nhặt” xẩy ra ở đề lao thường do các bậc “đại nhân” gây ra. Chẳng hạn, vị đại khoa bảng họ Vũ, ăn cắp chai tầu-vị-yểu (chai nhựa) của bạn đồng tù nghèo nàn, cãi nhau vì cơm chia cho mình có vẻ thiếu cân lạng, bị cai ngục mỉa mai: “Trí thức miền Nam các anh thế đấy a!” khiến đau lòng… trí thức. Nhưng ta trở lại tỷ phú Trần Thành.
Ông ta tình nguyện chùi rửa cầu tiêu và lau quét sàn phòng giam không cần các Tổ cắt cử trực sinh. Luôn luôn, trên môi điếu thuốc lá Ăng-lê, nhà tỷ phú Trần Thành làm công việc “‘đầy tớ” một cách vui vẻ. Không hề nghe ông ta thở dài, tiếc của, than thân, ông nói: “Còn sống, còn hy vọng làm lại.” Tinh thần lạc quan của ông ta đã dạy tôi can đảm chịu đựng. Tôi bỗng quên cay đắng, tủi nhục và nỗi chết. Tôi cũng nhớ nằm lòng câu nói của cai ngục Quỳnh: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản”. Sự khinh miệt của Cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh” lại sôi sục đáy tim tôi. Mỗi tù nhân hiểu “học tập cải tạo” một ý.
Nhiều người khước từ những bài học Cộng sản. Riêng tôi, tôi thành thật cám ơn “lời vàng ngọc” của gã cai ngục tầm thường, có thể, hắn đã cường điệu, hắn đã cương, đã bứt khỏi giáo điều của các lãnh đạo hắn. Song, quý hóa thay là ngón võ “đem cái đạo của thiên hạ trả lại thiên hạ.” Tôi nhập tâm câu nói: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.” Chúng ta đã, đang chiến đấu chống Cộng sản, chỉ tiếc rằng, trong chúng ta còn khá đông những kẻ tưởng tượng đau khổ mà chiến đấu. Và, tệ hại hơn, còn khá đông những kẻ nhục mạ nỗi đau khổ chống Cộng của người khác. Để độc quyền chống Cộng bằng đau khổ tưởng tượng. Chí Hòa là nơi tôi sẽ học hỏi nhiều hơn.
Nhân vật thứ hai của phòng tôi là Đào Mậu, Bang trưởng bang Quảng Đông, Saigon. Nhà tỷ phú này già nua, thâm trầm, ít nói, không có nét “đan thanh” nào cần diễn tả. Nhân vật thứ ba là Tăng Tài mà Đoàn Kế Tường đã phong chức Tư lệnh hải quân đường sông. Mọi vận chuyển lúa gạo đường sông miền Nam nằm trong tay ông Ba Tầu bụng phệ không biết viết cả chữ Tầu lẫn chữ Việt này. Tăng Tài, chắc chắn, thuộc huyết thống Tăng Sâm, rất có công lao vận chuyển thuốc Tây vào mật khu cho Cộng sản. Thế mà vẫn bị nhúm. Vì tư sản mại bản. Tư lệnh hải quân đường sông có bệnh thích cầm nhầm, bệnh “mất áo trắng đòi áo thâm.” Hôm chúng tôi bị khám hành lý, Đặng Hải Sơn xếp dọn đồ tù bị lục tung thấy lạc cái khăn tắm. Trưởng phòng yêu cầu anh em tự giác lôi hành lý của mình ra cho Đặng Hải Sơn tìm khăn. Cái khăn của Đặng Hải Sơn bị “lạc” vào bị của Tăng Tài. Vị tư lệnh hải quân đường sông thản nhiên nói: “Đây là khăn của tôi, nhưng nếu anh Sơn mất, tôi xé chia đôi”.
Đặng Hải Sơn ngao ngán: “Thôi, ông giữ mà dùng, giữ nguyên chiếc.” Dĩ nhiên, tỷ phú Tăng Tài cười rất đẹp và không cần… cám ơn.
Nhân vật thứ tư là Trương Viso. Nhà tư sản mại bản Việt 90% gốc Hoa 10% này có đức tính thích-hơn-người. Nước đã chia đều cho tù nhân dùng vào việc cá nhân. Trương Viso vẫn “chôm” nước xối cầu tiêu của phòng. Đoàn Kế Tường lãnh nhiệm vụ phân phối nước, chửi um lên. Trương Viso vẫn trơ ra. Anh em tặng Trương Viso hỗn danh Trương thớt me. Tôi hỏi ông ta:
- Ông không xấu hổ à?
Trương Viso tỉnh bơ:
- Xấu hổ gì? Đứa nào tức giận tôi, nó sẽ mau chết. Còn tôi, tôi cứ sống lâu.
Cái triết lý sống của Trương Viso sẽ hay lắm, nếu ông ta đừng xâm phạm vào quyền lợi của người khác. Người Tầu mưu sinh đất khách đã sống với triết lý đó. Mày cứ chửi ông, cứ coi thường ông đi, rốt cuộc ông giầu hơn mày, mạnh hơn mày.
