Chương 5

    
ườn nhà bà Hương Lan đêm nay, trăng nhiều quá. Những viên đá sỏi tắm trăng bóng nhãy. Hoa ngọc lan thơm ngát, mê man. Hình như hoa chỉ thơm nồng nàn khi có trăng. Hoa và trăng là đôi tình nhân lý tưởng của nhân gian. Hoa và trăng tỏ tình, không có nước mắt, không có đau thương. Mà đầy ánh sáng và hương thơm.
Bà Hương Lan ngồi trên ghế đối diện tôi. Tôi cách bà một lối đi trải đá sỏi. Đã nhiều lần rồi, tôi ngồi ngoài vườn nói chuyện cùng bà Hương Lan vào những đêm có trăng. Nhưng đêm nay, tôi tưởng như đêm đầu tiên tôi xuống Mỹ Tho.
- Thầy Hoài có biết xứ Huế mộng mơ và buồn vời vợi nhờ ai không?
- Thưa bác, nhờ tạo hoá.
- Nhờ Hàn Mạc Tử đấy. Thầy thuộc bài “Vỹ Dạ” chưa?
Tôi không thích Hàn Mạc Tử bằng Xuân Diệu, Huy Cận nên không thuộc thơ của thi sĩ này. Bà Hương Lan đọc cho tôi nghe bài “Vỹ Dạ”:
Sao anh không về thăm thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây hương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà”.
Bà hỏi tôi:
- Thầy Hoài nghĩ thế nào?
Tôi đáp:
- Buồn và mộng quá, bác ạ!
Bà Hương Lan chống tay lên cằm:
- Nhiều thi sĩ sinh ra ở Huế, lớn lên ở Huế, mơ mộng vì Huế, biết làm thơ tại Huế mà nói về Huế không thơ mộng chút nào. Tôi đọc hết cuốn “Huế, đẹp và thơ” của Nam Trân, thấy không xúc động bằng bài “Vỹ Dạ” của Hàn Mạc Tử.
Bà đọc lại hai câu cuối: Ở đây hương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có mặn mà”. Bà nói tiếp:
- Tôi thương Hàn Mạc Tử lắm. Người thi sĩ này yêu mà không được yêu, ông ta đã gào thét: “Trời hỡi, làm sao cho khỏi đói. Gió trăng có sẳn làm sao ăn. Làm sao giết được người trong mộng. Để trả thù duyên kiếp phũ phàng”. Người ấy đến đâu là nghi ngờ ở đấy. “Ai biết tình ai có mặn mà”
Tôi đã bảo tâm hồn bà Hương Lan ướp bằng thơ và mộng mà. Hễ ngồi với bà ngoài vườn trăng là bà chỉ nói chuyện thơ. Bà nhìn tôi:
- Kể ra Hàn Mạc Tử cũng… ngây thơ, thầy Hoài nhỉ?
- Cháu chưa hiểu sự ngây thơ của thi sĩ. Thi sĩ đều khờ khạo, ngu dại cả, Xuân Diệu nói: “Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá. Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì”
- Ngây thơ vì ông ta cứ muốn tỏ tình bằng lời nói. Thường thường, những mối tình đẹp là những mối tình câm lặng.
Những mối tình đẹp là những mối tình câm lặng”. Bà Hương Lan nói thế có nghĩa rằng mối tình của Phụng, của Trang đối với tôi không đẹp chăng? Vì cả Phụng lẫn Trang đều đã tỏ tình. Họ không muốn câm lặng. Tôi hỏi:
- Thưa bác, nếu câm lặng, làm sao người ta biết được người ta yêu nhau?
Bà Hương Lan lảng chuyện. Bà ngước nhìn trăng:
- Bao giờ thầy Hoài viết văn, làm thơ, tôi muốn thầy sẽ bắt độc giả của thầy phải yêu Mỹ Tho như Hàn Mạc Tử đã bắt độc giả phải yêu thôn Vỹ Dạ ngoài Huế.
Tôi nói:
- Cháu ích kỷ lắm, bác ạ! Cháu đã thích điều gì thì chỉ muốn thích một mình. Có lẽ, truyện đầu tay của cháu, cháu sẽ không viết về vườn hoa của bác, về trăng nước Mỹ Tho, về tiếng lạo xạo của đá sỏi nữa.
Bà Hương Lan cười:
- Vậy thầy viết về gì?
Tôi đưa tay vuốt mặt:
- Cháu sẽ viết về một nỗi sầu đau.
Bà Hương Lan bẻ bão tay:
- Từ đó, đi vào sự nghiệp.
