Chương Bảy
Anh Vân, Một Chứng Nhân Lịch Sử Ưu Tư Qua

Văn Phẩm ''Ác Mộng Đêm Dài''

    
  nh Vân là một cây bút nhiệt tình với thời cuộc trong và ngoài nước, với mỗi biến động của lịch sử. Anh cũng là một cây bút trữ tình, tâm hồn rất bén nhạy với tình yêu đôi lứa, đôi khi tình yêu có lỡ trượt ngã  vào tình dục đi nữa, nhưng chẳng những tình yêu không dâm uế mà lại thắm thiết sắc son tươi rực rỡ. 
Quyển trường thiên Ác Mộng Đêm Dài  là phản ảnh một giai đoạn lịch sử từ những ngày tháng Miền Nam Việt Nam sắp rơi vào tay bạo quyền Cộng Sản cho tới giai đoạn những nhân vật chánh hay một vài nhân vật nòng cốt trong truyện ra hải ngoại. Ở nơi khách địa, kiều bào chúng ta hòa hợp vào cuộc sống xa lạ với người bản xứ đã là khó khăn. Vậy mà còn vì nhiệt thành yêu nước, họ lại bị bọn tổ chức kháng chiến ma với những cái tên  Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh,  Nguyễn Xuân Nghĩa... và tên đầu sỏ Hoàng Cơ Minh đưa những kẻ hăm hở với đại cuộc vào cơn hỏa mù để bọn chúng thu hoạch tiền yểm trợ do kiều bào đóng góp.
Trong War and Peace  ( Chiến Tranh và Hòa Bình ) của Leo Tolstoi, trong cuốn Gone With Wind ( Cuốn Theo Chiều Gió ) của nữ sĩ Margaret Mitchell, cuộc chiến chỉ kéo dài chẳng bao lâu, trên một năm hoặc vài năm là cùng. Còn cuộc nội chiến giữa Quốc Cộng chẳng những kéo dài 15 năm (từ 1960 đến 1975) mà còn gây cho những người chiến bại Miền Nam Việt Nam biết bao lầm than oan trái. Người còn kẹt lại trong nước sống trong cảnh nghèo đói, bị bức hiếp, bóc lột, tù đày. Người vượt biên ra hải ngoại còn bị bọn đầu cơ chánh trị lừa đảo và còn bị bọn Cộng Sản len lỏi vào các cộng đồng để phá tan hàng ngũ đoàn kết của kiều bào để đưa họ tới giai đoạn nghi kỵ thù ghét nhau.
Nguyên do nào, động cơ nào thúc đẩy tác giả viết quyển Ác Mộng Đêm Dài? Xin đọc một đoạn trong Lời Tựa:
Tôi là một nhân chứng sống của cuộc chiến, tôi từng cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ quốc gia. Sau 30-4-1975, tôi là tù binh của chế độ lao tù cộng sản. Tôi nghĩ chỉ có những kẻ trực tiếp tham dự cuộc chiến mới cảm nhận được hết nỗi đau đớn đến biến thành căm hận, nỗi sợ hãi đến kinh hoàng của những kẻ trong cuộc.
Là một nhân chứng sống, tôi nghĩ, tôi có bổn phận phản ảnh lại một giai đoạn lịch sử bi thảm của đất nước, cũng để trả món nợ mà tôi đã cưu mang trong đời sống, món nợ đối với quê hương, đối với đồng bào tôi đang sống khắc khoải trong chủ nghĩa cộng sản, món nợ đối với các chiến hữu tôi đã nằm xuống trong cuộc chiến Việt Nam, món nợ đói với các bạn tù tôi đã chết lặng lẽ trong những trại giam được mệnh danh là ''trại cải tạo'', món nợ với đồng bào tôi đã vùi thây trong lòng biển lạnh.
(các trang 9, 10)
Bộ trường thiên Ác Mộng Đêm Dài  được trình làng vào năm 2003, sau khi Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do Hoàng Cơ Minh làm chủ tịch bị lột mặt nạ gian trá, sau khi bọn chớp bu đê tiện của cái gọi là mặt trận ấy bị thua kiện tại pháp đình, hết dám sừng sõ với những kẻ dám vach trần tội lường gạt của chúng đối với kiều bào nhiệt tâm yêu nước. 
Nhưng vận sự nhuốc nhơ bỉ ổi đó đâu đã hết. Bọn thành viên gia đình trị và băng hữu trị của Hoàng Cơ Minh còn gom góp nhóm tàn binh của chúng để lập ra tổ chức khác, với danh xưng khác để bành trướng  cái thối thân của cái gọi là mặt trận ấy. 
Bây giờ cái tên của nó thun ngắn lại còn có hai chữ  Việt Tân cụt ngủn và nhỏ xíu như con đuông. Bọn đầu sỏ của chúng cứ tìm cách cũng cố nó hoài hoài để mong nó lớn mạnh như xưa. Nhưng kiều bào dại gì góp tiền mua thuốc tẩm bổ cho nó. Nó chỉ còn là thứ hữu danh vô thực mà thôi.
°
°  °
Sau đây là cốt truyện của tác phẩm tâm huyết Ác Mộng Đêm Dài  của Anh Vân. Nó chứng minh rằng tác giả là một nhà văn ưu thời mẫn thế trước những khuynh hướng chính trị đảo điên ở hải ngoại.
Câu chuyện bắt đầu vào  năm cận kề  ngày Miền Nam Việt Nam bị làn sóng đỏ tràn ngập. Lê Quốc Nam vốn là một sĩ quan tác chiến thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, được một tuần lễ nghỉ phép, từ tiền đồn về tỉnh nhà Bạc Liêu thăm mẹ và thăm luôn Hiền người y&ecir/em>
Kéo theo bóng mộng mệt nhoài giữa trưa
Nắng vàng chưa kịp xanh dưa
Đã rơi rụng xuống chỗ vừa mưa qua!
°
Mời trăng ngủ nán hiên nhà
Tiếng thơ thủy mạc hương trà thủy tiên!
°
Bút đâu vấy mực hảo huyền
Vung tay vẽ lối đào nguyên kẹt đường!
Xe đò chạy sớm tinh sương
Bồn binh kẻ chợ thảm thương vật vờ
°
Lạc từ ngọn cỏ phất phơ
Từng con bướm mộng bơ vơ giữa đời...
(Bóng Mộng, trang 8)
Bài thơ nói lên cái trái trắc đảo điên trong cuộc sống Trong cõi phù du nhốn nháo và trái trắc đó, có những điều chưa kịp thành hình mà phải chịu cảnh dập tắt một ách tức tuởi (Nắng vàng chưa kịp xanh dưa’/ Đã rơi rụng xuống chỗ vừa mưa qua). Ở đây chúng ta có thể nghĩ đén những con người chưa kịp trưỏng thành mả phải yễu mệnh chết non. Và cũng trong cõi ấy, mọi thưởng ngoạn, mọi sáng tác của người nghệ sĩ cũng trở nên huyễn hoặc và sa vào ngõ bí (xin đọc phân đoạn thứ 2 của bài thơ). Nhưng dù có bị đưa đẩy bởi nghiệp lực như ngọn cỏ phất phơ trong gió, con người vẫn cứ mộng, chưa thúc tỉnh để nhận diệni cái bản lai diện mục của hiện hữu (xin đọc hai câu cuối của bài thơ).
Từ đó vong thân vào nghiệp chướng
Mặt đời ràn rụa bóng chiêm bao
Đêm đen tròng mắt ngày râu trắng
Từng lớp môi khô bật máu đào.
°
Xúm nhau diễn tới cùng im lặng
Rồi bật cười như mới được đau!
Neo hồn thương tích vào thương tật
Rồi lại buồn như chẳng thể nào....
(Nẻo Hồn, trang 85)
Như thế, còn mê là còn trầm luân trong bể khổ. Đây là hồi chuông cảnh tỉnh gióng giã của Đức Phật đưa con người tránh khỏi Neo hồn thương tích vào thương tật / Rồi lại buồn như chẳng thế nào...’’.
Con người nếu có cuộc sống bình ổn, nếu mọi ao ước của ai đó được thực hiện bằng cách này hay cách khác, đương sự thường săn tìm những mộng ước mới. Y ta không có thời giờ nhìn sâu vào những hiện tượng của mọi hiện hữu trong cuộc đời huống hồ là cái bản thể chung của mọi hiện tượng. Chính những con người đau khổ mới có dịp tư duy, mới có dịp nhìn sâu vào những hiện tượng tiêu cực của đời sống: những tai ương, những đau khổ, những tan vỡ của mọi ước vọng, những tranh chấp và mâu thuẩn trong xã hội, cái phù du huyễn hoặc của kiếp nhân sinh... Do dó, họ tìm tòi ra cái nguồn gốc tiêu cực lẫn tích cực chung của vạn hữu. Từ đó, vấn đề tâm linh và vấn đề triết học mới được họ quan tâm.
Ở truờng hợp Phương Triều, dưới chánh thể Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, anh sống tương đối thoải mái. Nhưng sau cuộc đổi đời kể từ sau ngày 30/ 4/ 1975 cho tới khi ra hải ngoại, cuộc sốngcủa anh đã trở thành khổ ải lầm than. Anh mới có dịp nìn sâu vào cái góc rễ của niềm bất hạnh mình, cái trầm luân của nhân sinh. Dù có tiếp xúc với 2 bộ môn triết học và tâm linh hay không, anh vẫn phải tìm cho mình một hệ thống nhân sinh quan nào đó để trực diện với hoàn cảnh mới, để đương đầu với mọi trắc trở truớc một cuộc sống tối đen đầy cạm bẫy. Do đó, thơ anh không còn đơn giản và thấm ướt mạch trữ ình lãng mạn nữa. Nó lột xác thành một loại thi ca có chiều sâu hun hút, choáng ngợp cái bí nhiệm của cuộc sống.
Khi giấc ngủ không còn mộng được
Trái trời xanh rụng trắng mặt đêm hoang
Tiếng trống vọng xôn xao vào ngõ ruột
Vỗ hồn khon thảng thốt gọi trăng tàn!
°
Cuối lưu vực sỏi chao dòng nghịch thủy
Vác nhục nhằn sông lặng xuống đa mang
Tay cõi thế nối mưa vào đọt nõn
Bởi kỳ dư gốc gác đẫm sương tan!
°
Tay vấy đậm những lần rơi rớt vụn
Người vô tư ngồi giữa mộng vô vàn
Miếng vinh nhục mấy khi mà lơ láo
Chút dây thòng sao thắt đủ nghiệt oan?
°
Tiếng trống chợ tưỏng đâu mùa tựu học
Cắt trầm luân chia đủ giọng rao hàng
Ông Tám hôm qua bà Ba bữa trước
Tắm rửa bao lần chưa tới được cao sang!
°
Chơi bản ruột sao đờn theo trật ý?
Rớt nhịp mơ hồ sao cất giọng lên ngang?