Tôi vừa kể những khuôn mặt tư sản mại bản Chợ Lớn. Bây giờ, điểm mặt tư sản mại bản Saigon, Việt Nam chính gốc. Nhân vật cự phách hàng đầu vẫn là Phạm Quang Khai, tư lệnh hải quân đường biển. Ông Khai có những 50 chiếc tầu chở dầu chiến lược. Ông trở thành tỷ phú, được báo Newsweek của Mỹ xếp vào hạng 1 trong 10 người giầu nhất Việt Nam nhờ chiến tranh. Ông Khai không làm buồn ai, không làm hại ai cả nhưng vì quá tiếc của, vợ con lại… di tản từ khuya, ông đâm ra lẩm cẩm. Ông bị kẹt lại là do muốn di tản hết chổi cùn giế rách.
Chúa tầu mà không đi lọt, âu cũng là thiên định. Và còn là nguồn an ủi của những ai phải ở lại với Cộng sản. Ông tư lệnh hải quân đường biển Phạm Quang Khai có thú vui vá quần xà-lỏn. Hai cái quần của ông mỗi ngày một dầy, liệng xuống sông là chìm nghỉm. Đã thế, ông còn chơi râu. Tù nhân trên 50 tuổi, Đảng cho phép chơi râu, tuy Đảng rất thèm râu dành độc quyền cho Bác Hồ chơi. Ông Khai chơi râu, cai ngục khó chịu lắm. Hồi sống chung với ông Khai ở 1C-1 đề lao Gia Định, tắm sau ông là đợi dài. Ông… gội râu đã mất hai mươi phút, giặt quần xà-lỏn đụp hai mươi phút. Ông đeo kính lão cả giờ ngủ. Mỗi ngày, ông nằm “đạp xích-lô” ba lần, mỗi lần ông đếm dủ 3000 vòng. Để chữa bệnh trĩ, ông nói thế. Ông cũng đọc kinh, bấm đốt tay thay vì lần tràng hạt, mỗi ngày ba lần. Bốn giờ ông đã dậy đọc kinh, “đạp xích-lô”. Lúc ông đọc kinh, quan sát ông, tôi suýt phì cuời. Tay trái là tràng hạt, tay phải cầm quạt quạt phành phạch, miệng bập bập liên hồi. Tuy đọc kinh có vẻ tập trung tư tưởng lắm, nhưng đôi mắt ốc nhồi của ông vẫn ngó ra phía cửa xem cai ngục có đi tuần “đột xuất”. Hễ nghe bước chân cai ngục là ông Khai “phanh” miệng cái rốp. Sau khi đọc kinh, ông cung kính vái lậy tường tù và… tù nhân. Cai ngục nực ông vô cùng. Thằng Phách đã xỏ ông: “Anh Khai, anh đừng dỡ trò nhà có của đóng cửa đi ăn mày nhé! Cách mạng chưa tịch thu quần đùi của anh đâu. Anh bêu riếu cách mạng vừa vừa thôi.” Vậỵ là ông Khai liệng quần xà-lỏn đụp tại Chí Hòa. Ông đã giải phóng quần xà-lỏn, giải phóng công nhân xà-lỏn, không nỡ bóc lột thêm. Thú vui nặng tính chất “tỷ phú” của ông là làm cô-lếch-sông gói giấy đựng mì. Ăn mì xong, ông giữ lại cái bao, vuốt ve phẳng phiu, xếp ngay ngắn, cất vào bị. Anh em xin, làm đóm hút thuốc lào, ông không cho. Bị khám hành lý, cô-lếch-sông bao mì của ông bị cai ngục tịch thu, ông nằn nì xin lại vài cái. Cứ vậy, dài dài. Ông lẩm cẩm hay máu tỷ phú nó thế. Đồ thăm nuôi của ông, ông không tiêu thụ hết, nhất định để mốc vất thùng rác chứ chẳng dại cho các “con bà phước”. Đấy, nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, ngang cơ tỷ phú Hoàng Kim Quy. Vua tầu dầu và vua kẽm gai giống hệt nhau.
Ông vua thứ ba, vua hóa chất Nguyễn Công Kha hỗn danh Kha muối 1, không đến nỗi keo cú và ích kỷ như hai vua tầu dầu, vua kẽm gai, nhưng có tính lo xa. Nghĩ rằng chỉ sợ hết thức ăn sớm, không chịu nổi canh bí rợ nấu muối. Ngày thăm nuôi, gia đình gửi vào ba miếng thịt bò bíp-tếch, một con gà rô-ti… Thay vì đã có sườn kho theo kiểu ‘’chả chìa”, thịt chà bông, thịt kho ăn dài hạn, bíp-tếch, gà rô-ti thưởng thức ngay cho sướng miệng. Không, người lo xa Nguyễn Công Kha ăn một miếng bíp-tếch bò thôi. Hai miếng kia rắc đầy muối, bỏ vô hũ, để dành tuần sau! Còn chú gà rô-ti, hôm sau đã có chất nhờn trên da, vua hóa chất nhờ bạn tù nghèo lột da, xé thịt rồí… ướp muối. Xương và da nhờn tặng “con bà phước”. Mất cả tỷ bạc mà vẫn ướp muối bò bíp-tếch thì… lạc quan thật. Ông Kha có hai niềm vui. Một: Khom lưng cúng Phật. Ông là người thân cận của hòa thượng Thích Tâm Châu. Một hôm, đang say mê cúng Phật, ông quên cai ngục Phách đứng ngoài hành lang theo rõi ông.