Tô>
- Vì giọng nói miền Nam của bác, vì câu chuyện thiên thai của bác, vì tuổi của thiên thai…
Bà nhìn tôi, đôi mắt sũng ướt sự biết ơn:
- Thầy Hoài thương hại tôi cô đơn. Tôi tự hỏi tôi đáng được thầy thương hại không?
Bà khẽ thở dài:
- Ở Trung Lương có một rừng mận cách đường đi vài cây số. Người Bắc gọi trái mận là trái gì?
Tôi đáp:
- Quả roi.
Bà chuyển câu chuyện đang ngột ngạt giận hờn sang một câu chuyện khác rất tài tình:
- Trong rừng mận có một con lạch suốt năm nước chảy trong vắt. Bắc qua con lạch là một chiếc cầu gỗ. Tên cây cầu thơ mộng lắm: Cầu Mơ. Người ta bảo, tới mùa mận chín, đứng trên Cầu Mơ ngắm những người con gái hái mận, không chán mắt. Cảnh tượng đẹp lạ lùng. Nắng chiều xuống màu xanh của lá và màu hồng của trái mận thành một màu thần tiên mà họa sĩ không thể nào pha mầu nổi. Con người luôn luôn thua tạo hoá. Người ta bảo, trong khi tay hái mận, miệng các cô gái cười hoài, vừa kể chuyện tình của nhau cho nhau nghe, ngộ hết sức. Thầy Hoài muốn tới Cầu Mơ không?
Tôi hỏi:
- Bác đã tới lần nào chưa?
Bà Hương Lan mỉm cười:
- Chưa. Trung Lương cách tỉnh có vài cây số mà tôi chưa tới Cầu Mơ lần nào. Có lẽ, tôi phải tới Cầu Mơ một lần.
Tôi nói:
- Chừng đến mùa mận, bác có tới Cầu Mơ, cháu sẽ đi theo bác.
Thế là tôi quên Phụng. Bà Hương Lan dẫn dắt tôi ra khỏi những vùng phiền muộn. Luôn luôn vậy. Tôi không thể cưỡng lời bà. Tôi mãi mãi ngoan ngoãn cơ hồ một con cua thu càng lại khi gặp một con ếch. Tôi đã trịch thượng với Trang với Phụng nhưng không dám trịch thượng với bà Hương Lan. Cuộc sống của tôi bình thản trôi ở Mỹ Tho. Ở đây không nỗi buồn vô cớ. Không làm sao buồn nổi khi ngồi ngoài vườn, nghe bà Hương Lan nói chuyện hoa, trăng, sao… Phụng không bỏ trường, không tự tử. Nàng làm một bài luận khác cho riêng tôi, bảo rằng nàng có quyền mơ ước cõi thiên thai của nàng. Và, trong tâm tưởng nàng, thiên thai không xấu, không có “đá mòn rêu nhạt, nước chảy hoa trôi”. Bài luận thứ hai của Phụng, tôi không đưa bà Hương Lan coi. Tôi giữ kỹ như một kỷ niệm.
Kỷ niệm yêu đương. Một người con gái yêu tôi vì tưởng tôi là nhà văn. Cõi thiên thai của nàng là Văn chương. Một người con gái yêu tôi vì tôi đẹp trai. Cõi thiên thai của nàng là Nhan Sắc. Hai thứ đó không phải, không bao giờ làm nên tình yêu. Tình yêu không ở nơi đó. Hình như, tình yêu ở tiếng lạo xạo của đá sỏi trên lối đi vườn nhà bà Hương Lan. Trang và Phụng chẳng bao giờ nhìn thấy tình yêu, nghe thấy tình yêu của tôi. Hoạ chăng, chỉ có bà Hương Lan. Tôi nghĩ vậy. Nhưng mà Trang và Phụng cứ yêu tôi. Họ đang đi vào trong vùng sương mù của ảo tưởng. Ra khỏi sương mù, họ sẽ thất vọng chua cay. Họ sẽ đau đớn, sẽ ê răng. Còn tôi, tôi nhận dấu vết của những chiếc răng cán trên trái táo. Vào những ngày đềm êm như thế, Trang lại về Mỹ Tho. Trường không nghỉ hè. Nàng về chiều thứ bảy, nói rằng chiều chủ nhật sẽ lên Sàigòn.
Bà Hương Lan cho tôi biết, mấy năm ở nội trú, Trang chỉ về thăm mẹ vào những dịp bãi trường lâu. Thế mà, bỗng dưng, Trang về nhà. Nhưng bà Hương Lan không tỏ vẻ buồn. Trang bảo nhớ ngoại. Nàng rủ tôi bơi xuồng đi thăm ngoại sáng sớm để trưa trở ra Mỹ Tho kịp. Bà Hương Lan khuyên tôi nên chiều Trang. Bà lại từ chối không đi cùng chúng tôi. Bà nói xuồng chở ba người mất nhiều thì giờ. Tôi và Trang về thăm ngoại nàng. Tôi vẫn nhớ một đêm ở bến đò quê ngoại Trang. Tôi nhìn Trang. Nàng có vẻ gì khác lạ. Tôi hỏi:
- Trang về bất ngờ, không sợ má rày sao?