Bao tội vạ đổ lên đầu tội nghiệp
Nưc;u của chàng. Mẹ Nam là một phụ nữ có kiến thức, ham đọc sách, ưa suy nghĩ về vận nước thăng trầm điên đảo. Bà có 5 người con. Cô Hai đã bỏ mạng trong  kỳ Tổng Tấn Công  của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân. Cậu Ba  là một sĩ quan của ngành Cảnh Sát. Cậu Tư và cậu Năm theo phía bên kia, tập kết ra Bắc sau Hiệp Định Genève; cậu Năm chết dưới trận oanh tạc bom B 52 của Mỹ. Người con út của bà là  Trung úy Lê Quốc Nam.
Hiền là con của bà Ngởi và cũng là em củaVinh (bạn chí thân của Nam). Bà Ngởi là quả phụ trẻ đẹp của một sĩ quan cao cấp. Khi chồng qua đời vì viên đạn thù,  bà vẫn phây phây giao thiệp phóng túng để móc nối với các sĩ  quan cao cấp phe Quốc Gia, để lươn lẹo buôn bán vũ khí cho Việt Cộng. Còn Vinh là một sĩ quan phòng 1 ( phòng Quân Số) của Tiểu Khu. Vinh không hay biết một chút gì về việc làm tác tệ của mẹ. Nhưng Sử, sĩ quan Phòng Tình Báo Tiểu Khu, bạn chung của Nam và Vinh biết đã có lần cho Nam biết đuợc hành tung mờ ám của bà, 
Rồi ngày chung cuộc Miền Nam Việt Nam tới. Vinh và Nam phải đi học tập cải tạo. Sử không chịu đăng ký với ban Quân quản để đi học tập như mọi sĩ quan khác vì chàng thừa biết một sĩ quan ngành tình báo như mình là kẻ thù không đội trời chung của Cộng Sản; nếu chàng lọt vào tay chúng thì chàng chỉ có nước bị tù đày tới chết rụt xương. Sử móc nối với tên cán bộ trưởng công an tỉnh tên là Tư Thống. Tên này là chồng của người chị họ của Sử. Sử giúp hắn tổ chức các cuộc vượt biên cho bọn Hoa Kiều để nhận vàng của họ. Chẳng nhũng chàng được Tư Thống chia vàng mà còn cấp giấy chứng nhận chàng có công với cách mạng trước năm 1975.
Hiền một lòng chung thủy, đợi ngày Nam được phóng thích. Nhưng bà Ngởi vì muốn bảo vệ tài sản của mình nên giao du với Tư Thống. Bà bắt buộc nàng thành hôn với Bác sĩ  Việt Công tên Đức, con trai của  Tư Thống. Hiền phản đối mẹ và thường đến nhà mẹ của Nam để chăm sóc cho bà. Về riêng phần mẹ của Nam thì thằng Ba trưởng nam của bà cũng phải đi học tập cải tạo như Nam. Còn thằng Tư nhất định không giúp Nam được phóng thích. Hắn viện lý do em Năm của hắn bị chết vì bom oanh tạc của Mỹ, cậu út Nam đã làm tay sai cho Mỹ Ngụy thì Nam đắc tội với nhân dân, phải trả nợ máu cho nhân dân. Từ đó tình mẹ con giữa bà mẹ và thằng con bên kia hàng ngũ Quốc Gia coi như đoạn tuyệt.
Bà Ngởi và Hiền đi thăm nuôi Vinh. Bà tỏ ra lạnh nhạt với Nam. Riêng Hiền thì vẫn thiết tha gắn bó với Nam. Rồi Vinh đuợc phóng thích trước Nam vì mẹ của Vinh có công với cách mạng. Hỏi ra, Vinh mới biết việc làm tác tệ của bà Ngởi. Vinh nhục nhã và đau khổ vô cùng.
Khi Nam được phóng thích thì bà Ngởi đổi thái độ tỏ ra niềm nở với Nam và có đến thăm mẹ chàng. Sử rủ Vinh, Nam và Lan (một cựu nữ quân nhân ) cũng đã đi học tập cải tạo trở về cùng các bạn đồng chí khác lập một tổ chức kháng chiến chống bạo quyền Cộng Sản. Lan yêu Nam với mối tình đơn phương. Sử cũng yêu thầm thương trộm Lan nhưng không dám ngõ lời với Lan tâm sự bí ẩn của mình. Tổ chức kháng chiến của họ trước hết lập mưu giải vây Hà, một thành viên của tổ cùng vợ con Hà. Gia đình Hà bị bắt trong chuyến vượt biên và hiện giờ họ bị giam ở trạm kiểm soát Sóc Đồn. Cuộc giải vây thành công, chẳng những cứu thoát Hà và vợ con Hà mà còn giết vài tên địch. Nhưng Vinh phải thiệt mạng. Sử ra tay giúp Nam vượt biên để tránh hậu hoạn vì địch đang truy nã Nam gắt gao.
Nam vượt biên vào hải phận Mã Lai và tấp vào Pulau Kapas. Lính Mã Lai vơ vét tiền bạc và nữ trang của bạn đồng hành với chàng. Tại đây họ chờ ngày được đưa đến định cư tại Đệ tam quốc gia. Và cũng tại Pulau Kapas, Nam có quen một cự quân nhân tên Trạc vốn  người thẳng thừng ruột ngựa, nhưng rất sáng suốt trong lãnh vực tình hình thời cuộc và mọi biến chuyển tráo trở thuộc vấn đề chính trị đã và đang xảy ra trên đất nước. 
Mẹ Nam bệnh nặng, phải vào bệnh viện thì đã có Lan thăm nom chăm sóc. Bà qua đời thì được bà Ngởi và Hiền chôn cất tử tế. Sử giúp Hiền vượt biên. Trên chuyến hải trình, Hiền bị bọn hải tặc Thái Lan cưỡng hiếp tả tơi tới nỗi phải hôn mê bất tỉnh và may mắn được người Tây phương đi trực hăng bay ngang qua đó đưa đến bịnh xá dành cho người tị nạn ở trại Tanjung Unggat thuộc tỉnh Tanjung Pinang (Nam Dương).
Bà Ngởi bị chiếm nhà. Sau cái chết của Vinh, bà căm thù bọn Cộng Sản tận xương tủy nên không muốn tài sản của mình mà bao năm bà đã từng chắt chiu để rồi  lọt vào tay chúng. Bà phục rượu bọn chúng cho say rồi rưới xăng châm lửa đốt nhà và tự thiêu trong đám cháy.
Sử bị Tư Thống nghi ngờ về vụ Sóc Đồn. Sau cuộc tranh biện với tên anh rể, chàng trở về nhà thì bị bọn công an áo vàng sát hại. Trong cơn hấp hối, Sử đuợc Lan ôm trong tay. Chàng ngõ lời yêu Lan. Lan mới khám phá ra rằng sau khi Nam đi rồi, nàng cùng Sử hoạt động bên nhau, tấm can trường và sự thông minh quyền biến của Sử đã chinh phục trái tim của nàng. Nàng chỉ kịp bảo rằng nàng cũng yêu Sử thì Sử mỉm cười tắt nghĩ. Chàng chết trong niềm hạnh phúc cuối cùng.
Nam được định cư trên đất nước Hợp Chúng Quốc. Chàng vừa đi làm vừa đi học. Chàng gặp lại Trạc, người bạn tâm đầu mà chàng đã gặp gỡ tại Pulau Kapas. Chàng cũng có nhận thư của Lan báo tin mẹ chàng qua đời, nhận luôn lá thư của Hiền viết từ Nam Dương, trong đó Hiền kể rõ nguồn cơn chuyện tai nạn ô nhục của nàng. Chàng làm giấy bảo lãnh để Hiền qua Mỹ sum họp cùng chàng.
Hiền được tái ngộ cùng Nam, được sống những ngày hạnh phúc diễm ảo với chàng. Trong dịp từ  Tanjun Pinang qua Sinapour, để rồi sau cùng đến San Francisco, Hiền gặp Quỳnh, một cô bạn đường cùng đến định cư trên đất Mỹ. Cả hai mến nhau, để rồi sau này cả hai kết làm chị em với nhau. Quỳnh kết hôn với Dương, chủ thầu may quần áo, nên Hiền có việc làm để phụ giúp chồng trong việc chi tiêu.
Trong khi chờ đợi cùng Hiền sum họp, Nam và Trạc nghe được tin cựu Trung Tá An Ninh Quân Đội Lục Phương Ninh thành lập tổ chức kháng chiến với cái tên Lực Lượng  Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại (về sau đổi lại là Lực Lượng Quân Dân Việt Nam Hải Ngoại) có những khuông mặt ''vĩ đại'' quen thuộc như Đại Tá Phạm Văn Liễu, Đại Tá Trần Minh Công, Đề Dốc Hoàng Cơ Minh, Tướng Nguyễn Chánh Thi bên cạnh. Trạc và Nam đi San Diego dự lễ tuyên thệ và xin gia nhập vào lực lượng. Chưa chi mà đã có sự phân hóa trong hàng ngũ lực lượng. Lục Phương Ninh muốn theo cánh Trương Như Tảng, một tên đầu sỏ trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị đá đít ra hải ngoại, muốn tìm sự giúp đỡ của Trung Cộng. Bị Hoàng Cơ Minh phản đối,  Lục Phương Ninh ra quyết nghị khai trừ 6 tên đầu não: Phạm Văn Liễu, Trần Minh Cong, Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Chánh Thi, Lê Hồng, Lê Văn Trực.
Hoàng Cơ Minh cùng nhóm người bị Lục Phương Ninh sa thảy nhảy ra thành lập  Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam có Phạm Văn Liễu năm vai trò Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại, nhưng tiền bạc kiều bào yểm trợ thì lọt vào tay Hoàng Cơ Định, em ruột của Minh (tên nay giữ chức Vụ Truởng Vụ Tài Chánh kiêm chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Vụ Hải Ngoại).
Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam phát triển nhanh chóng làm rúng động kiều bào khắp bốn phương trời hải ngoại. Nhưng lần lần nó lộ bộ mặt hư ngụy  ra. Cuốn video Đồng Tiến trình chiếu cho kiều bào xem tại Nam California đã cho kiều bào nào có óc nhận xét tinh tế như Trạc và Nam thấy các hoạt động của kháng chiến là một sự dàn cảnh cẩu thả vụng về. Cái căn cứ kháng chiến không phải ở trong rừng núi Việt nam mà ở bên này phần đất Thái Lan. Các kháng chiến quân chỉ là người Thái hay người Lào. Tuy vậy mà đa số kiều bào vẫn tin là thật, vẫn tặng tiền yểm trợ xối xả. Từ đó, những ai mà lớn tiếng công kích cái dổm dang, dối láo của tổ chức mặt trận như ký giả Đạm Phong, vợ chồng Lê Triết, Hoài Điệp Tử, Cao Thế Dung đều bị ám sát. Chỉ có Cao Thế Dung không bị thiệt mạng mà thôi.
Trạc biết được cái lươn lẹo bất chánh của gia đình họ Hoàng Cơ. Nhưng Nam không tỏ thái độ bất tín nhiệm mặt trận một cách minh bạch và dứt khoát như Trạc. Nhân dịp cựu Trung Tá Lê Hồng với cái tên mới là tướng Đặng Quốc Hiền và với chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Võ Trang từ Thái Lan về Cali báo cáo tình trạng kháng chiến thì Nam đi dự cuộc diễn thuyết của tên Đặng Quốc Hiền kia và theo hắn vào chiến khu, sau khi điện thoại từ giã vợ. Hiền không biết chồng mình đi vào ngày nào. Nàng vẫn làm việc cho xưởng may của vợ chồng Dương, sống ấm áp trong gia đình bạn, theo dõi tin tức mặt trận cho tới lúc nó tan rã thanh bọt thành bèo, ghi vết nhơ nhuốc trên lịch sử định cư của kiều bào khắp bốn phương trời hải ngoại.