- Anh kia!
Vua hóa chất giật mình:
- Làm gì thế?
- Tôi tập thể dục, cán bộ ạ!
- Thành khẩn đi, anh lễ lạy ai?
- Dạ, tôi lễ Phật.
- Anh mất tự do rồi, cấm chỉ anh lễ Phật.
- Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng.
- Trong tù không có tự do, hiểu chưa?
- Hiểu.
Ông Kha mất niềm vui cúng Phật. Hai: hàn những lọ nhựa, keo nhựa, xô nhựa bị thủng. Ông hàn giúp bất cứ ai nhờ ông. Để thay thế niềm vui cúng Phật, lợi dụng xuống tắm, ông lượm sợi giây điện lớn, cục đá nhỏ đem lên phòng chế kim khâu, ông Kha tỉ mỉ đục cái lỗ xuyên chỉ thì tuyệt. Vua hoá chất cung cấp kim may túi, may quần xà-lỏn, vá áo cho Đặng Hải Sơn, Mai Đức Khôi…
Nhân vật tư sản mại bản tôi sắp kể chưa lên hàng vua là Bùi Kim Bảng 2, con trai của giáo sư Bùi Hữu Sủng. Ông ta, chủ một viện Bào Chế Âu Dược, tròn như hột mít. Chỉ có một điều đáng nói về ông Bùi Kim Bảng. Các phòng giam tại Chí Hòa, cầu tiêu xây ở góc phòng, sát sàn nước. Phải leo lên cái tam cấp mới đại, tiểu tiện được. Do đó, tù nhân gọi công việc đại tiện là lên sân khấu. Ông Bùi Kim Bảng có thói quen lên sân khấu vào đúng bữa cơm trưa. Ác nghiệt thay, ông “diễn trò” giữa lúc anh em ăn dở dang. Trò của ông “thối” vô cùng, ông lại “chơi ra-phan”, chấp tất mọi la lối, chửi thề. Đó là mẫu trí thức chỉ biết mình và thói quen của mình. Khác hẳn người tự trọng Khai Trí Nguyễn Văn Trương, chờ khuya mới “lên sân khấu” vì mắc bệnh trĩ, không muốn phiền ai đợi mình lâu.
Ngoài mấy nhân vật tư sản mại bản, trừ Trần Thành, mà sống chung với họ mòn đời, chắc chắn, tôi không học được ở họ một điều gì hữu ích. Họ chỉ than van, oán trách rồi mơ ước Cộng sản thua. Để họ được trả lại những gì Cộng sản đã tước đoạt của họ. Nhân sinh quan của họ không thay đổi, dẫu họ đã bị xoáy tròn trong cơn lốc tháng 4 năm 1975 và đã tận mắt chứng kiến sự khốn cùng của dân tộc họ mà chính họ chịu trách nhiệm lớn. Có những kẻ sinh ra chỉ biết làm giầu và chẳng thèm biết đến ai. Những kẻ ấy, ở bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn chẳng thèm biết đến ai. Bất hạnh cho dân tộc ta là có khá nhiều hạng người ấy.
Tôi kể sang những nhân vật chính trị của một chính phủ… buồn cười: Chính phủ liên bang Đông Dương. Câu chuyện như thế này:
Cụ Đỗ Văn Lựu, cựu đại tá Ngự Lâm Quân, thời đeo lon trung úy đã đồn trú tại tô giới Thượng Hải, bố vợ của tướng Phạm Văn Phú. Cụ Lựu vốn là bạn thân của ông Bùi Ngọc Phương. Ông Phương, hẳn mọi người còn nhớ rằng, đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù về tội Công ty dầu lửa chi đó. Cụ Lựu có một đệ tử tên là Nguyễn Văn Cương mà Đằng Giao tặng biệt đanh Cốc Chính Cương. Cốc Chính Cương, kỹ sư canh nông còn trẻ, được chế độ mới lưu dụng và xử dụng vào công tác đắp đập Ông Nhiêu làm thủy lợi. Đập Ông Nhiêu thất bại. Cốc Chính Cương bị phê bình phá hoại. Vừa lo sợ, vừa phẫn nộ, Cốc Chính Cương gặp cụ Lựu, phịa chuyện có 7000 tinh binh, sẵn sàng điều động. Cụ Lựu dậy hồn trẻ, muốn báo đáp non nước tấm thân già tin Cốc Chính Cương và nhập cuộc. Cụ rủ Bùi Ngọc Phương, con rể của tác giả Mồ Cô Phượng. Ông Phương mê cầu cơ và nhiều thủ đoạn, lại có máu lãnh tụ. Để chính thức được nhận là Tổng thống chính phủ Liên bang Đông Dương, ông Phương mời cụ Lựu và vài vị tổng trưởng về thánh thất Cao Đài. Ông thuê đồng tử, trinh nữ nhập cơ nói những điều ông đã dặn. Cơ lên, chỉ đúng ông Bùi Ngọc Phương mà phán “Chân mạng đế vương”. Cụ Lựu tin, nhiều tổng trưởng tin. Ngô Khởi dạy: Khi xuất quân, không tin cái thế tất thắng ở mình thì chỉ còn cách bói mu rùa. Thời gian sau 1975, con người bối rối, nôn nóng cứu nước đến mê muội, tin cơ là chuyện thường. Và Bùi Ngọc Phương hiểu tâm lý con người quá xá. Nhưng, những Lê Khải Trạch, Nguyễn Cao Thanh, Vũ Đăng Dung không tin cơ đâu. Họ tin 7000 tinh binh của Cốc Chính Cương mà họ tưởng là của tướng tuẫn tiết Phạm Văn Phú, vì cụ Đỗ Văn Lựu nói. Rốt cuộc tổng thống Bùi Ngọc Phương, phó thủ tướng Đỗ văn Lựu, các tổng trưởng vào tù. Cốc Chính Cương vào tù luôn. Phòng tôi có cụ Lựu, ông Phương, chàng Cương. Họ nhìn nhau cười trừ. Những chiến sĩ chống Cộng bằng… cầu cơ còn tiếu lâm hơn cả ông Đinh Xuân Cầu chống Cộng với Mỹ của Trương Phiên. Tôi bỗng thấy mình ngu dại. Có ai nguyền rủa kẻ sắp chết đuối bạ cái gì cũng níu không nhỉ?