Nàng cười:
- Chả khi nào má rày em hết. Em lớn rồi mà.
Chợt nàng nói:
- Em đã suy nghĩ kỹ…
Tôi hất đầu:
- Suy nghĩ kỹ trước khi về hả?
Nàng buông lơi tay chèo:
- Không, em suy nghĩ kỹ để sắp nói với thầy một điều quan trọng.
Tôi biết điều quan trọng Trang sắp nói rồi. Điều quan trọng ấy sẽ là những câu nói thiết tha hơn những câu nói mà Trang đã ngập ngừng ở bến đò quê ngoại nàng đêm nào.
- Em sẽ không về ngoại đâu.
- Sao thế?
- Không có thì giờ. Em buộc xuồng lại, thầy và em lên bờ, tìm một nơi có bóng cây ngồi nói chuyện được không?
- Tôi muốn ngồi dưới giàn hoa thiên lý nhà ngoại Trang. À, lần trước tôi quên chưa kể chuyện quê nhà tôi cho Trang nghe.
- Để sau này, thầ;i trầm giọng:
- Cháu tương tư những chuyến tầu đêm. Bác biết chứ, nghe tiếng còi tầu hú lên, sao lòng mình xót xa thế! Cháu bỗng thương con đường sắt câm nín, ngòng ngoèo. Chà hiểu, có lần nào, con đường sắt mong con tầu bò ra khỏi mình mẩy nó không. Cháu sẽ giống con đường sắt Sàigòn - Mỹ Tho. Và sự khổ đau là con tầu nặng nề, già nua nhưng nhiều kỷ niệm.
Bà Hương Lan thở dài. Một lát, bà vui vẻ trở lại:
- Thứ bảy này, nhỏ Trang sẽ về nữa. Nó mến thầy lắm đó.
Tôi hơi ngượng ngùng:
- Chắc cô ấy nhớ bà ngoại nhiều?
Bà Hương Lan lắc đầu:
- Không phải đâu. Nó vừa tìm thấy một cõi thiên thai của nó.
Tôi đan những ngón tay khít nhau:
- Cô Trang sẽ thất vọng. Thiên thai chỉ có “đá mòn rêu nhát, nước chảy hoa trôi”. Người nào đó còn ở lại thiên thai, cháu tưởng đã hoá đá rồi.
Bà Hương Lan ngạc nhiên:
- Sao thầy biết?
Tôi đáp:
- Vì linh hồn người đó đã nhập một cõi thiên thai khác. Rốt cuộc, trong chúng ta, không ai đến thiên thai cả, bác nhỉ?
Bà Hương Lan lặng thinh. Bà nói bà bị lạnh và vô nhà trước.
Một mình tôi ngồi trong vườn khuya. Tôi dựa lưng vào thành ghế, nhắm mắt.
 Thiên thai của tôi đã hiện ra. Mộng ước trước mặt tôi. Cái mộng ước câm nín, không biết hay không dám tỏ tình. Hèn chi, cả nghìn năm xưa Lưu Thần và Nguyễn Triệu đã thất vọng. Lưu Thần, Nguyễn Triệu thất vọng hay nhà văn sáng tác truyện của Lưu Thần, Nguyễn Triệu đã thất vọng? Nghìn năm trước, đã có kẻ danh sĩ chán nản cuộc đời dương thế, toan thả hồn lên thiên thai. Những không đạt vì thiên thai còn chán nản hơn cả cuộc đời. Thiên thai không có tình yêu. Cõi nào không có tình yêu, cõi đó là thiên thai. Mỹ Tho, ồ không phải, vườn hoa nhà bà Hương Lan chính là thiên thai của tôi. Tôi buồn quá. Đêm ấy, tôi đã ngủ trên ghế ngoài vườn.