Hiền sinh được đứa con trai đặt tên là Lê Quốc Việt. Nàng nhận được lá thư nặc danh mà tác giả bức thư ấy xưng là bạn của Nam, báo tin Nam cùng Hoàng Cơ Minh đã tử trận trong chiến dịch Đồng Tiến II vào ngày 28/08/1987. Nàng nhờ Quỳnh điện thoại tới Văn PhòngTổng Vụ Hải Ngoại thì bên kia đầu dây điện thoại có người không chịu xưng tên và chức vụ của hắn trong mặt trận  cho biết rằng đó la cái tin vịt do Cộng Sản tung ra để phá rối mặt trận, rằng Nam vẫn khỏe mạnh, vẫn chiến đấu bên cạnh Hoàng Cơ Minh.
Hiền tuy ghét Hoàng Cơ Minh và mặt trận của hắn, nhưng vẫn tin Nam vẫn còn sống. Nàng chiều chiều ra bờ biển để ôn lại những ngày sống hạnh phúc bên Nam và kiên quyết đợi chàng trở về sum họp với nàng.
Cái thọ mạng của kế hoạch bòn tiền của kiều bào qua danh xưng Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do bè lũ Hoàng Cơ Minh chủ trương đã kết thúc như sau:
Thế rồi sau ngày ký Quyết Định cách chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại Phạm Văn Liễu, chỉ mười tám ngày sau, taacute;i bí nhiệm kỳ đặc hơn, tạo cho anh một loại thi ca làm bàng hoàng người đọc.
Bài thơ Nước Đen’vẫn nằm trong đề tài nói về cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Nhưng ở trường hợp này, nó không phải chỉ là bức tranh xã hội để tác giả triển lãm cho độc giả ưa thích thơ văn hiện thực hay thơ văn tân hiện thực thưởng ngoạn mà là để cho những ai thích tìm về những cái siêu hình trong cuộc sống, trong mọi cá thể của thế nhân. Anh đưa bức tranh xã hội vượt cao hơn thơ của trường phái hiện thực hay trường phái tân hiện thực nhiều cung bậc. Xin đọc:
Có loài cỏ còn cao hơn cỏ dại
Nhánh chìa tay đơm những giọt sưong tan
Chao ngọn gió thổi ngang bình địa mộng
Dắt hồn lên đường ngược cõi điêu tàn!
°
Nên bất chợt lãnh nguyên đòn trái trắc
Đời chơi khăm hay đời vẫn ngược ngang
Người keo kiết trách than người biển lận
Vớt trăng tàn soi lại ngõ đêm hoang...
°
Nên tự tiện kề môi lên khóe mộng
Hôn phù du níu vội bóng mây ngàn
Mưa gõ lá lại nghe chừng long óc
Rỗ mặt đời xanh ngọn gió cường toan!
°
Bao đói lạnh cứ mong kỳ ngộ lúa
Hột trời cho thành mộng ước cao sang
Đem bán rẻ tuổi vàng cho kẻ chợ
Rồi hồn nhiên ăn uống bữa đàng hoàng:
°
Từ vực kiếp vang vang lời phẩn nộ
Suối hồn đơn cuồn cuộn nước đen tràn...
(trang 128)
Bài thơ Giấc Lúa’phơi bày vài nét khái quát cảnh thiếu thốn của những kẻ ở thôn quê, nhưng nếu ta xếp nó vào loại thơ hiện thực thì không mấy xứng cái tài sáng tạo ngôn ngữ vừa mới mẻ vừa truyền cảm của Phương Triều. Đọc xong bài thơ này, chúng ta có thể nhìn sâu vào cảnh ngộ, vào thân phận con người hơn loại thơ hiện thực:
Thêm nhưn nặng chỗ tay bồi
Hột muối tiện dịp đắng đời khổ qua
Đắng dùm cho ngọt xót xa
Miếng cơm đất lạnh đắng ra miệng người!
°
Thêm vui trên miệng thiếu cười
Trẻ thơ bú mớm nửa vời rụng răng!
Hạ về dắt gió xua trăng
Miếng bánh không tuởng cũng bằng không ngơ!
°
Thêm mơ vào mộng vật vờ
Ngủ quên giấc lúa sân chờ thóc xưa
Tay chiều chải mượt tóc mưa
Trán sơn thủy ướt chỗ vừa rát đau!
°
Se chung gốc ngọn hồi nào
Tơ duyên rời rã dính nhau chỗ buồn!
(trang 54)
Bài thơ Bóng Tối’cũng phơi bày sơ sơ cảnh nghèo, cảnh lọc lừa gian trá, cảnh đổi thay ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông’mà tác giả vừa làm chứng nhân vừa lặn hụp sống trong đó. Chính những cảnh đau thương như vậy chẳng những tạo cho anh lối thơ hiẹn thực có tầm vóc mà còn đẩy nếp tư duy anh đi xa hơn, vào một khung trời tư tưởng để nguời đọc có dịp chia sẻ với anh:
Đêm ru đường chia nhau bóng tối
Không chắc gì... no đói bữa sau!
Người tất tả đi để không còn ngồi lại
Thêm bước lạc loài đâu vội có nhau!
°
Thân trúc chẻ ra làm cây tăm nhỏ
Manh áo thời danh mưa gió cũ nhàu
Vệt máu mênh mông chảy từ vết bụi
Hồn bút vật vờ rỏ mực thương đau!
°
Kẻ sĩ xuôi tay kê đầu lên sóng
Mẹ trùng dương về rửa mộng hư hao
Đứa trẻ năm xưa mặt mày non nớt
Giờ nhăn nheo cằn cỗi giống quân nào!
°
Treo bảng phấn bán rao đồ giả hiệu
Thiếu viện mồ côi thơ ấu bôn đào
Lão pháp sư buồn sửa câu thần chú
Lờn mặt từ trong tiếng gọi mày tao!
°
Ngưòi xếp ga chiều đón thêm tàu chợ
Thiên hạ âm thầm bán rẻ đời nhau
Két học đôi ngày thành danh hốt bạc
Chúa chổm quay về vay nợ ăn khao!
°
Khói cay rộ niềm đau của củi
Tre già khô che ngọn bích đào
c là ngày 29 tháng 12 năm 1984, ngày Đại Hội toàn bộ đoàn viên của Mặt Trận do Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công triệu tập tại Santa Ana, trình bày về quỹ kháng chiến cho các đoàn viên. Sau phiên họp, coi như Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam tan vỡ, lòng nhiệt thành của các đoàn viên, những đứa con yêu của tổ quốc tan vỡ, giấc mơ nhìn thấy một nước Việt Nam tự do, hạnh phúc, thoát đuợc tai ách cộng sản của người Việt tị nạn tan vỡ, giấc mơ của những bà mẹ già được nằm xuống trên mảnh đất quê hương yêu quý ngàn đời tan vỡ, chỉ riêng tiền quỹ kháng chiến đã bỏ vào túi gia đình họ Hoàng Cơ còn nguyên. Người thắng lớn trong trận đánh nầy là Phan Vụ Quang tức  Hoàng Cơ Định, em ruột Hoàng Cơ Minh. Người vô tình hay cố ý đã làm lợi cho Việt cộng  trong việc phá vỡ Mặt Trận là Nguyễn Xuân Nghĩa. Lòng tin của người Việt tị nạn cộng sản, thêm một lần nữa bị Mặt Trận Hoàng Cơ Minh bị chà đạp tan tành.
(trang 772)
Nguyễn Xuân Nghĩa là cháu của tên Mười Cúc, tức là Nguyễn Văn Linh. Tên Linh này là Tổng bí thư của đảng Cộng Sản. Dưới chánh thể Đệ nhị Cộng Hòa, Nghĩa đã từng làm phụ tá cho Tổng truởng kinh tế ngân hàng. Sau ngày miền Nam lọt vào tay bọn Cộng Sản miền Bắc, Nghĩa không đi học tập cải tạo. Y ta cho mọi người quen biết rằng bọn Cộng Sản muốn khai thác kiến thức về ngân hàng của y ta nên tạm dùng y ta, tha cho y ta cảnh tù tội. Trong mặt trận của bè lũ Hoàng Cơ Minh, Nghĩa đứng vào hàng thứ ba.
°
°
Ác Mộng Đêm Dài là một tác phẩm lớn cũng như quyển trường giang Chuyển Mùa  của nữ sĩ Trương Anh Thụy. Tiếc thay, tác giả không có đội kèn trống quân nhạc để khua chiêng gióng trống ầm ỉ trong chièn dịch quảng cáo nên nó cam phận mặc áo gấm đi đêm. Vả lại, nó chào đời trong giai đoạn suy thoái của nền văn chương hải ngoại nên nó chịu số phận hẩm hiu, bị rẻ rúng của lớp độc giả quen coi phim tập Hồng Kông và phim tập Đại Han hoặc các chương trình ca nhạc Paris By Night, Asia, Vân Sơn v.v... Nhưng với thức giả thì khác. Nó sẽ mãi mãi là một pho phương cảo để họ suy nghiệm cái sân khấu chính trị do phường hám lợi ở Hoa Kỳ dựng nên.
Về kỹ thuật dựng truyện, Anh Vân tỏ ra khéo léo trong việc dàn xếp mọi chi tiết để tác phẩm có một bố cục chặt chẽ. Mọi tình tiết được xỏ khoen vào nhau một cách tinh tế như những khoen của sợi dây lòi tói (sợi xích sắt). Mọi diễn biến tuần tự được trình bày một cách trơn tru óng ả như dòng mật rót vào chén sứ mỏng tanh, dù đôi lúc có xen vài đoạn hồi ức đi nữa. Độc giả có thể lao từ trang đầu tới trang cuối thoăn thoắt như con thoi mà không cảm thấy mệt nhọc vì đầu óc họ khỏi phải đánh đô vật với chữ nghĩa. Nhưng thật ra, để có được mạch diễn tả dễ gây thống khoái cho người đọc như thế, tác giả phải ra tay chăm sóc từng cách sắp xếp mọi chi tiết một cách tỉ mẩn chi ly. Anh làm cho chúng ta nghĩ đến người chơi hoa lan sành điệu như bà Thục Nhân, một cung tần của Hoàng Đế  Minh Mạng.  Chẳng những bà chăm bón, tỉa đẹp cho khóm lá mà còn dùng bút cọ mềm mại để phủi bụi bám trong lòng đóa hoa. Lại nữa bút pháp của anh đơn giản và trong sáng như nước sông thu chiếu lấp lánh ánh nắng. Sự diễn tả của anh dạt dào tình cảm mà không ướt sũng cảm tính đến mức cường điệu và thái thậm. Cái đơn giản, cái trong suốt, cái điềm đạm của anh trong văn phong làm chúng ta nghĩ đến văn chương của Thạch Lam trong các tập truyện Gió Đầu Mùa, Nắng Trong Vườn  vào thuở tiền chiến, hoặc văn chương của Nguyễn Thị Vinh trong truyện dài Thuơng Yêu, Cô Mai, Nổi Sóng, Vết Chàm trước năm 1975  hay văn chương của Trương Anh Thụy trong bộ trường giang tiểu thuyết (le roman fleuve) Chuyển Mùa  vào tân niên kỷ ở hải ngoại.