Nhân nói về chính phủ Liên Bang Đông Dương… cầu cơ, tôi kể một câu chuyện xẩy ra tại Đề Lao Gia Định. Một tù nhân tâm sự với tôi rất thành khẩn:
- Ông tin tôi đi, Mỹ đã đổ quân lên Trường Sa, chờ ngày giải phóng Saigon. Nó viện trợ 2 tỷ đô la. Mấy trăm ngàn xe hơi Mazda đã có sẵn ở Trường Sa rồi.
- Dựa vào đâu mà ông bảo tôi tin?
- Cứ tin đi!
- Ai nóí?
- Thì cơ nói chứ ai nói!
Hơn một nghìn ông thầy bói đã bị đi học tập cải tạo mấy tháng chỉ vì dám đoán cái thế tất thua của Cộng sản và sự thành công vượt biên. Tôi mà chỉ sống chung với tỷ phú và tổng thống, tổng trưởng, ngày tháng tù sẽ dài vô tận. May mắn chừng nào, cái vũ trụ Chí Hòa của tôi còn có sát nhân, tướng cướp, án tích du đãng cũ, bộ đội đào ngũ, cán bộ mất phẩm chất cách mạng. Và Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Đặng Hải Sơn, Khai Trí, Nguyễn Mạnh Côn, Phan Thành Trường, Mai Đức Khôi, Cốc Chính Cương… Phan Thành Trường, kỹ sư cầu cống, tốt nghiệp tại Pháp, con trai bà hiệu trưởng Trưng Vương. Anh về nước phục vụ, dạy học ở Trường Kỹ thuật Phú Thọ. Không chấp nhận chế độ Cộng sản, anh gia nhập tổ chức chống Cộng của những người lính nhẩy dù.
o O o
Vài nét về vài nhân vật của phòng mới của tôi do Phạm Quang Khai “lãnh đạo”. Những nhân vật đề lao mà tôi đã sống với họ như Phan Bá Thúc, Hà Năng Đắc… thì miễn kể. Niên trưởng phòng tôi là cụ Ngao Song, người Nùng, 80 tuổi, cựu đại úy Biệt khu Hải Yến. Nhi đồng phòng tôi là Nguyễn Ngọc Phước, 8 tuổi, móc túi ở bến xe đò. Đã có một tờ báo dành cho độc giả từ 7 đến 77 tuổi, phải có một nhà tù dành cho tù nhân từ 8 đến 80 tuổi. Trẻ không tha, già không thương là nhà tù Cộng sản.
Lần đầu tiên, kể từ ngày bị bắt, tôi mới có dịp sống chung phòng với anh Nguyễn Mạnh Côn. Cơn nghiện đã tha anh, không hành hạ anh nữa. Thuốc phiện hút chất nước trong cơ thể con người. Thiếu thuốc phiện, anh Côn “mập” ra, thứ mập thê thảm. Trông anh như bị phù. Mắt anh lờ đờ và tất cả tinh anh của anh biến mất.
Tính ra, tôi đã sang Chí Hòa hơn một tuần. Đoàn Kế Tường vẫn nằm cachot rùng rợn của khu FG. Đằng Giao đã chia cơm nước cho cachot FG kể rằng, các “lãnh tụ” Vinh Sơn nằm ở cachot, chưa bị xử tử. Cha Nghị, “tướng” Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đủ mặt. Cha Nghị đã mù vì tuổi già mà cachot tối om, tanh tưởi, nhầy nhụa. Tôi chờ Đoàn Kế Tường về tả tỉ mỉ bên trong cachot FG.