Hôm sau, tôi bị cảm. Tôi nghỉ dạy một buổi. Tưởng ngày mai có thể tới trường, nhưng tôi lên cơn sốt và cơn sốt hành hạ thể xác tôi liên miên. Bà Hương Lan đã bắt tôi uống nhiều thứ thuốc. Bà săn sóc tôi thật chu đáo. Chinh bà đã ra tiệm thuốc bắc, mua gói thuốc xông về nấu cho tôi xông. Bà trùm kín chăn lên người tôi, ngồi canh chừng tôi, Tôi ngửi thấy, trong mùi long não, có mùi thơm của hoa ngọc lan. Cuối cùng, bà Hương Lan phải mời bác sĩ đến chẩn mạch và tiêm thuốc giúp tôi. Lần đầu tiên tôi được một bác sĩ chữa bệnh. Giá không trọ nhà bà Hương Lan, tôi đã nhờ người dẫn tới nhà thương thí. Tôi thích nằm dưỡng bệnh ở đó. Nhà thương thí là nơi an ủi nhưng kẻ lãng tử như tôi. Tôi thèm sống đơn độc và bị hắt hủi ít ngày ở đó để cho thấm thía kiếp người.
Ngót một tuần lễ mê man, bà Hương Lan ngồi cạnh tôi với dáng điệu đầy lo âu. Tôi biết điều ấy những lúc tôi tỉnh và tôi cứ giả vờ mê man, kéo dài cơn mê man. Bà Hương Lan nắm chặt tay tôi hay bà đặt bàn tay của bà lên trán tôi, tôi đều cảm giác bồi hồi, nao núng. Tự nhiên, tôi muốn mê man hoài, mê man không bao giờ tỉnh nữa. Như vậy, tôi đã nhập thiên thai của tôi.
Một lần, trong cơn mê man giả vờ, tôi đã nắm chặt cánh tay trần của bà Hương Lan, tỏ tình:
- Thưa bác, cháu yêu bác, cháu chỉ yêu bác. Ngoài bác ra, cháu không còn thương yêu ai.
Bà Hương Lan gỡ tay tôi ra:
- Thầy Hoài, thầy mê sảng dễ sợ quá. Để tôi đi mời bác sĩ.
Tôi tung chăn, ngồi dậy:
- Vâng, cháu mê sảng vì bác. Cháu xuống Mỹ Tho vì yêu bác, Và cháu đau khổ cũng vì yêu bác.
Bà Hương Lan cuống quýt:
- Chết thật, không khéo thầy bị thương hàn rồi.
Tôi ôm chầm lấy bà Hương Lan rên xiết:
- Cháu sắp chết. Cháu không thiết sống nữa nếu bác từ chối tình yêu của cháu.
Bà Hương Lan không cựa quậy hay tỏ ý giận dữ. Bà chớp mắt mau và mặc vòng tay tôi ôm vừa lưng bà. Thân thể bà run rẩy. Trái tim bà chắc còn run rẩy hơn. Tôi cố thu góp can đảm nói một lời mà nếu không giả vờ mê sảng, cả đời tôi, tôi cũng chẳng dám nói với bà Hương Lan.
- Em, anh yêu em!
Bà Hương Lan vuốt ve mái tóc ướt nhãy mồ hôi của tôi. Bà nhẹ nhàng nói:
- Hoài, hãy ngoan ngoãn một chút. Nằm xuống ngủ đi…
Tôi gục mặt vào ngực bà Hương Lan:
- Anh sẽ 'height:10px;'>
- Thầy thích uống nước dừa à?
- Thích lắm.
- Có kỷ niệm nào về nước dừa không?
- Kỷ niệm thơ ấu.
Tôi kể cho Trang nghe thuở tôi lên bảy tuổi, thường theo mẹ đi chợ phiên. Món quà tôi ước ao nhất là nước dừa. Miền Bắc hiếm dừa nên dừa quý vô cùng. Trái dừa già mang từ Thanh Hoá ra, bán không vất đi một tí nào. Người bán dừa dùng cưa nhỏ cưa miếng sọ dừa. Nước dừa bán từng ly vơi. Cùi dừa nậy bán miếng lớn, miếng nhỏ. Trái dừa bán làm gáo múc nước, Miếng sọ nhỏ thì làm cái môi. “Lành làm gáo, vỡ làm môi”. Tôi nhớ chưa lần nào trong quãng đời ấu thơ của tôi, được uống hết nước ở một trái dừa già, dù mẹ tôi thừa tiền mua. Tôi chỉ được uống tới hai ly. Mà trái dừa múc ngoài sáu ly nước đầy. Cho nên, tôi không thể nào quên kỳ uống nước dừa hồi nhỏ. Mỗi khi cầm cả trái dừa tươi miền Nam, uống thả cửa, tôi vẫn nhớ sự thèm khát ngày xưa. Và, nước dừa, bao giờ cùng ngon ngọt.
- Còn thuốc lá?
- Thuốc lá Capstan?
- Dạ, có kỷ niệm trong khói thuốc không hả, thầy?
- May ra nó sẽ thành kỷ niệm.
- Một nhà văn phải chứa chất nhiều kỷ niệm quá, thầy nhỉ?
- Hình như vậy.