Quyển Ác Mộng Đêm Dài  đầy ăm ắp những biến cố, những chất liệu cần thiết để xây dựng nên một giai đoạn lịch sử máu xương trong văn chương. Tác giả không dùng một nhúm gạo nhỏ để nấu một nồi cháo to. Anh viết quyển Ác Mộng Đêm Dài như làm một cái bánh bao với nhân to bột mỏng, rất ngon miệng. Thường những kẻ có vốn sống ít oi, một khi cầm bút viết văn thường kể lể chuyện dạy đời xoàng xĩnh chẳng có chút giá trị gì cho nhu cầu kiến thức của độc giả. Hoặc gặp những tay khéo léo hơn là độc giả mệt ngất ngư truớc lối diễn tả cảm xúc theo kiểu một anh thợ chạm điêu khắc khúc gỗ bé tí những hình thù vô vị vô duyên. Cho nên muốn đưa hết những vận hành của thời cuộc, những khúc quanh của lịch sử vào tác phẩm, tác giả hy sinh một phần cách dựng hoạt cảnh (tả người, tả vật, tả tâm trạng nhân vật ). Anh nghiêng về thuyết thoại (la narration) hơn. Tuy nhiên, anh vẫn không quên công việc miêu tả, dù đôi lúc chỉ  bằng vài nét phác thảo, vài nét khái quát, Nhưng những đoạn ấy được  diễn tả bằng lối văn đôn hậu, thuần phác và ngập tràn sinh lực như cây dừa tơ, khóm chuối xanh tươi đang sức lớn nên dễ khắc ghi vào cảm quan lẫn ấn tượng độc giảigrave; đã gảy cánh nên gáy không ra tiéng. Sự tuơng lân tương ái nẩy sinh giữa người và con côn trùng trong đêm mưa gió. Hoàn cảnh bi đát có thể nối liền qua sự giao cảm tuyệt vời của cả hai chỉ có một nhân chứng tuyệt vời duy nhất như Phương Triều mới hiểu thấu bằng trực giác thần diệu. Trực giấy ấy hóa thân thành bài Đốm Sương’’:
Ông lão đờn cò cười khô miệng móm
Chiếc răng cuối cùng dính bọt cháo hoa
Hột muối mặn xé buồn trong ruột lạnh
Ông lão bâng khuâng ngồi nhớ lão bà!
°
Nấm mộ sần sùi trên vồng đất lở
Con dế thẩn thờ gặm đốm sương sa
Đôi cánh tật nguyền gáy không thành tiếng
Từng đêm thao thức như đôi bạn già!
°
Ông lão sững nhìn đôi tay tĩnh vật
Sợi dây đờn xưa giờ ở đâu xa
Âm hưỏng mơ hồ điệu ru của gió
Từ trong mịt mờ vọng tiếng mưa qua...
°
Sấm nối đuôi về gầm rung lều cỏ
Thân vẫn như người hay đã tiêu ma
Tấm thân từ đất còn nhiều nợ đất
Tay đất ôm người lẩn lộn thịt da!
°
Đôi bạn già chơi trò câm lặng
Đất vặn mình đau bao nỗi ruột rà
Cây lá lộn hồn từ phương thất thổ
Mưa lại chợt về cho cỏ đơm hoa!...
(trang 30)
Hoàn cảnh giữa lão già và tác giả Phương Triều vốn khác biệt nhau. Nhưng một kẻ hay nhìn sâu vào những thân phận cô đơn của tha nhân, nên tác giả nhiều lúc cảm thấy mình cũng khốn khổ cô đơn vì tưởng chừng mình mất một số điểm tựa tinh thần nào đó. Những lúc ấy, trong tâm tưởng, anh cũng cảm thấy mình hóa thân thành lão già.
Theo thói thường của những kẻ cô đơn khốn khổ thường mượn men rượu giải sầu. Phương Triều thì mượn men rượu để thắt chặt tình bạn đồng nghiệp trong giới làng văn trận bút. Thét rồi anh đâm ra nghiện. Cái hậu quả của men say vẫn có khía cạnh tiêu cực lẫn tích cực. Men rượu đưa người vào cơn nghiện trầm kha để phá hỏng cuộc đời họ. Nhưng men rượu cũng có thể giúp cho các nghệ sĩ biết bao cảm hứng lai láng và phồn thịnh. Thuở truớc, thi hào Omar Khayyam xứ Ba-tư và thi hào Lý Bạch xứ Trung Hoa há không phải thuộc hạng túy tửu phiên vương hay sao? Văn hào Francis Scott Fitzgerald há không phải là ông thần ve chai cự phách hay sao? Các nhà văn Việt Nam nổi tiếng như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Thanh Nam cùng nhạc sĩ Phạm Đình Chương há không phải là nhưng tên tuổi sáng chói trên văn đàn nhạc giới hay sao? Riêng ở trường hợp Trần Tuấn Kiệt và Phương Triều, rượu dìu họ vào một thế giới thi ca lạ lẫm và bí nhiệm mà ít có nhà thơ nào can đảm lẫn kiên nhẫn ghé mắt tới
Người ngủ đêm vàng trên sóng rượu
Không thấy ngày thức vội hôm sau
Ngàn cân rót nhẹ ly hồ hải
Buồn vạn lần đổi một vui sao?
°
Gối đá nằm co say tĩnh vật
Nhà hoang tưởng dậy bước chiêm bao
Nắng khô lá nõn màu vàng đọt
Biển dội tràn sông ngọn sóng nào?
°
Khép đôi tay ấm vào chân lạnh
Chút nhiệt tình dư ủ hụt hao
Tiếng mộng vo ve từng huyễn hoặc
Xương tàn cốt rụi cỏ xanh xao!
°
Dạo chơi vào ngõ hồn hiu quạnh
Thây chữ nằm co lại dáng đau
Thơ như vần điệu tuôn nhầm chỗ
Nên vận vui buồn xiên xỏ nhau!
°
Đất trú chiều dâng chân gió bão
Ngựa qua cầu nhỏ nắng lao xao
Môi lạt thèm thơm hơi lục bát
Vần đau ghép vội nỗi đau nào?
(Đất Trú, các trang 110, 111)
°
° °
Các bạn độc giả thân mến, nhà thơ Phương Triều của chúng ta dù mê say dong ruỗi trên những ngã rẽ hào hứng của thi ca, nhưng anh không bao giờ quên các bạn, quên cái tuổi trẻ mộng mơ của chúng ta, không quên luôn thời kỳ tình tự yêu đương khi tóc anh còn xanh mướt, khi mắt anh vẫn long lanh sáng với ý tình khi một bóng ý trung nhân đang đi sâu ào khắp ngỏ ngách của trái tim anh. Do đó, những bài thơ lãng mạn mới có dịp hồi sinh trong quyển thi tập chuyên chở quá nhiều tư tưởng như thi tập Xuơng Rồng Đen’này. Nhưng anh kiến thiết ngôn ngữ tình yêu trong thơ. Mỗi bài thơ vẫn có như câu và những chữ lẩm cẩm rất thơ, xen vào đó là những câu có ngôn ngữ tân kỳ. Những câu, những chữ lẩm cẩm ấy biểu dương nồng độ yêu đượng thật đậm đà, thật thắm thiết. Trong cơn yêu dấu, ai đó nói những câu quá tỉnh táo, những câu sáng suốt thì ý tình sẽ nguội lạnh và loãng nhạt đi.
Một lần đi tưởng đi luôn
Vừa qua gặp mặt lại tuồng như quên!
°
Tưởng rằng được vậy đã hên
Dè đâu bởi vậy cho nên mới buồn!
Dẫu gì cũng lỡ nhớ thương
Dẫu rằng lỡ vậy, vậy luôn mới buồn!
°
Bột về thắc mắc hỏi khuôn
Sao trên mặt bột rải đường khác nhau?
(trang 4)
Cái thời thơ mộng và hiền như mực tím’(nói theo Nhã Ca) là thời cắp sách đến trường, vào ngưỡng cửa tuổi hoa niên. Những mối tình học trò lấy bối cảnh sân trường lớp học, bảng phấn tường vôi đã được nhiều nhà thơ từ tiến chiến tới nay khai thác bấy bầy rồi. Bây giờ vẫn có Vũ Thi An tiếp tục viết những vần thơ tình học trò qua hai thi tập Tình Quê Tình Thơ’và Cuối Đường Hạnh Phúc. Thường là những bài thơ rất... học trò, nếu không săn tìm được những hình ảnh độc đáo, những tứ hơ kỳ đặc, và nếu không canh tân ngôn ngữ cho thơ thì nên đưa những bài thơ ấy vào quyển nhật ký hay quyển lưu bút mới thích hợp hơn. PhươngTriều dù đã gần tuổi thất tuần, nhưng anh không dị ứng với loại thơ thời mơ tuổi mộng, không ngại quay về dĩ vãng để khơi lại nguồn thơ đầu mùa của mình.
Mưa về cho nắng hạ trong
Cho thắm phượng hồng đỏ sắc môi em!
Góc ngồi tay múa que kem
Nhìn ra mộng mị đời lem luốc buồn!
°
Điệu ve nhịp guốc sân trường
Mực xanh lưu bút dễ thương chừng nào?
Ngõ đời sóng chợt lao xao
Bạn từ hôm đó lạc nhau lần hồi...
°
Trăng nào thắp đuốc tuổi tôi
Nhởn nhơ đom đóm ngồi chơi khắp vườn
Se lòng nhăn gió nhủ sương
Ngóng em chừng đỗi dễ thường nguôi ngoai!
°
Mưa dầm không ướt kẽ tay
Còn chen chân chỗ khô ngoài ướt trong!...
(trang 20)
Để mai lỗi hẹn thành ra mốt
Ta lạc nhau từ hẹn bữa qua
Người đi như thể không về kịp
Mà kịp về không kịp cách xa!
°
Xô nhau thức giữa ngày Thu ngủ
Một chút trăng non bỗng sáng lòa
Người đưa tay hứng sương Thu tới
Mà tưởng chưa hề Hạ chớm hoa!
°
Nên chi phượng cũ không về nữa
Trường lớp mưa giăng bóng nhạt nhòa
Tiếng trống trường xưa dồn tĩnh mịch
Nghiên sầu bút lạnh giữa phôi pha...
(Lỡ Hẹn, trang 26)
Những bài thơ tình của Phương Triều chẳng những có vóc dáng riêng biệt mà còn có ý tình đặc thù. Loại thơ này không mặc đồng phục với các bài thơ tình yêu của kẻ khác. Thuần chất sáng tạo là đây!