Không có Giáng Sinh tại Chí Hòa. Sau khi đã ổn định các phòng mới, tù nhân được mua giấy, phong bì, tem, bút viết thư báo tin cho gia đình biết trại mới và thể thức thăm nuôi. Bút viết xong phải nộp cai ngục. Gọi là thăm nuôi chứ chỉ nhận quà thôi. Lệ Chí Hòa lạ lắm. Có án mới được gặp vợ con, thân nhân. Chúng tôi là tù nhân không án tích, không xét xử. Khác với đề lao Gia Định, mỗi tháng, Chí Hòa cho nhận quà một lần. Gia đình không nhận thư là kể như đợi tháng sau. Thư tù thay thế giấy thông hành qua cửa khám. Vụ mua hàng dẹp bỏ. Chúng tôi phải chờ gần Tết mới nhận quà mừng xuân. Sinh hoạt của Chí Hòa, chúng tôi đã quen. Kẻng báo thức: Dậy, đánh răng, rửa mặt, chuẩn bị điểm danh. Điểm danh xong, xuống hồ xách nước. Màn xách nước sôi nổi nhất. Anh em tình nguyện lao động, cãi vã, giành giật phục vụ tập thể. Xách nước có lợi lớn. Thứ nhất, được múc một thùng xối từ đầu xuống chân làm một “quả” tắm chớp nhoáng. Thứ hai đem theo cái bình bốn lít lấy đầy nước xối cầu ưu tiên. Nếu bồ ruột đi xách nước, ta xung phong trần truồng, cầm bàn chải chà cầu, bồ của ta sẽ tặng ta trận tắm ngoạn mục trên “sân khấu”. Chúng tôi, 60 tù nhân, một ngày được cung cấp 20 thùng nước. Phòng có một cái phuy nên xô nhựa lớn nhỏ của tù nhân bị trưng dụng chứa nước. Phòng nhờ một tù nhân bảo quản nước. Năm ca nước cho mỗi người một ngày dùng vào các dịch vụ đánh răng, rửa mặt, rửa chén, rửa đít. Đi cầu chỉ xử dụng hai ca nước công dội cầu. Đi tiểu, một ca thôi. Ai xử dụng nước phải hỏi quản lý và bị giám sát. Bồ bịch thì du di. Quản lý nước thường lời cả xô. Chàng tắm thoải mái buổi tối nhưng chàng phải bỏ ngủ trưa để canh gác nước. Nước qúy nên có màn bán nước. Bốn ca một cục đường. Một ca một điếu thuốc lào thật phê. Những kẻ bán nước là “con bà phước”, không cần đánh răng vì không bàn chải và kem đánh răng, không cần rửa mặt và không cần rửa chén.
Người ta đã cho chúng tôi tắm đúng hạn kỳ. Tuần lễ hai lần tắm, mỗi lần 8 phút. Tắm không dám sát xà phòng. Đã tắm là khỏi giặt quần áo. Mà giặt quần áo là khỏi tắm. Bởi vậy, nhiều tù nhân chậm chạp chơi trò mặc quần áo vừa tắm vừa giặt. Tỷ phú Phạm Quang Khai hết thú gội râu. Đang tắm, chưa xối sạch xà phòng, nghe tu hít thổi, phải ra xếp hàng, điểm danh rồi lên phòng. Bệnh ghẻ ở Chí Hòa tái phát, leo thang vun vút.
Sau mục xách nước tới mục lau sàn phòng, chia nước sôi… âm ấm. Rồi pha bột, ngâm mì. Rồi cờ tướng, đô-mi-nô. Rồi thuốc lào vặt, tán láo. Rồi chờ cơm trưa. Kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi dựa tường, ngồi bó gối, nằm nhớ nhà, nhớ đời…
Trưa ở Chí Hòa hiu hắt vô cùng. Tôi chưa biết âm ty, hẳn nhiên, vì tôi chưa chết. Dẫu tôi chết, tôi khó phục sinh để diễn tả những gì tôi thấy dưới âm ty. Nhưng mà, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, tôi đã nghe rõ những âm thanh quái đản từ phòng dưới. Làm sao tôi viết chính xác những âm thanh một đời chỉ có một lần được nghe nhờ ngụp lặn giữa dòng bất hạnh? Cảm giác của tôi, lúc ấy, là rờn rợn, nổi da gà. Tôi đã hình tượng hàng tỷ con ròi lúc nhúc trên lớp phân đang ồn ào đòi hỏi một thứ quyền sống. Tôi cũng còn hình tượng một đại hội âm ty báo cáo thành quả tội ác của qủy sứ. Và liên hoan… Bây giờ, ngồi viết hồi ký Nhà tù, tôi thèm được, một lần nữa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe lại những âm thanh quái đản mà tôi nghĩ đã trở thành điệu ru tuyệt đời của tôi. Chí Hòa, tôi đã mô tả thật kỹ ở tiểu thuyết Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang. Tôi