- Bao giờ em mới được đọc những trang sách thầy Hoài viết về kỷ niệm thuốc lá và đi xuồng trên con lạch này?
- Tôi sẽ không viết đâu.
- Chắc chuyện không đáng viết?
- Có những kỷ niệm mình chỉ nên biết một mình. Phải bày cho nhiều người biết kỷ niệm của mình là xúc phạm kỷ niệm. Bởi vậy, tôi sẽ không chọn văn chương làm cái nghề mà sẽ chỉ viết tài tử. Nghe hai tiếng “nhà nghề”, cô Trang có khó chịu không?
- Em chưa dám có ý kiến.
- Giết heo là một cái nghề. Chôn người cùng là một cái nghề. Chẳng lẽ, văn chương cũng là cái nghề luôn?
- Thầy khó tính?
- Hình như vậy. Nhưng cô Trang yên tâm, tôi không khó tính với cô đâu. Nếu mai này tôi viết truyện tôi sẽ viết riêng cho cô đọc kỷ niệm một lần đi xuồng.
Trang chớp mắt. Nàng chèo xuồng nhanh hơn và không chịu nhìn tôi nữa. Một lát sau, nàng nhấc bơi chèo để vào lòng xuồng. Tôi hỏi:
- Tới nơi rồi ạ?
Nàng đáp:
- Dạ, kể như đã tới nơi.
- Sao lại kể như…?
- Vì còn phải lội bộ một quãng.
Trang đứng dậy đưa tay nắm một đám có trên bờ. Chiếc xuồng ngừng lại:
- Thầy lên trước đi.
- Trang còn làm gì?
- Em buộc xuồng cho nó khỏi trôi.
- Không sợ mất xuồng ư?
- Thưa thầy ở quê nhà em ai cũng có vài chiếc xuồng là ít.
Nàng ngó tôi, mỉm cười:
- Mà nhỡ có ai thích giỡn, lấy mất xuồng, em sẽ đi bộ với thầy về tỉnh.
Tôi nói:
- Như thế sẽ có thêm kỷ niệm đi bộ… Và tôi mong bị mất xuồng.
Tôi bước lên bờ trước. Trang buộc xuồng lại rồi lên sau. Chúng tôi đi hết một thôi bờ ruộng, qua chiếc cầu gỗ không tay vịn là vào tới quê ngoại của Trang. Đây cùng là lần đầu tiên tôi biết một làng thôn miền Nam. Làng thôn miền Nam không giống làng thôn miền Bắc. Nhưng mùi rơm, mùi khói thì chẳng khác gì. Mùi thơm của quê hương Việt Nam, ở miền nào, cùng ngai ngái ca dao. Trang và tôi đang đi trên con đường thơm như con đường thơm trong thơ Huy Cận. Sự yên lặng khiến tôi mơ về dĩ vãng. Khi tôi lớn lên, chiến tranh lan tràn. Bom đạn đã cày nát những con đường thơm của quê hương. Cả những con đường mòn hai bên đầy cỏ dại cũng in đầy dấu giày tàn bạo. Tôi chưa kịp hưởng những đêm trăng đi chơi với người yêu trên đường làng. Nhất là, chưa ngồi bên người yêu dưới gốc cây bưởi chuyện trò đến đêm khuya, đợi hoa bưởi nở thơm ngát để biết rằng đêm đã khuya. Tôi thèm thuồng một quê hương thanh bình thơ ấu quá. Thuở bé, không biết hưởng thanh bình, lớn lên, thanh bình ngập chìm vào lửa đạn. Tôi nghĩ một nửa gia tài mộng mơ của những người bằng tuổi tôi đã tàn lụi vì khao khát đi giữa đường quê thanh bình.
Nhưng hôm nay, tôi đang đi giữa đường quê thanh bình. Chiến tranh đã ngủ dưỡng sức. Hãy ngủ yên, ngủ mệt, ngủ quên thức dậy, chiến tranh! Con đường tôi đang đi vừa kịp lành những vết nứt nẻ. Tôi van xin bom đạn đừng làm nứt nẻ thêm một lần để con đường này phải nghẹn ngào, rên xiết.
- Thầy Hoài đang nghĩ gì vậy?
- Về quê nhà tôi.
- Thầy nhớ nhà à?
- Nhớ mỗi giàn hoa thiên lý. Chắc giàn hoa thiên l&yacun31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=">Con Suối Ở Miền Đông

Xem Tiếp »

!!!13786_4.htm!!!te; của mẹ tôi đã chết héo rồi. Vì mẹ tôi nhớ tôi, mẹ tôi bận khóc lóc, không có thì giờ chăm sóc giàn hoa nữa.