Những kẻ có tình yêu đơn phương hay trong tình yêu nhạt nhẽo thường tra vấn cái nguyên do tình cảm của mình lẫn của người đối tượng. Họ còn thắc mắc hoàn cảnh nào mà cái cung không đáp ứng trọn vẹn cái cầu, cái hệ lụy nào khiến cho hạnh phúc dậm chân tại chỗ hay cất cánh bay đi. Nói theo Xuân Diệu là: Cho rất nhiều song nhẫn chẳng bao nhiêu/ Nguời ta phụ hay thờ ơ chẳng biết. Các đương sự cứ hỏi lung tung, cứ thắc mắc liên tu bất tận, nhưng rồi ra vẫn ở trong ngõ bí, trong mê cung hoặc trong bát quái đồ hình.
Yêu lâu rồi mà như chưa yêu
Cho bao nhiêu mà như chưa nhiều
Lấy ra đếm lại rồi đem cất
Nên bấy nhiêu thành chẳng được nhiêu!
°
Dẫu cho thí tỉ mà như vậy
Thì cứ yêu dầu chẳng được yêu
Dẫu gì cũng chẳng buồn cho lắm
Thì chút buồn kia chẳng đáng nhiêu!
°
Hết yêu đâu lẽ còn yêu được
Dẫu có yêu hoài cũng bấy nhiêu!
Dẫu rằng đã vậy thì thôi vậy
Mà chút yêu thôi cũng lụy nhiều!
°
Hỏi rằng tới tuổi bao nhiêu
Thì quên được hết những điều chưa quên!...
(Nhiêu, trang 78)
Tác giả cứ o bế ngôn ngữ lẩm cẩm dễ thương của một kẻ chưa có kinh nghiêm sâu sắc và dồi dào trong tình yêu. Điều này rất dễ làm mủi lòng người đọc. Và hình như bởi lẽ đó mà anh hơi lãnh đạm với ngôn ngữ của thơ. Bài thơ thiếu nét tạo hình, thiếu cảnh vật lót nền cho bài thơ. Ngôn ngữ thơ ít quá! Nhưng ở bài Dư’tác giả chuộc lại điều sơ sót của mình bắng cách nâng thơ tình yêu lên vài cung bậc cao, đưa thơ vào cái bí nhiệm, cái thắc mắc siêu hình. Xin đọc:
Em thiệt tình quên không thể nhớ
Mà ta tình thiệt lại không quên!
Dẫu cho chỉ một lần không nhớ
Mà ngỡ mình thành thương nhớ thêm!
°
Ghé qua gặp lúc không còn gặp
Chút nghĩa tình thôi chắc chẳng bền
Ta thiệt tình cho nên mất thiệt
Chút tình đâu đủ nghĩa nhân duyên!
°
Cứ như điệp khúc đời đơn điệu
Người dắt nhau vào cuộc ngửa nghiêng
Tới đêm lẩn lút về thăm mộng
Chợt thấy tiền thân rời căn nguyên!
°
Biển đi còn vết sầu trên cát
Chân dã tràng chao bóng đảo điên
Hồn ủ vào miên trường tĩnh vật
Tay một đời dư chỗ tật nguyền!
(trang 140)
°
° °
Trong nghệ thuật thi ca, Phương Triều lột xác từ từ, chậm chạp. Nhưng những bước chân thẳng tiến trên lộ trình bằng phẳng hay những bước đăng sơn của anh thật vững chắc. So với thi tập Thơ Phương Triều’gồm những bài thơ cảm hoài, thơ hiện thực, rồi thì tới thi tập Xóm Mộ, anh bắt đầu chổi dậy để hưởng ứng những loại thơ viễn thâm tình ý, loại thơ khám phá cái bí nhiệm của cuộc đời. Những bài thơ trong 2 thi tập áp chót (Xóm Mộ’và Giọt Sữa Đất) bắt đầu sửa soạn một cuộc hóa thân ngoạn mục nên có tầm vóc khả quan. Như thế, tập thơ Giọt Sữa Đất ’như vầng chiêu dương đỏ ối trồi lên góc biển phương Đông, nhuộm hồng chân mây, còn thi tập Xương Rồng Đen’như mặt trời vừa leo lên đỉnh ngọ, tỏa sáng khắp sum la vạn tượng.

Truyện Quê Nam Một Cõi Chương Một Chương Hai Chương Ba Chương Bốn Chương Năm Chương Sáu Chương Bảy Chương Tám irc;ng bị giảm sút tinh thần văn chương đúng nghĩa.
Những người có đầu óc tôn thờ lý tưởng thường là những kẻ nhiệt tâm nhiệt huyết; nhưng bầu  nhiệt huyết nhiều khi che mờ óc phán đoán của họ. Cho nên họ thường bị kẻ gian tà lợi dụng hoặc bị đưa  vào cạm bẫy của chúng.
Nhìn Nam cắm cúi làm việc, Hiền thấy Nam là một con người nhiều nghị lực. Duờng như trong mỗi con nguời có những thao thức riêng tư được ấp ủ và giấu kín dưới gương mặt bình thản như lòng ham muốn giàu sang, danh vọng, địa vi, khát vọng tình yêu hoặc đeo đuổi theo một lý tưởng nào đó. Trong tình yêu, Hiền biết rõ Nam là kẻ đam mê. Trong những lần làm tình với nàng, Nam như một ngọn lửa đốt cháy nàng, như muốn lột da nàng để nhìn rõ tường tận trong cõi sâu thẳm của nàng. Ngoài ra Nam còn  ấp ủ một hoài bão là được góp công và nhìn thấy quê hương an bình, trong đó đồng bào anh được sống hạnh phúc. Với Nam, dưòng như tiền tài không quyến rũ được anh. Nam say sưa viết lách, dàn trải tâm tình, ước vọng của anh lên trang giấy. Anh kết tội chủ nghĩa cộng sản đã làm kiệt quệ đất nước, đã vắt cạn sinh lực và tinh hoa của người dân, làm thui chột mấy thế hệ tuổi thơ. Nam viết say sưa, viết bằng tất cả sự rung cảm chân thành và tấm lòng yêu nước của anh. Đọc Nam, Hiền cảm nhận được hết những điều đó.
(các trang 702, 703)
Trạc nhận định Nam cũng qua một khía cạnh  bao dung khoan hồng,  không gán cho Nam cái tật cuồng tín:
Nhìn khuôn mặt trầm ngâm của Nam, Trạc thở dài. Anh hiểu Nam lắm. Nam, bạn anh, con sư tử lãng mạn đâu chịu nằm yên trong cũi. Anh đâu còn lạ gì về đức tính hy sinh của Nam, khó ai bì kịp. Bỏ nước, bỏ mẹ già ra đi trong nhục nhã, cái chết của Vinh, của Sử, những ngày tháng đen tối trong tù, cảnh nô lệ của người dân vẫn còn là một vết thương rướm máu trong lòng Nam. Mối hận này chưa rửa được, Nam sẽ sống những ngày khắc khoải không yên; nhưng về chiến khu trong lúc nầy, theo Trạc nghĩ là một hành động vội vã, thiếu cân nhắc. Một tổ chức đấu tranh mà hầu hết anh em gia đình ho Hoàng đều giữ chức vụ quan trọng, trong đó tiền bạc giao trọn cho Hoàng Cơ Định, một tay tham nhũng khi còn giữ chức Giám Đốc trường Cao Đẳng Hóa Học ở Việt Nam. Sau đó bị đưa ra Giám Sát Viện xét xử và bị cách chức. Hoàng Cơ Định đi đến đâu cũng thúc giục các trưởng cơ sở phải tận dung khả năng quyên tiền đồng bào bằng mọi cách.
(trang 738)
Việc bỏ chốn định cư để vào chiến khu của Nam phải có thêm một động cơ nào khác nữa thôi thúc, chớ không phải chỉ vì yêu nước bồng bột. Cái đó, tác giả Anh Vân không nói ra, độc giả cũng không đoán ra. Nhưng cái bí ẩn vẫn thấp thoáng sau lưng sự việc mà tác giả cùng Hiền và Trạc đã trình bày. Cái chết của Nam lại càng kỳ bí hơn. Chuyến ra đi cùng cái chung cuộc thê thảm của chàng bị gói trọn trong lớp màn tối đen huyền bí. Lịch sử trong vòng 10 năm hay 20 năm có thể sẽ trả lời chúng ta đâu là sự thật hay một bóng dáng hoặc một khía cạnh của sự thật. Nhưng Nam thì vẫn là một cái bóng thấp thấp trong huyền sử mờ mờ nhân ảnh từ khi chàng sửa soạn vào khu chiến cho tới cái chết của Hoàng Cơ Minh đã bị tiết lộ. Vè phương diện nghệ thuật, Nam làm cho chúng ta nghĩ ngợi nhiều hơn các nhân vật khác. Chàng hiển thánh trong ánh sáng nghệ thuật trong khi tông tích về sau của chàng trở thành bóng chim tăm cá giữa cái thế giớ u hiển mập mờ.
°
°
Những nhân vật phản diện như Tư Thống và một vài tên quản giáo trong Ác Mộng Đêm Dài  xuất hiện trên diễn tiến quyển sách quá ít. Còn những nhân vật trong mặt trận kháng chiến ma của bọn Hoàng Cơ Minh chỉ được xuất hiện trong lời tường thuật của tác giả qua đống tài liệu đăng rải rác  trên các sách báo ở hải ngoại mà anh thu thập được Trái lại, bên cạnh Nam hoặc bên cạnh hay chung quanh Hiền, nhân vật chính diện  xuất hiện nườm nượp. Xin được lần lượt kê khai:
° Vinh là con một viên sĩ quan cao cấp chỉ biết ăn chơi và một người đàn bà phóng đảng hám lợi. Chàng yêu nước với tấm lòng ngay dạ thẳng và niềm son sắt thiết tha như tấm lòng dũng tưóng Triệu Tử Long thờ chúa của mình là Tây Thục Tiên Chúa Lưu Huyền Đức ( tức là Lưu Bị ). Chàng đau khổ và cảm thấy nhục nhã khi biết mẹ buôn lậu vũ khí cho địch. Và chàng còn ân hận sao mình trước kia với tinh thần yêu nước cao độ mà không đi tác chiến mà lại chịu làm việc Phòng 1 của Tiểu Khu Bặc Liêu. Cho nên muốn chuộc lại lỗi lầm của mẹ và sự chọn lựa cầu an của mình, dù không có kinh nghiệm về chiến trường mà chàng vẫn tham gia vào tổ chức kháng chiến do Sử và các bạn đồng tâm chung hướng của chàng tổ chức. Chàng hy sinh cản địch vào hôm tấn công căn cứ Sóc Đồn nên phải bỏ mạng.
Trại tù vắng vẻ đến lạnh lẽo, chỉ một mình Vinh và một anh tù binh đang đau nằm ở cuối trại. Vinh nằm dài xuống chiếu hút thuốc, nghĩ vẩn vơ, chờ đợi tới giờ lên ban giảng huấn. Vinh rùng mình. Trời nầy mà ngâm mình dưới nước, móc đất là một khổ hình. Cuộc chiến nầy đã mang đến những gì tốt đẹp, chưa thấy, chỉ thấy toàn quân dân mình Nam đang trả một cái giá quá đắt.Vinh nuối tiếc những ngày tháng cũ và có cảm tưởng những gì tốt đẹp đã đổ nát, hoang tàn trong tim anh. Vinh thấy phục Nam. Nam đã sống hết mình với cuộc đời, hi sinh và chịu đựng gian khổ ngoài chiến trường một cách can đảm và bây giờ Nam chấp nhận một cách thản nhiên kiếp sống đọa đày của một tù binh. Vinh biết, Nam đã hết sức cố gắng luyện tập yoga hằng đêm để giữ vững tinh thần, không tỏ ra hèn yếu trước kẻ thù. Không bao giờ Vinh nhìn thấy Nam khúm núm trước mặt những tên bộ đội hay cán bộ giảng huấn như một vài tù binh khác. Anh phục thái độ sống của Nam, muốn được như Nam. Anh thèm khát được cầm súng chiến đấu nhưng tất cả đã muộn màng.