mô tả theo sự tường thuật của các tù nhân Chí Hòa. Đúng đấy nhưng chưa thực. Hôm nay mới thực, bất cứ một chi tiết nào của Chí Hòa, của Chí Hòa sau cái người ta gọi là cách mạng, giải phóng. Để có cái thực, tôi phải nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe những âm thanh quái đản. Thỉnh thoảng, ở cái sa mạc loài người đó, giọng nói nhọn hoắt của một nữ tù phóng ra: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người bệnh nặng’’. Giọng nói nhọn hoắt chìm vào im lặng cố tình. Ngay con chim sẻ đậu trên sợi kẽm gai của cửa gió phòng giam cũng buồn bã nín thinh. Nhân loại bên ngoài càng nín thinh. Và đồng loại nín thinh kỹ hơn. Đôi khi, đồng loại bên ngoài ầm ỹ chát chúa để khỏa lấp những vô tình chủ mưu. Khi đó, bên trong, giọng nói đã hụt hơi, rời rã: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người sắp chết”! Nhiều nhà văn triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất hay dạy triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất của chúng ta, hằng đề cập tới tiếng thét của cô đơn. Ở đâu chúng ta nghe rõ tiếng thét của cô đơn? Ở chấp vá, vay mượn tư tưởng của các triết gia thế giới rồi nhập nhằng nhận là sáng tạo của mình? Hoặc ở sự tưởng tượng sau cuộc vui chóng tàn? Hoặc ở cung cách làm dáng tư tưởng trong văn chương? Riêng tôi, tôi thấy tiếng thét của cô đơn ở những buổi trưa, những ban đêm tù ngục; tiếng thét của cô đơn ở ngay quê hương tôi, ở nơi tôi sinh ra, khôn lớn, đau khổ, chịu đựng và hy vọng. Nếu sự chịu đựng đau khổ để tạo dựng ngày mai hạnh phúc thì, tôi khẳng định rằng, ngày mai hạnh phúc của dân tộc tôi phải do người quê hương tôi tạo dựng ngay trên quê hương tôi. Hạnh phúc của dân tộc tôi không bao giờ ở Mỹ châu, Âu châu hay Úc châu, không bao giờ là những đồng đô-la lạc quyên mập mờ, không bao giờ là những chiến khu thuê rừng đất khách, không bao giờ là vo ve của bọn nhặng đấu thầu nỗi khổ, rao bán nghẹn ngào của dân tộc. Trước hết và sau hết, bọn giả vờ yêu nước chưa đủ kiến thức nghe và hiểu nỗi cô đơn của dân tộc họ. Cả Cộng sản lẫn quốc gia. Bổn phận của nhà văn là lay động cái bóng tối u mê phủ kín những tham vọng đê tiện làm què quặt dân tộc, làm u ám quê hương. Người ta đã khước từ cái sứ mạng cầm bút đó. Rốt cuộc, mặt trận mà Cộng sản sợ hãi nhất là Mặt trận Văn hoá thì hoàn toàn im lặng, thụ động. Thụ động buồn tênh trong cái thế tư tưởng quốc gia đối kháng tư tưởng mác xít, chủ nghĩa nhân bản đối kháng chủ nghĩa phi nhân. Đôi khi, tôi rất tội nghiệp tôi. Trải dài đời mình chịu đựng mọi oan khiên, nhục nhã để cống hiến đời sống, ít ra, những trang sách về tù ngục Cộng sản chính xác nhất, chẳng những vô tích sự mà còn bị căng thây lãnh hàng trăm mũi tên bẩn. Tôi dứt khoát tuyên bố, sau khi ký tên hoàn tất hồi ký Nhà tù và Trại tập trung, tác phẩm của tôi sẽ không còn hai tiếng Cộng sản nữa. Tôi không chống Cộng nữa. Tôi noi gương các tiên chỉ, lý tưởng văn nghệ hải ngoại, cúi gầm mặt trước bạo lực, thản nhiên trước những rên siết, quằn quại của tổ quốc, dân tộc, nói chuyện tình yêu, viết chuyện ăn uống. Để được tiếng đứng đắn, không công kích ai. Để được lòng cả quốc gia lẫn Cộng sản. Để được cả Cộng sản và quốc gia khen ngợi. Và được cả những đứa bần tiện nhất trên đời ngưỡng mộ. Tôi đã chọn lựa một thái độ. Tôi không ngu đi chống Cộng một mình, nhịn đói chống Cộng. Để bị quốc gia bêu nhục. Để bị Cộng sản nguyền rủa. Có lẽ, tôi nên trở về Chí Hòa của tôi.