- Nhà ngoại em cũng trồng một giàn hoa lý.
- Thế thì tôi phải ngồi dưới giàn hoa kể cho Trang nghe chuyện quê nhà tôi mới được.
Hai chúng tôi đã đứng trước cổng nhà. Căn nhà ngói không đồ sộ nhưng có vẻ khang trang lắm. Không thấy dấu vết của binh lửa. Chắc chiến tranh chưa kịp qua đây thì đã thấm mệt. Những cây cau trong vườn nhà ngoại Trang thẳng tắp. Dây trầu leo quấn quýt lấy thân cau. Trang hồn nhiên gọi:
- Ngoại ơi! Ngoại ơi!
Một bà già đẩy cửa bước ra thềm. Trang chạy nhanh lại ôm chằm lấy bà:
- Con đây nè, ngoại…
Bà ngoại Trang vẫn còn mạnh khoẻ. Cụ vuốt ve tóc cháu gái:
- Bãi trường hả, con?
Trang nũng nịu:
- Không có đâu, con trốn học về thăm ngoại đó.
Trang để mặc tôi đứng một mình. Tự nhiên, nước mắt tôi ứa ra. Tôi tưởng tượng mẹ tôi vừa thấy tôi trở về nhà sau hai năm trời phiêu bạt. Nếu mẹ tôi được ôm tôi trong vòng tay của người, mẹ tôi sẽ khóc nức nở. Bà ngoại Trang đã nhìn rõ tôi. Cụ hỏi cháu:
- Con về với ai đó?
Trang cũng quay lại ngó tôi:
- Đố ngoại biết.
Bà cụ ghé sát tai cháu nói gì. Trang lắc đầu quầy quậy:
- Không phải đâu ngoại, thầy Hoài mà…
Tôi đã hiểu bà cụ nói gì rồi. Tôi với bước tới lễ phép:
- Chào cụ ạ!
Bà ngoại Trang vẫn để nguyên cho cháu ôm mình, hỏi tôi:
- Thầy dạy cháu Trang à?
Tôi đáp:
- Thưa cụ, cháu dạy ở Mỹ Tho.
Trang đã buông ngoại ra và nói:
- Thầy Hoài trọ ở nhà má con. Thầy người Bắc đó, ngoại ơi!
Bà cụ ngạc nhiên:
- Mãi ngoài Bắc lận? Xa thế mà sao vô đây?
Trang nắm lấy tay ngoại:
- Thầy Hoài di cư mà, ngoại.
Bà cụ lắc đầu:
- Di cư xa dữ, hả? Xa vậy, di cư làm chi?
Bà cụ kéo tay tôi lôi vào trong nhà, Cụ không biết gì về một người Bắc di cư hay những người Bắc di cư. Cụ chỉ biết tôi là một người xa nhà. Dưới mắt cụ, tôi còn nhỏ quá. Và cụ ngờ rằng trẻ con xa nhà đều khổ như nhau. Trưa hôm ấy, tôi được ăn một bữa cơm canh chua cá lóc và cá lóc kho tiêu. Bữa cơm ngon như bữa cơm trưa ở quê nhà tôi có riêu cá chép. Bà cụ bắt tôi ăn thật nhiều. Tự nhiên, tôi cảm thấy như mình cũng là con cháu của bà cụ. Và tôi gọi cụ bằng “ngoại” chẳng ngỡ ngàng chút nào. Ăn cơm xong, tôi mượn chiếc chiếu, trải dưới giàn thiên lý, nằm hút thuốc lá. Rồi tôi thiếp ngủ đi.
Khi tôi mở mắt, Trang đã ngồi gần đó. Nàng mỉm cười:
- Thầy ngủ một giấc dài đấy nhé!
Tôi đưa tay xoa mặt:
- Dài chừng bao nhiêu, cô Trang?
Trang ngước nhìn lên giàn thiên lý:
- Chừng một giấc mơ đẹp.
Bỗng nàng hỏi:
- Giàn thiên lý của má thầy ngoài Bắc có ngựa trời không?
Tôi ngồi vụt dậy:
- Ngựa trời à?
- Dạ ngựa trời có hai cái kiếm. Thầy nhìn con ngựa trời xem. Trông nó ngộ hết sức.
Tôi ngước mắt theo tay nàng chỉ:
- À, có, Trang ạ! Con bọ ngựa. Con bộ ngựa đấy. Nó là hiệp sĩ với hai đoản đao trong trí tưởng tượng của tôi thời thơ ấu. Tô Hoài đã viết truyện “Tráng sĩ bọ ngựa”, Trang đọc chưa?
Nàng lơ đãng nhìn vệt nắng xuyên qua lá xanh. Và không trả lời câu hỏi của tôi.