(các trang 213, 214)
°Sử khi còn làm việc ở Phòng Tình Báo Tiểu Khu là một kẻ mặt sắt, một hung thần với bọn địch trà trộn vào dân chúng hay địch nằm vùng. Chàng thâm trầm nhiều mưu mẹo và có óc quyền biến tinh nhuệ. Nhưng chàng không phải là hạng người dùng cái lợi khí thiên bẩm của mình để kiếm tư lợi hay để phụng sự cho cái Ác, cho bạo quyền. Chàng là một kẻ ái quốc chân chính. Cái tổ kháng chiến của chàng do chàng coi sóc mọi việc quan trọng đòi hỏi sự thông tuệ lẫn kiến thức. Chính việc tấn công Sóc Đồn do chàng đặt kế hoạch và chỉ huy. Giúp Nam và Hiền vượt biên cũng do chàng chớ do ai? Chàng yêu thầm kín Lan  mà không dám thố lộ, để tới phút lâm chung mới bày tỏ nỗi lòng với Lan. Chàng tuy là vai phụ trong Ác Mộng Đêm Dài, nhưng chói sáng có phần hơn Nam.
... Âm thầm yêu Lan nhưng Sử không chịu ngỏ lời. Anh biết tỏ tình trong lúc tâm hồn Lan đầy ắp hình ảnh Nam, chỉ chuốc lấy sự bẽ bàng. Tỏ tình không đúng lúc, anh sẽ mất Lan vĩnh viễn vì tình yêu không thể ngỏ lần thứ hai. Sử biết Nam có những điều hơn hẳn anh. Nam có dáng dấp cao ráo, guơng mặt dễ nhìn và nhất là Nam lúc nào cũng dịu dàng và tỏ ra săn sóc đàn bà. Những yếu tố đó anh không thể có được. Bây giờ Nam bỏ đi, Sử định một thời gian sau khi tình cảm của Lan dành cho Nam nhạt dần, anh sẽ tỏ tình cùng Lan và hi vọng sẽ thành công.
(trang 495)
Nắng hôm  nay như vàng hơn, rực rỡ hơn. Cuộc đời bỗng dưng rực rỡ dưới mắt Sử.  Từ ngày Nam bỏ đi cho tới giờ, Sử mất đi một cánh tay đắc lực, gánh nặng của tổ chức sẽ đè nặng hơn trên vai Sử. Tất cả vấn đề quan trọng Sử chỉ biết thảo luận với Lan. Hoạt động bên nhau, cùng gánh vác một việc và cùng chia sẻ hiểm nguy với nhau, tình cảm giữa anh và Lan càng ngày càng khắn khít.
(trang 496)
° Nhân vật Trạc, một nhân vật xương sống, một chứng nhân sáng suốt trong tác phẩm Ác Mộng Đêm Dài. Khi Lục Phưong Ninh đuổi bọn Hoàng Cơ, Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công ra khỏi Lực Lượng Quân Dân Việt Nam hải ngoại, anh có nhận xét như sau:
Trạc thở dài, một lúc rồi nối tiếp:
-- Nghe nói tổ chức đang rạn nứt. Lục Phương Ninh theo Đinh Thạch Bích, sắp
kéo lực lượng ủng hộ Trương Như Tảng, tìm sự yểm trợ của Trung Cộng. Cánh thứ hai gồm có Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công. Mẹ! Chưa làm việc gì đã chia năm xẻ bảy. Nóng lòng nhập cuộc rồi mình chỉ làm viên gạch lót đường cho tham vọng của họ.
Nam nhìn Trạc một giây, anh thấy trong mắt người bạn thân một chút bơ vơ, lạc lỏng. Nam biết trái tim Trạc bắt đầu nguội lạnh. Một con người giàu nhiệt tình với đất nước như Trạc đã bắt đầu mất hết niềm tin. Dường như Trạc nhập cuộc để khỏi bị lương tâm cắn rứt, để được yên lòng sống những ngày còn lại trên xứ người...
(các trang 611, 612)
Sau khi xem cuốn phim video Đồng Tâm trình chiếu ở nhà một chiến hữu tại Santa Ana (Nam California), Trạc không tin  căn cứ khu chiến đặt tại quốc nội. Xin cùng đọc:
Trạc nhìn ra ngoài xe, chửi thề:
-- Đ.m! Chưa gì Mặt Trận đã lừa gạt anh em và buộc mình lừa gạt đồng bào.
Tao lặn lội khắp nơi, tao cá với mầy đó không phải là rừng Việt Nam.
Nam yên lặng lái xe, một lúc sau mới lên tiếng:
-- Thôi, để trình chiếu cuốn video xong, xem phản ứng của đồng bào ra sao.
Việc tạo niềm tin trong đồng bào để tìm sự yểm trợ là điều cần thiết trong giai đoạn đầu.
Trạc lớn tiếng:
-- Tại sao không dám nói thẳng với đồng bào là khu chiến đặt tại Thái Lan? Việc
giải phóng đất nước trong tay giặc là chuyện đội đá vá trời có phải như lấy đồ trong túi ra đâu. Giai đoạn đầu tìm được một nơi để lập khu chiến đã là hay lắm rồi. Tại sao phải nói láo? Nói láo được một lần, họ sẽ không dừng lại ở đó đâu. Chưa gì đã lọt về Việt Nam và lập chiến khu. Làm như tụi Việt cộng đã chết hết và họ đã coi tụi mình như những đứa con nít.
-- Mẹ! Nội cái chiến khu quốc nội nghe đã không ổn rồi, nay lại kết hợp được 36
tổ chức kháng chiến với số kháng quân khoảng hơn mười ngàn người, ngồi đó vẽ cũng còn không kịp. Bọn nó coi chúng mình như lũ con nít. Chắc tao sẽ ra khỏi Mặt Trận một ngày gần đây. Đời tao, không thằng nào có thể coi tao như con nít được. Mẹ! Thằng anh thì làm Chủ Tịch, thằng em thì làm thủ quỹ, toàn quyền trong việc chi thu. Có tổ chức nào lạ đời như tổ chức nầy không? Tao sẽ không thu tiền của đồng bào và anh em trong chi bộ nữa để khỏi hối hận sau nầy. Nếu cần tao sẽ giải tán chi bộ luôn. Tổ chức nầy không đổ vỡ vì chuyện tiền bạc, tao thề sẽ đi bằng hai tay. Cả Liễu, Công cũng chỉ là hai thằng ngu. Tên nào cũng nói là mình phục vụ Tổ Quốc nhưng khi nhìn thấy thái độ hống hách và chuyện tiền bạc thiếu minh bạch của Hoàng Cơ Định, không tên nào dám lên tiếng. Con c...tao không làm gì cho cá nhân tao, tao cóc ngán thằng nào.
(các trang 747, 748)
° Hiền là cô gái mới lớn chỉ biết yêu Nam, chỉ biết chung thủy với Nam, chỉ biết cầu nguyện Chúa Ki-tô phù hộ mình thoát khỏi hoạn nạn tai ương để hưởng hạnh phúc vuông tròn. Ngoài ra, nàng chẳng hề biết những chuyện trọng đại khác. Tai nạn trong chuyến vượt biên càng làm nàng gần gũi Chúa hơn. Linh mục Antonio là kim chỉ nam cho nàng tìm về sự cứu rỗi của Chúa, soi rọi tâm hồn bình an và tìm gặp hạnh phúc  ẩn núp sau tai ương. Nhưng khi Nam bỏ đi theo mặt trận, Hiền bắt đầu tìm hiểu về thời cuộc và về diễn biến hoạt động của  họ. Đó cũng chỉ là động lực do tình yêu thôi thúc mà thôi. Hiền là hiện thân của một thiên thần, sống trong tuân phục ý Chúa. Nàng hoàn toàn quá, thuần khiết quá nên không có cá tính mãnh liệt nào ngoài niềm chung thủy đối với mối tình đầu và  Đức Tin. Ánh sáng thiên lương không hướng dẫn nàng theo chuyện nào khác hơn là vấn đề tâm linh hướng về Chúa để noi gương Chúa vác cây Thánh Giá khi nàng phải gồng mình gánh vác  hệ lụy:
Kính lạy Chúa! Cha nhân từ của con. Chúa ôi!Kính xin Chúa thương xót, tha thứ cho con mọi tội lỗi. Xin Chúa cứu vớt con, đừng rơi bỏ con, nhất là trong lúc nầy. Xin Chúa ở cùng con luôn, giúp con vượt qua những cảnh đời mà sức con không còn kham nổi. Cả tháng nay, con đã và đang sống trong bóng tối sâu thẳm của địa ngục, giữa lằn ranh của sự sống và nỗi chết. Con đã nhận lãnh bao ngọn roi đời tàn bạo trên thân xác yếu đuối và tâm hồn đã rướm máu của con. Hiện con đang chết dần mòn và sự sống như sắp rời khỏi con. Con không xin Chúa cất chén đắng ra khỏi môi miệng con. Tát cả đã muộn màng vì con đã uống chén đắng đó. Con chỉ xin Chúa giúp con nếm giọt đắng cuối cùng một cách can đảm, không lúc nào bằng lúc nầy, con đến để cầu nguyện cho những vết thương trên thánh thể Chúa cũng như những vết thương trong tâm hồn và thể xác con. Những vết thương đau đớn trên thân thể con đã giúp con cảm nhận đuợc nỗi đau tột cùng mà Chúa đã phải chịu đựng trên thập tự giá vì tội lỗi của nhân loại và cũng vì tội lỗi của riêng con. Chúa nhân từ của con ôi! Trên con đường khổ nạn của dân tộc mà con đang đi, một điều mà con nhất thiết van xin Chúa, cho con gặp lại Nam. Xin Chúa mở rộng tấm lòng Nam,  đừng để Nam khinh ghét con vì những đau đớn tủi nhục đó đâu phải do con gây ra mà nó đến từ những tấm lòng độc ác của loài người.
(các trang 466, 467)
° Lan là một nữ quân nhân có tâm huyết. Không phải chỉ có tình yêu của
nàng dành cho Nam thúc đẩy nàng tham gia vào tổ chức chống Cộng mà nàng cần phải làm một cái gì đó cho tổ quốc, cho công bằng, chính nghĩa. Lý tuởng nàng rất sâu sắc và hào hùng hiếm có ở một phụ nữ chân yếu tay mềm.
Xin đọc đoạn nói về ý kiến của Lan trong dự định tổ chức kháng chiến, trong đó Lan sẽ tham gia:
Nam hỏi:
-- Lan nghĩ gì về việc làm của chúng mình?