Kẻng trưa báo thức: Dậy, chờ nước sôi. Phải nói nước đun sôi. Tôi chưa thấy nước sôi ở Chí Hòa bốc khói khi gánh lên phòng. Sinh hoạt phòng giam ồn ào. Lại cờ tướng, đô-mi-nô ăn đấm lưng, hút thuốc lào vặt, tán gẫu và ngồi thẫn thờ nhớ vợ, thương con. Láng giềng của tôi, phòng bên trái là tù hình sự, có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột của nhà văn Mai Thảo; phòng bên phải là tù phản động gồm toàn con cháu các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ đi tắm ngang qua phòng nhau, chúng tôi nhận ra nhau dễ dàng. Người ta bảo các ông Ngô Khắc Tinh, Hồ Văn Âm bị giam ở Chí Hòa. Tôi chưa gặp mặt họ. Tôi ước ao chuyển phòng khắp 4 khu Chí Hòa. BC là khu tôi thích đến, vì trong truyện ngắn Ánh lửa đêm tù tôi đã tả một phòng giam BC do Nguyễn Thụy Long kể. Có một sự kiện buồn cười giữa Nguyễn Thụy Long và tôi. Tác giả Loan mắt nhung mới là du đãng thứ thiệt, tay giang hồ hạng nặng, từng nằm quân lao Gò Vấp, khám Chí Hòa. Nguyễn Thụy Long khoái tôi, ưa tâm sự với tôi về cuộc đời ngang dọc của anh. Long thật hiền. Anh em tặng biệt danh Trâu Nước Quách Tỉnh. Mê quãng ngày hành hiệp của Long, tôi viết Điệu ru nước mắt. Thấy tiểu thuyết du đãng thành công, Nguyễn Thụy Long bèn sáng tác Loan mắt nhung. Rồi hàng loạt tiểu thuyết bụi đời. Được nhờ giới thiệu Loan mắt nhung sau bìa sách, tôi đã cho Trần Đại lu mờ trong vùng trời giang hồ. Đến khi Nguyễn Đình Thiều viết loại truyện này, tôi để một Nguyễn Thụy Long tung hoành, khai thác đề tài mới. Tôi thích đến khu BC, bởi vậy. Nhân vật Quân của Ánh lửa đêm tù là hình ảnh Nguyễn Thụy Long.
Kỷ luật ở Chí Hòa “sắt thép” hơn đề lao Gia Định. Qua đây, kể như hồ sơ của chúng tôi đã khép lại, hết còn bị hành hạ tự khai. Thay vào sự hành hạ tinh thần, Chí Hòa khủng bố tinh thần, đày đọa thể xác và thường xuyên đe dọa tù nhân bằng những quyết định tự chế của từng cai ngục. Tư Long, tôi nhắc lại, là tên Cộng sản nằm vùng, bán vé và xếp chuyến xe đò Minh Trung lộ trình Saigon – Đà Lạt. Sau 30-4-75, hắn đeo quân hàm đại úy công an, nắm chức vụ Trưởng trại đề lao Gia Định. Bây giờ, Tư Long bị hạ tầng công tác, xuống chức Trưởng khu FG. Chắc chắn, vì lờ đờ bị hạ tầng công tác nên Tư Long đã hung hăng ở Chí Hòa. Cai ngục và đám trật tự thuộc hạ cai ngục đều hắc ám và thường xuyên rình mò phòng tôi. Có điều lạ là qua Chí Hòa, chúng tôi ăn cơm hai bữa với canh bắp cải hầm xương heo. Ăn no nê. Đằng Giao giải thích: Bếp do sĩ quan cảnh sát khu ED phụ trách và Bộ Nội Vụ cung cấp thực phẩm. Nhưng tuần trăng mật cơm canh chẳng kéo dài, Sở Công An tiếp thu bếp, tù nhân phải ăn cơm với bí rợ nấu muối. Và đội cấp dưỡng gồm lũ công an can tội hiếp dâm, ăn cướp… Ở Chí Hòa, người ta không phát chén, ca, muỗng, chiếu. Các “con bà phước” phải xin những cái bình nhựa đựng nước tương, nước mắm của tù nhân thừa bình, cắt bỏ phần trên, lấy phần dưới đựng canh. Cơm thì chia vào túi ny-lông. Bốc cơm, húp canh. Chúng tôi cắt bị cói may chiếu. Đặng Hải Sơn và Mai Đức Khôi đã trở thành tay thợ may tài tình. Mép chiếu viền vải đàng hoàng. Nhét tiền vào viền vải, chắc ăn nhất, cai ngục đâu ngờ mà lục xét.
Vài hàng về Mai Đức Khôi, hỗn danh Độc thủ phản động. Khôi, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chiến đấu cụt một cánh tay, chủ trương một hãng thông tấn tư. Can tội phản động. Dáng dấp thư sinh, bướng vô tả, ăn thua đủ với cai ngục nhưng nhường nhịn bạn bè, nhất là những người ít tuổi. Chỉ một tay thôi, Độc thủ phản động có thể cắt quần xà-lỏn, sửa sơ-mi bằng dao nắp lon sữa bò mài sắc và kim giây đồng do Nguyễn Công Kha chế tạo. Tất cả ba-lô may bằng túi đựng phân bón và chiếu may bằng bị cói phá ra của phòng đều đo Khôi cụt và Đặng Hải Sơn đảm trách. Thoạt đầu, “con bà phước” nằm sàn xi-măng. Qua vài kỳ thăm nuôi, ai cũng có chiếu made by Khôi cụt.
Đoàn Kế Tường đã ra cachot. Tường nói:
- Gần Tết rồi, nhớ anh em quá, đành làm kiểm điểm nhận lỗi và hứa không tái phạm. Với lại cachot Chí Hoà châm quá, không chịu đựng thêm nổi. Em đã cố gồng thử sức, rốt cục xìu.