- Thầy Hoài thích quê ngoại của Trang không?
- Tôi yêu quê ngoại của Trang lắm.
- Thầy muốn sống mãi ở đây không?
- Đó chỉ là niềm mơ ước.
- Tự nhiên, thầy Hoài ạ, em muốn sống mãi ở đây.
- Trang hết muốn học sư phạm à?
- Dạ.
- Sao vậy?
- Vì khi ra trường, chẳng hiểu mình sẽ được điều chi.
- Trang thích được một điều chi?
- Một điều mơ ước.
- Mơ ước gì?
- Mơ ước một điều làm mình sung sướng trọn đời.
- Ai cũng mơ ước được hạnh phúc suốt đời. Chỉ tiếc hạnh phúc không giản dị như mình mơ ước.
- Thế là gì hả, thầy Hoài?
- Là Trang hãy lo học hành đi. Đừng mơ ước hạnh phúc. Hạnh phúc nó chỉ đến với người không ước mơ.
- Thầy không mơ ước hạnh phúc à?
- Không.
- Thầy đợi hạnh phúc nó đến?
- Hình như vậy.
- Nhỡ nó không đến thì sao?
- Thì thôi.
- Thầy không buồn ư?
- Bây giờ hay bao giờ?
- Bao giờ hạnh phúc nó không đến.
- Bấy giờ sẽ xét xem nên buồn hay nên không buồn.
Tôi biết Trang đã muốn nói gì. Và phải tìm cách lôi Trang ra khỏi niềm mơ ước của nàng. Tôi không cấm Trang mơ ước. Nhưng Trang chưa nên ước mơ hạnh khúc suốt đời của nàng. Trang sẽ hối hận. Vì, dưới hai mươi tuổi, toan tính một chuyện gì cùng vụng dại. Hạnh phúc mà Trang muốn nắm gọn trong tay không thể là thứ hạnh phúc phù du. Trời không nỡ bắt Trang chịu oan nghiệt. Trang thì chẳng hiểu rằng cái lưới oan nghiệt sẵn sàng chụp lấy nàng. Nên nàng không bằng lòng những câu trả lời nhấm nhẳn của tôi.
- Nhà văn đa cảm lắm, phải không?
- Hình như vậy.
- Thầy luôn luôn “hình như”. Trong tâm tưởng thầy, không có gì đang “xác định” cả hay sao?
- Hình như vậy.
- Chắc thầy thích nghi ngờ? Thôi, kệ thầy. Em muốn hỏi thầy một câu, thầy không được trả lời  “hình như” đấy nhé!
- Trang hỏi đi.
- Có khi nào thầy giả đò chối từ một điều quan trọng của đời người khác không?
- Trang muốn nói gì thế?
Nàng đứng dậy:
- Đêm nay trăng còn lu, nhưng em vẫn cứ dẫn thầy đi chơi trên đường làng.
Trang bỏ vào nhà. Tôi lại nằm hút thuốc lá Capstan và nhìn lên giàn hoa. Tôi nghĩ về Trang. Nàng như một chiếc hoa vừa rớt nhuỵ hồn nhiên để sắp kết trái. Từ lúc nào, nhuỵ hồn nhiên rớt, tôi không biết. Những tôi đoán chừng nó đã rớt xuống mặt con lạch cắt đôi cánh đồng bao la. Thiên thai không có tuổi. Bà Hương Lan nói thế. Tôi nằm, chờ nắng yếu dần. Cho tới khi con bọ ngựa lẩn vào một khóm lá. Nắng tắt. Buổi tối làng thôn nghe dậy nỗi buồn.
Tôi đốt điếu thuốc lá mới, nhìn khói thuốc bay và nhớ bà Hương Lan. “Nhớ nhà châm điếu thuốc, khói huyền bay lên mây”.
Buổi tối, cơm nước xong, Trang rủ tôi đi chơi. Chúng tôi đi trên con đường làng như con đường thanh bình tôi mơ ước. Chính ra, tôi mới là người mong mỏi được sống ở đây trọn đời. Vì tôi đã biết chiến tranh. Trang dẫn tôi đến bến đò. Chúng tôi ngồi trong túp lều trống tung bốn bề. Dòng sông buồn. Một vài chiếc xuồng máy cột chặt ở bờ sông còn buồn hơn. Dường như có sương rây nhẹ trên mặt sông. Trời chỉ có sao. Và sao cùng đủ soi tỏ quang cảnh chung quanh tôi.
- Thầy Hoài…
- Tôi nghe đây.
- Một nhà văn thì phải biết rõ tâm sự của người khác, tâm sự ấy chẳng cần bộc lộ, đúng thế không?
- Đúng, nhà văn nổi tiếng cơ.