Lan đáp với giọng bùi ngùi:
-- Lan chỉ nói ý nghĩ của Lan với anh thôi. Làm thì làm, làm cho thỏa mãn con
người phản kháng bên trong tâm hồn mình nhưng Lan thấy nản lòng lắm. Vài chục tay súng thì làm được gì trong lúc nầy nhưng anh em đã góp phần chẳng lẽ mình đứng ngoài. Bây giờ có anh nhập cuộc. Lan thấy như được khích lệ hơn. Thôi thì một kiếp người, sống thế nào để không phải hổ thẹn với mình là đuợc.
Nam nhìn Lan với ánh mắt trìu mến. Anh thấy thương Lan, thương Sử, thương mến những chiến hữu của anh đã can đảm, coi nhẹ mạng sống, coi thường hạnh phúc riêng tư của đời mình, kết hợp để gầy lại cuộc chơi với hai bàn tay trắng. Cuộc chơi mà mọi ngưòi gần như biết trước, khó mà thắng được, nhưng ở đời người ta làm những việc xét ra phải làm và chấp nhận chết cho những điều mình tin tưởng.
Nam hỏi:
-- Lan không nghĩ rằng, ở nhiều nơi khác cũng có những anh em đang âm thầm chiến đấu như chúng mình sao? Việc gom anh em lại để làm một cái gì cho đất nước trong lúc nầy, giống như mình đốt lên một ngọn lửa và cố gắng giữ cho nó đừng tắt. Biết đâu sau đó sẽ có nhiều người tiếp tay với minh.
-- Lan có nghĩ đến điều đó nên còn nấn ná ở lại, bằng không em đã tìm đường ra đi rồi.
(các trang 286, 287)
Tâm lý của Lan được tác giả diễn đạt theo một tiến trình rất lớp lang, rất hợp lý. Nàng yêu Nam ở cái lý tưởng sáng ngời chính nghĩa  lẫn cái phong cách hào hoa của chàng. Nhưng đó chỉ là tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Nhưng rồi  xa Nam, không hy vọng sẽ có ngày gặp lại Nam, mà dù gặp lại Nam thì chàng vẫn thuộc về Hiền, cho nên nàng nhìn lại Sử thường xuyên ở cạnh nàng, cùng nàng hoạt động cho đại cuộc. Cái quyền biến, cái tài đứng vững ở đầu sóng ngọn gió, lẫn cái tâm địa rộng rãi và phong độ hào hùng của Sử dần dà chiếm đoạt trái tim nàng bằng từng bước tuy chậm chạp mà vững chắc.  Ôi, cái tình yêu đó lúc Sử còn sinh tiền âm thầm đến Lan bằng những bước chân nhẹ quá, rón rén và mong manh quá nên nàng chưa cảm nhận rõ rệt. Nhưng đến giây phút chàng chết trong tay nàng, mối tình ấy như một bông hoa ánh ánh nở tung ra, soi rọi khắp nội giới nàng.
Khác với Hiền, Lan tuy không phải là  kẻ vô thần, vô tín ngưỡng, nhưng nàng hoài nghi về linh hồn, về cõi chết. Bình thường nàng không đặt nặng vấn đề này. Nhưng trong lần đi viếng mộ Sử, ánh sáng tâm linh dù bạc nhược vẫn len lỏi vào nội giới nàng, để nàng đối diện với nó, đặt vấn đề về nó. Có lẽ nàng đã gặp một vài biến cố thần bí không sao giải thích trên con đường hành hương tìm những kẻ tuẩn đạo cho chính nghĩa, trong đó có sự hiện diện của Sử. Xin cùng đọc những giờ phút hoài niệm cùng những dòng tư duy thuộc lãnh vực tâm linh của Lan trong lần nàng đi viếng mộ Sử:
Đến nơi, Lan ngồi cạnh nấm mộ nghỉ mệt, mắt nhìn chăm chăm vào tấm mộ bia. ''Tạ Thành Sủ'' sinh năm 1948, mất năm 1979''. Sử chết vào năm 31 tuổi, cái tuổi mà người Việt Nam cho là xuôi xẻo. Lan lấy trong cái giỏ xách miếng vải nhỏ, lau chùi tấm mộ bia. Lau xong, Lan ngồi thừ bên cạnh mộ, mắt nhìn về phía trời xa. Một con chim lẻ loi, kiếm ăn về muộn đang mệt mỏi vỗ cánh bay về tổ. Chung quanh Lan giờ nầy hoang vắng quá, chỉ mình Lan với nấm mộ cô đơn. Tự nhiên Lan cảm thấy mình già đi, tâm hồn cằn cỗi, tràn ngập nỗi buồn, như vạt nắng chiều đang hấp hối ở cuối trời xa thẳm. Lan tự hỏi: ''Con người thật sự có linh hồn chăng?''. Sử vẫn quan niệm rằng ''chết là hết''. Thật sự có phải chết là hết không? Nếu có linh hồn thì thân xác đã về với cát bụi rồi, linh hồn nương tựa vào đâu? Khi còn sống Sử lúc nào cũng nóng nảy bồn chồn. Dường như Sử không có một giây phút an bình, những âu lo thay phiên xuất hiện trong đời sống. Và bây giờ Sử đã chết, tấm thân đã vùi xuống lòng đất lạnh, liệu ở thế giới bên kia, linh hồn Sử có được bình an không? Một thứ bình an vĩnh cửu hay còn vương mắc với những vay trả cuộc đời mà lúc sống, Sử chưa thanh toán được. Quốc gia, cộng sản, dân chủ, độc tài, tự do, nô lệ, những thứ đó có làm bận lòng Sử không? Nếu linh hồn còn đó, liệu Sử có nhìn thấy những giọt nước long lanh niềm khổ hận dưới mắt nàng không? Giọt nước mắt của một cuộc tình mà khi nhận ra đã quá muộn màng để khổ hận cho người sống cũng như kẻ chết...
(các trang 572, 573)
°
°  °
Trong Ác Mộng Đêm Dài  còn có hai nhân vật đáng chú ý. Đó là mẹ của Nam và bà Ngởi (mẹ của Vinh và Hiền).Mẹ của Nam là người đàn bà thuộc hạng trí tuệ, hiểu rõ tình hình và thời cuộc. Tác giả không nói rõ do đâu mà bà có được một kiến thức viễn thâm ấy, ngoài sự ham mê đọc sách. Trong những ngày Nam và Vinh vừa rã ngũ tan hàng, bà nhận định như sau:
-- Các con rồi sẽ không yên với họ đâu. Mẹ lo lắm! Nếu giết được hết thành phần
như các con mà không mang đến hậu quả xấu nào, họ sẽ làm ngay. Họ không nhân đạo mà nghĩ  ''cùng là người Việt với nhau'' như các con nghĩ đâu. Các con còn nhớ các mồ chôn tập thể ở Huế tết Mậu Thân, những lần họ ném lựu đạn vào các chợ hay rạp hát. Đó là những việc làm có chủ trương cả. Họ đâu có nghĩ đến sinh mạng của những người dân vô tội kể cả đàn bà và trẻ thơ. Họ tự phong cho họ cái quyền giết người vì hạnh phúc con người, giết người để cứu người. Họ được dạy dỗ như vậy, giết một số người nhỏ để cứu một số người khác đông hơn. Vì vậy mà họ giết người không gớm tay đâu, nhưng họ giết người mà có cứu được nguời không? Đó là chuyện khác. Họ cần đạt được mục đích, cướp được miền Nam và bằng mọi giá phải giữ được miền Nam. Giết các con thì họ không làm vì vì thành phần tập kết khá đông. Đem con cháu của của những người tập kết ra giết hết, sẽ có loạn ngay và kéo theo sự nổi loạn dây chuyền của những gia đình có con em là sĩ quan. Thời phong trào Việt Minh, nhiều người ra thành, chỉ mua một hộp sữa đặc cho thân nhân đang bịnh uống mà chúng khám xét gặp, chúng tra khảo đến chết rôi quăng vào bao bố, cột miệng lại, ném xuống sông mà họ gọi là ''cho đi mò tôm''.Vì vậy mà mẹ lo cho các con lắm! Chuyện tàn ác nào mà họ không dám làm. Cái chiến thắng nầy vẫn còn làm họ ngỡ ngàng như đang sống trong mơ như các con. Cái mà họ phải làm ngay bây giờ là gom các con lại để ổn định tình thế. Ngày bắt giữ các con sẽ gần đây thôi, còn ngày về của các con thì không ai có thể đoán được. Sau lần chiến thắng ở Trung Quốc một số sĩ quan cao cấp của Trung Hoa quốc gia bị giết, một số vẫn còn bị giam giữ cho tới giờ nầy. Họ sẽ không giết các con ngay, nhưng họ sẽ giết dần mòn các con ở trong tù. Việc làm nầy còn tàn ác hơn nhưng đối với  người ngoại quốc, họ vẫn được tiếng nhân đạo vì không có cảnh tắm máu ở miền Nam như nhiều người dự đoán.
(các trang 129, 130)
Trong văn chương Việt Nam của chúng ta, hình ảnh bà mẹ  của các nhân vật chính diện thường đuợc lồng trong các bà lão nếu không quê mùa thì cũng không có vốn liếng kiến thức và không có trình độ học vấn bao nhiêu. Bà mẹ củaNam là một nhân vật đặc biệt mà ngay phần đầu câu chuyện tác giả Anh Vân đã giới thiệu là bà thích đọc sách. Cho nên gặp một bà già như thế trong Ác Mộng Đêm Dài  chúng ta không bỡ ngỡ. Kiến thức của bà không phải chỉ nhặt nhạnh ở sách vở mà còn ở kinh nghiệm sống dồi dào của bà nữa. Bà còn làm cho chúng ta lạnh xương sống hơn nữa khi khuyên Nam trước khi đi học tập cải tạo:
Nam hỏi:
-- Sao mẹ lo lắng như vậy? Thông cáo đã nói rõ ràng là chuẩn bị đồ ăn
trong mười ngày.
Mẹ Nam thở dài:
-- Nếu được như vậy là điều may mắn.
-- Mẹ có vẻ không tin.
Mẹ Nam nghiêm mặt:
-- Mẹ đã dặn các con bao nhiều lần, những gì người cộng sản nói thì không nên tin. Con lại quên lời mẹ dặn rồi.
-- Họ đã ra thông cáo và người dân đã nghe rõ thông cáo đó. Chẳng lẽ, họ dám nói láo hay sao?
-- Chuyện gì họ cũng dám làm miễn có lợi cho họ.
Nhìn sắc mặt có nét giận của mẹ, Nam không dám nói thêm.
Giọng mẹ Nam dịu dàng hơn:
-- Dù không tin thì mình không biết phải làm sao nhưng nhớ, trong tù, họ sẽ kêu
con khai lý lịch và những việc làm của con trong quân đội. Con đã khai gì, phải nhớ ghi lại để khai lần sau cho giống. Nhớ khai trong bản lý lịch, hai người anh của con đi tập kết vào năm 1954. Họ sẽ bắt các con khai đi khai lại nhiều lần để xem những lời khai có mâu thuẫn không. Phải dùng cái khôn ngoan của mình đối phó với kẻ thù. Phải nhớ lần đầu tiên, con khai những gì thì lần thứ hai cũng chỉ có thế. Nếu mỗi lần khai, con thêm một số chi tiết thì họ cứ bắt con phải khai hoài để tìm hiểu thêm những việc con đã làm. Chuyện gì giấu được thì cứ giấu. Thà họ chụp tay mình còng chớ đừng tự ý đua tay cho kẻ thù còng. Con nhớ chưa?