Có Đoàn Kế Tường, không khí phòng sinh động hẳn. Tường, dân Quảng Trị, giọng nói nặng nề khó nghe mà ham nói nhiều, nói lớn. Tính nóng nẩy, ưa dính vào chuyện bất bình của kẻ khác, không nể nang chi già trẻ, nếu già trẻ sai trái. Bản chất tốt nhưng đầy mặc cảm xuất thân bần hàn. Nằm cachot FG ngót bốn tuần, có lẽ, Đoàn Kế Tường đã truy nã kỹ lưỡng thân phận mình nên dáng điệu buồn bã, mệt mỏi. Tự nhiên, trong những tâm sự riêng tư, Tường bầy tỏ sự thù hận Uyên Thao và khai hết mọi lầm lẫn thuở cộng tác với nhật báo Sóng Thần. Tường hối hận đã gián tiếp dính vào vụ ám sát Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm Đông Phương. Có cuộc trần tình giữa Đoàn Kế Tường với Đằng Giao về chuyện hất Chu Tử khỏi Sóng Thần. Hoàng Mạnh Hùng và tôi ngồi nghe. Nội bộ Sóng Thần được mổ xẻ ở nhà tù Chí Hòa. Tôi đâm ra ớn. May mà tôi đã giã từ làng báo từ năm 1970. Và tôi không ngạc nhiên khi hay tin ký giả Đạm Phong bị bắn chết ở Hoa Kỳ.
- Nó cho cậu viết thư chưa?
- Rồi, ngay sau ký tên dưới bản kiểm điểm. Nó hứa đưa thư đến tận nhà.
- Nhà ai?
- Chị em.
- Còn vợ con?
- Thôi, các anh ạ, quên chuyên ấy đi.
Tôi thấy Đoàn Kế Tường rơm rớm nước mắt. Tường kể trận đòn hội chợ, kể những ngày cachot thê lương, kể những lần đối thoại trong bóng tối với cha Nghị, với Ali Hùng và với một nữ tù nhân. Cuộc đời Đoàn Kế Tường là một cuốn tiểu thuyết đầy tình tiết lâm ly. Thông minh, có chí song gặp đàn anh tồi. Rồi cứ nằm gọn trong móng vuốt của đàn anh phù thủy và làm âm binh mê muội đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Từ nhập thế, Đoàn Kế Tường chỉ có một lần làm đúng và làm theo ý mình. Là chống Cộng sản tự nguyện. Sau 30-4-1975, Tường thất chí, bỏ bê vợ con, sống lang thang ở các vỉa hè với chiếc xích lô đứng tên mình. Đạp xích lô để đủ tiền hút Lucky! Chán nghề đạp xích lô, Tường bán xe, tậu chiếc ba gác. Chán đạp xe ba gác,Tường tìm Dương Đức Dũng kiếm đường vào mật khu. Không có mật khu, hai chàng thành lập một tổ chức phản động, kết nạp toàn sinh viên, học sinh. Họ mời cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Tài chính do nhà quảng cáo Thái Sơn và Phó giám đốc khách sạn Palace bảo trợ. Hai chàng tuổi trẻ đều là ký giả nên hăng say xuất bản báo lậu. Bất hạnh cho cả hai và tổ chức là tên công an Đỗ Hữu Cảnh (luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng, nằm vùng) lọt vào tổ chức. Tất cả dính lưới Mai Chí Thọ. Muốn diệt trọn ổ, Mai Chí Thọ dùng Đoàn Kế Tường làm cò mồi. Những ngày đầu vừa bị bắt, công an ngụy trang thường dân dẫn Tường tới Caféterie Palace, bảo Tường ngồi riêng một bàn. Bất cứ ai quen biết Tường, sà lại chào hỏi Tường là bị nhúm. Phó giám đốc khách sạn Palace bị nhúm tại đây.
- Em ngồi đọc kinh thầm cầu nguyện đừng có ai quen biết vô đây. Em đã gặp anh Hoàng Anh Tuấn dắt xe đạp xì bánh ngang qua, em chỉ sợ anh ấy ngó thấy em.
Đoàn Kế Tường bị bắt cuối năm 1975.
- Anh ạ, cái màn này đã làm em choáng váng. Khối người kết tội em chỉ điểm bắt “đồng chí”.
Chuyện này, cả Tường lẫn Dũng và Thái Sơn đã kể cho tôi nghe ở đề lao Gia Định. Tôi càng yêu mến người bạn tuổi nhỏ của tôi. Trong Bầy sư tử lãng mạn, tôi có viết về Tường và Dũng để tỏ lòng ngưỡng mộ. Chúng tôi lại gặp nhau ở Chí Hòa. Dũng ăn đòn toét môi, nằm cachot FG một đêm. Tường ăn đòn oằn thân thể, nằm cachot FG ngót nghét một tháng. Sẽ chẳng có một dòng chữ nào viết về Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và sư tử lãng mạn chống Cộng sản cô đơn và tuyệt vời ngay trên đất quê hương. Người ta đã truy điệu, đã suy tôn những liệt sĩ tưởng tượng hy sinh trong những cuộc chiến đấu chiêm bao. Nhưng mà đó không phải là chuyện của tôi. Chuyện của tôi chỉ là những anh em đang thoi thóp ở các miền tù ngục quê mẹ ngàn đời đòi đoạn.
Chú thích:
 Hiện đã có mặt tại Huê Kỳ.
 Hiện đã có mặt tại Pháp.