Trang khẽ thở dài. Tôi nói tiếp:
- Còn tôi, tôi chưa là nhà văn, làm sao tôi biết được tâm sự của người khác.
Trang hỏi:
- Nhưng thầy biết tâm sự của má em?
Tôi lắc đầu:
- Không, tôi không biết tâm sự của bác. Mà biết làm gì?
Trang bứt những chiếc cỏ:
- Thầy nghĩ gì về má em?
Tôi đáp ngay:
- Tôi quý mến bác.
Trang xích gần tôi:
- Thầy nghĩ gì về em?
Tôi nhìn sang xóm làng bên kia sông:
- Trang hồn nhiên lắm.
- Em còn bé, chưa biết gì, hả?
- Tôi muốn thế.
- Thầy ác vô cùng.
Trang trách tôi ác. Tôi lặng thinh. Và Trang gục đầu lên đôi tay, khóc rấm rứt. Tôi bật lửa châm thuốc hút, ngồi nghe tiếng nức nở của Trang. Bến đò vắng. Sông bãi bao la. Trang khóc một lúc, ngẩng mặt nhìn tôi:
- Tại sao thầy không nghĩ rằng em đã lớn, em biết nhiều chuyện?
Tôi ngần ngại mãi mới đưa tay vỗ nhẹ vai Trang:
- Biết nhiều chuyện, Trang sẽ hết hồn nhiên, sẽ khổ.
Trang nắm chặt lấy bàn tay tôi:
- Em không sợ khổ.
Tôi để mặc Trang nắm tay mình. Lòng tôi cùng rộn ràng khôn tả. Tôi nói:
- Ở đây lạnh quá, mình đi về kẻo ngoại trông.
Trang xích gần tôi thêm nữa và ngả đầu trên vai tôi:
- Thầy chỉ biết nói vậy thôi à?
Tôi rút khăn thấm nước mắt cho Trang:
- Hãy để tôi chỉ nói vậy.
Trang lại khóc. Khóc nức nở. Tôi mất công dỗ dành Trang thật lâu. Rồi tôi sợ Trang. Tôi rất sợ nghe tiếng khóc. Tôi đâm ra bối rối và chỉ còn biết nhìn những vì sao nhấp nháy trên nền trời. Tiếng nấc của Trang làm rung vai tôi, làm rung tim tôi.
- Em đừng khóc nữa, Trang!
- Vâng, em sẽ nín. Nhưng anh phải nói gì với em đi.
- Tôi sẽ phải nói gì?
- Thầy… anh…, anh Hoài nói gì cũng được.
- Tôi kể cho Trang nghe một câu chuyện nhé!
- Dạ.
Trang vẫn gục đầu trên vai tôi. Những vì sao trên trời nhấp nháy nhanh hơn như muốn giúp tôi thêm ánh sáng. Tự nhiên tôi nghĩ đến truyện ngắn “Những vì sao” của Alphonse Daudet. Tôi muốn ví mình như gã chăn cừu và Trang là cô chủ. Và tôi kể “Những vì sao” cho Trang nghe. Nàng không khóc nữa. Khi câu chuyện dứt, tiếng nấc của Trang cũng chẳng còn. Nàng ngẩng đầu lên, đưa tay vuốt tóc.
- Thưa thầy, câu chuyện thần tiên quá.
- Trang hiểu không, chừng con người đứng giữa thiên nhiên bao la, trái tim của họ chỉ nghĩ tới thần tiên.
- Em xin lỗi thầy.
- Trang có lỗi gì đâu?
- Em đã làm phiền thầy.
- Không, em gái tôi ở nhà hay vòi vĩnh tôi lắm. Nó cũng hay khóc giống Trang. Tôi thường bảo nó hễ khóc thì mơ mộng sẽ chết. Nó sợ chết mơ mộng, vội vàng nín ngay… Tôi coi Trang như em gái tôi. Khuya quá rồi, tôi đưa Trang về.
Trang ngoan ngoãn đứng dậy. Nàng đi không vững. Tôi phải khoác tay lên vai nàng, dìu nàng đi. Như một năm nào xa xôi ở quê nhà, tôi đã dìu em gái tôi từ phòng mạch trở về.

Xem Tiếp: Chương 4

Truyện Cầu Mơ Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương Kết
Truyện Cùng Tác Giả Áo tiểu thư Ảo Vọng Tuổi Trẻ Bầy Sư Tử Lãng Mạn Cái Diều Cám Ơn Em Đã Yêu Anh Cầu Mơ Con Sáo Của Em Tôi Con Suối Ở Miền Đông Con Thúy Đại dương trong lòng con ốc nhỏ

Xem Tiếp »