(các trang 161, 162)
Có thể mẹ của Nam nhờ đọc hồi ký của các tù nhân chánh trị dưới chế độ Cộng Sản nên có sự hiểu biết sâu rộng như thế. Nam quả thật có một bà mẹ tuyệt vời. Bà là ngọn đuốc soi sáng cho Nam đi trên con đường yêu nước, soi cho Nam nhận diện bộ mặt tàn ác nhưng luôn giả nhân giả nghĩa của Cộng Sản. Nhưng tiếc thay vì còn ở trong vòng phong tỏa của Cộng Sản nên bà không soi được cái trí trá của bè lũ con buôn chính trị bên phía Quốc Gia của chúng ta ở hải ngoại.
Riêng bà Ngởi, mẹ của Vinh và Hiền có học lực cao hơn mẹ của Nam, nhưng không có nhận định sâu sắc như mẹ của Nam. Hoàn cảnh và tâm sự của bà lại có chỗ ngắc ngoéo, éo le. Bà có người yêu tên Ngân theo phe Việt Minh chống Tây. Đương sự hoạt động ở thành phố, bị Tây bắt đưa về bót Catinat tra khảo cho đến chết. Do đó bà ghét Tây, ghét luôn Mỹ và phe Quóc Gia. Bà nghiêng cảm tình về  phe Việt Cộng vốn là thối thân của phe Việt Minh. Bà kết hôn với Thiếu Tá Nghiêm (thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa), cha của Vinh và Hiền để có chỗ che chở. Hôn nhân không có tình yêu làm bà thất vọng. Cho nên bà ham tiền, làm đủ mọi cách để có tiền, dù phải lén lút làm ăn với bọn Cộng Sản để bán đứng Miền Nam Việt Nam đi nữa. Lỗ hổng tâm lý của bà phải có tiền trám đầy mới tạo cho bà sự thăng bằng. Sau ngày 30/4/1975, lúc đầu bà chạy theo chánh thể mới để bảo vệ tài sản của mình. Nhưng sau bao lần chứng kiến cái cách cướp nhà đoạt của do các cán bộ miền Bắc lộng hành, bà bắt đầu suy nghĩ và đặt lại vấn đề. Cái chết của Vinh làm cho bà khám phá một sự thật đau lòng: người con trai yêu quý của bà muốn chuộc lại lỗi lầm của bà nên hy sinh dấn thân vào tổ chức kháng chiến chống bạo quyền, không ngại hiểm nguy đến sinh mệnh.
Với hành động đốt nhà của mình rồi tự thiêu luôn, bà Ngởi chứng tỏ sự phản kháng của mình là cách phản kháng song đôi, tiêu cực và tích cực, chủ động lẫn thụ động. Trong truyện, sau khi phục rượu cho bọn công an say như chết, bà nổi lửa tự thiêu, nhưng tác giả không nói rõ bọn công an có thoát khỏi biển lửa hay không? Nhưng người đọc tin rằng, men rượu cực mạnh làm cho tứ chi bọn chúng rũ liệt, nếu  chúng không biến thành tro than thì cũng  bị quay bị nướng như lợn như gà.
Sau đây là tâm sự của bà Ngởi vào đêm cuối đời của bà:
Cái chết của đứa con thương yêu vẫn còn rỉ máu trong tim bà. Nhu cầu tình cảm hiện giờ của bà là hai đứa con, nay chúng đã bỏ ra đi thì bà cần gì nữa? Sợ gì nữa? Trong đời sống, điều làm nguời ta sợ hãi là sự chết, nhưng với bà bây giờ cái chết không còn làm bà sợ thì bà sợ gì mấy thằng trong Ủy Ban Hành Chánh. Cái chết đối với bà là lối thoát êm đẹp nhứt, một mơ ước quái đản mà bà đã nghĩ ngợi tới luôn và bà đã chuẩn bị tất cả cho bà. Sở dĩ bà vẫn còn nấn ná đến ngày hôm nay cũng chỉ để chờ tin tức Hiền, xem con bà đã đến bến bờ tự do chưa để bà yên tâm ra đi. Bây giờ tình thế bắt buộc phải đi sớm hơn dự định thì đi, có gì mà sợ. Biết đâu trong cõi thiên thu đó, bà sẽ gặp lại Vinh, đứa con trai thương yêu của bà và biết đâu trong cõi sống không thù hận đó, con bà sẽ tha thứ cho bà.
Đến lúc tuổi già, bao nhiêu bất hạnh xảy đến, bà mới hối hận là trong quá khứ, bà đã sống với quan niệm sai lầm, coi tiền bạc mới là điều đáng kể. Bà đã không ngần ngại gây ra bao tội lỗi với chồng con, với đất nước. Những ngày tháng cuối đời, bà đã ý thức được điều đó nên chẳng còn tha thiết gì đến sản nghiệp nầy và cũng lần đầu tiên trong đời bà cảm thấy hối tiếc về những chuyện đã làm. Bà muốn quay về với Chúa một lần nữa, nhưng chiếc cầu liên lạc giữa bà và Chúa đã gảy.
Thuở trẻ, nhiều lần bà đứng cầu nguyện trong Hội Thánh, xưng mọi tội lỗi ra với Cha để được thảnh thơi vì tin rằng tội lỗi đã được tha. Bà muốn được trong sạch, không một vết nhơ tội lỗi nào để được giống như Chúa, nhưng đồng tiền đã đẩy bà xa cách Chúa. Bà đã có một thứ thần tượng khác để tôn thờ. Đó là tiền! Là Tiền! Đồng tiền là tất cả. Bà đã không ngần ngại tiếp tay với kẻ thù để đặt một thứ chủ nghĩa phi nhân lên đầu lên cổ đồng bào bà, cái thứ chủ nghĩa coi mạng sống con người như rơm rác và đang biến đồng bào bà thành những con người không có trái tim. Bà từng chuyển vũ khí, thuốc tây trên đường thủy bằng những chiếc thuyền bán hàng bông trên sông. Bà đã từng tổ chức những đám tang mà trong quan tài không có người chết, chỉ chứa vũ khí và thuốc tây rồi ban đêm kẻ thù đến đào mang lấy về. Trong lúc tiền bạc tuôn vào như nước, bà say tiền, không nhìn thấy tội lỗi. Càng ngày bà càng đi sâu vào tội lỗi hơn.
(các trang 479, 480, 481)
°
°
Có thể bảo ngòi bút của Anh Vân làm một cuộc viễn du hào hứng qua bốn giai đoạn lịch sử: ngày tàn của Miền Nam Việt Nam, giai đoạn đầu của nền cai trị độc ác của bọn giặc đỏ sau khi cưỡng chiếm miền Nam, giai đoạn nhục nhằn khốn khổ của những kẻ vượt biên phải trả giá tự do rất đắt. Và sau hết là sinh hoạt của lũ mị dân và của những kiều bào nhiệt tâm yêu nước ở hải ngoại.
Đa số những nhà văn có tâm huyết thường đem tâm tình viết lịch sử. Sử gia thì chỉ có việc ghi chép mọi lớp sóng phế hưng của lịch sử dân tộc sao cho trung thực, cho chính xác. Thỉnh thoảng, họ phê phán các chính sách của các triều đại, của các chế độ, phê phán hành động của các nhân vật lịch sử, chứ không dám đá động tới nhân sinh quan, cảm nghĩ của các nhân vật lịch sử đó. Còn nhà văn thì dùng một giai đoạn lịch sử nào đó để làm đề tài cho tác phẩm của mình.  Họ có quyền sửa đổi chút ít hành động của các nhân vật lịch sử mà họ dùng làm nhân vật cho tác phẩm mình.  Họ có quyền thêm thắt vai nhân vật giả tưởng có liên quan tới các nhân vật lịch sử để đôi bên cùng hoạt động hay tương tranh trên các ván cờ lịch sử. Và để tác phẩm tươi mát hoặc ướt át sương mưa trữ tình lãng mạn, tác giả lịch sử tiểu thuyết có thể nặn ra những giai nhân tưởng tượng để cho họ bắt liên hệ cùng nhân vật anh hùng dân tộc. Đó là trường hợp Lan Khai đã cấu tạo cô nàng nữ hiệp giả trai mặc áo xanh để bắt tình với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ trong quyển Chàng Áo Xanh.  Nữ sĩ Kathleen Windsor trong quyển Ambre  đã tạo ra nàng Ambre sắc nước hương trời để dan díu với vua George Đệ Nhị nước Anh. Tác giả cuốn Phản Đường hay tác giả quyển dâm thư Như Ý Quân  đã tạo ra chàng Tiết Ngao Tào với tài sành điệu trong thú gối chăn để làm thỏa mãn tình dục cho Nữ Hoàng Vũ Tắc Thiên... 
Ác Mộng Đêm Dài  nếu trình làng trước đây 15 năm là một cuốn tiểu thuyết hiện thực phản ảnh sinh hoạt các cộng động kiều bào ở hải ngoại. Bây giờ nó trở thành một cuốn  dả sử tiểu thuyết  với các nhân vật hư cấu chường mặt ra sân khấu cuộc đời, còn những nhân vật có thật như Hoàng Cơ Minh và bè lũ của mặt trận chỉ được xuất hiện trên những dòng thuyết thoại đơn sơ và gảy gọn... Hay đúng ra đây là quyển tiểu thuyết hiện thực lấy bốn giai đoạn lịch sử khác nhau để dựng nên bối cảnh khác nhau trong bốn giai đoạn thời gian kế tiếp nhau.
Tác giả Anh Vân viết tác phẩm Ác Mộng Đêm Dài  bằng nước mắt, bằng trái tim thành khẩn. Anh như nhập vào mỗi nhân vật và đồng hóa với họ để cảm xúc, để tư duy theo mệnh nước nổi trôi, theo sự tráo trở của bọn người giả danh đi làm lịch sử bằng cách buôn người ái quốc, bằng cách hủy diệt truyền thống tin yêu của dân tộc. Đây cũng la bản cáo trạng đen, một bản tường trình đẫm máu để chúng ta suy gẫm, để những thế hệ mai sau nắm vững sự thật đau lòng về những kẻ trưởng thành từ cuộc nội chiến Quốc Cộng cho đến khi họ thoát ly địa ngục Cộng Sản để dịnh cư ở hải ngoại. Và tác phẩm còn cho chúng ta thấy tác giả  là một kẻ yêu đương nồng nhiệt thiết thành  khi anh hóa thân nhập cuộc vào các nhân vật xương sống trong tác phẩm như Nam, Sử, Hiền và Lan, làm cho tác phẩm đa dạng tình người và tươi mát mạch sống. Ngoài ra, anh còn chứng tỏ mình là một tác giả  ưu tư với căn phần thê thảm của tổ quốc qua hành động và nếp tư duy của các nhân vật ấy.
--!!tach_noi_dung!!--

Sưu tầm: Thanh Vân
Nguồn: http://namkyluctinh.org
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 8 tháng 5 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--