Dịch giả: Phan Nghị
- 2 -

    
ỆNH VIỆN PITIE PORTLAND, OREGON
Thứ ba, 10 giờ 30
Một buổi sáng có sương mù và lạnh. Trời có thể mưa. Nhưng Scully chẳng để ý gì tới thời tiết. Bởi phần lớn trong ngày cô sẽ phải làm việc trong nhà xác của thành phố cùng với Mulder.
Scully đã thực hiện nhiều cuộc phẫu thuật từ lúc khởi đầu nghề nghiệp. Cô quá quen thuộc đối với việc lôi những xác chết ra khỏi ngăn tủ lạnh. Tuy nhiên cô vẫn không chịu nổi không khí của những nơi ấy.
Viện pháp y Portland, như đa số các nhà xác ở Mỹ, nằm ở tầng hầm cuối cùng của bệnh viện trung ương. Bốn bề vắng ngắt.
Bác sĩ pháp y, Frank Quioton, là một người đàn ông trạc 50 tuổi, tóc bạc và luôn tươi cười. Thấy ông có vẻ như một thầy thuốc gia đình, Scully cho rằng ông đóng kịch như tất cả các bác sĩ pháp y trên thế giới.
“Ông đã xét nghiệm bao nhiêu thanh niên chết về tai nạn mô-tô. Nghiên cứu bao nhiêu vụ tự tử và án mạng? Và mổ xẻ bao nhiêu xác chết? Scully tự hỏi.
Ông bắt tay hai thành viên của FBI.
Cám ơn bác sĩ – Mulder nói. Như tôi đã giải thích trong điện thoại, cô Scully mà tôi giới thiệu với ông đây cũng là thầy thuốc. Tôi nghĩ rằng ý kiến của cô ấy sẽ có thể giúp ích cho chúng ta.
Scully tiến lên một bước.
Tôi chỉ quan sát xác chết một chút thôi – nàng nòi. Tôi đã đọc bản báo cáo của ông. Tôi không rõ cái gì đã gây ra những khối u ghê gớm như thế, cần phải đợi kết luận của Trung tâm dịch tễ quốc gia.
Ông bác sĩ già lắc đậu.
Vụ này quả là kinh khủng. Trong quá trình hành nghề, tôi chưa bao giờ thấy một hiện tượng như vậy! Tôi sẽ vui mừng biết bao nếu cô có thể nói ngược lại sự chẩn đoán của tôi. Nhưng nếu tôi không lầm thì đây là một chứng bệnh mới, và chúng ta vô phương chống đỡ. Tôi đã để thi hài trong một phòng lạnh đặc biệt, và sử dụng thuốc tẩy uế theo đúng nguyên tắc.
Ông ra dấu cho người phụ nữ mang lại cho ông cuốn sổ tay rồi nói:
Cái xác ở trong 4E.
Mọi người đi vào một hành lang. những bức tường đều có những ngăn kéo, mỗi cái chứa một xác chết. Đa số những người ấy chết với cái chết tự nhiên: bệnh tim mạch, già nua nhưng ngăn kéo 4E thì khác hẳn. Nó được niêm phong bằng một cái băng màu vàng và đen. Mảnh giấy ghi hàng chữ Nguy hiểm! Lây nhiễm sinh học! Dán ở phía dưới con số.
Cám ơn Edmund, anh có thể đi theo chúng tôi – bác sĩ Frank nói với người phụ tá.
Scully tỏ ra quan tâm tới nội vụ, nhưng Mulder thì lừng khừng đứng yên tại chỗ.
Frank báo cáo miệng:
Khi người ta mang đến cho chúng tôi cái xác này, chúng tôi nhìn thấy những khối u, những bầm tím, những hạch xoài. Thông thường những triệu chứng ấy chỉ xuất hiện trong những bệnh tật với sự tiến triển chậm. May mắn thay cho tất cả mọi người, các cảnh sát khi phát hiện ra nạn nhân đã hết sức thận trọng. Khi nhìn thấy hiện tượng kinh khiếp ấy, họ lập tức sử dụng biện pháp phòng ngừa: bao tay, túi nhựa có khóa kéo Éclair… Lúc xác chết được đưa tới, chúng tôi ném vào lò thiêu tất cả những cái gì đã đụng chạm vào anh ta. Tôi thực hiện cuộc xét nghiệm đầu tiên trong những điều kiện thông thường đối với sự cách ly, kiểm dịch… thật thế, cái xác phủ đầy một thứ nước nhầy, một chất nhớt.
Chất nhớt? Mulder lặp lại.
Với sự giúp đỡ của Edmund, người phụ tá, Frank gỡ niêm phong rồi mở ngăn kéo. Cái “túi thịt” cũng được dán một mảnh giấy khác: Không được mở. Tang vật cảnh sát.”
Edmund đeo bao tay khử trùng và kéo ngăn 4E ra.
Một làn sương trắng tỏa khắp phòng và nhiệt độ hạ xuống, Edmund mở cái túi, rồi từ từ gỡ tấm ra phủ xác chết.
Các vị coi đó – hắn thầm thì. Ở đây có nhiều cái kỳ quặc, nhưng chưa bao giờ lại thấy có tình trạng như thế này?
Edmund tránh ra một bên. Mulder, Scully và Frank tiến lên. Mùi thuốc tẩy uế nặng nề khó chịu. Người ta cảm thấy bị cay mắt. Scully nghiêng mình để nhìn cái cảnh tượng kinh khủng ấy, cô đã tiếp xúc với nhiều xác chết, nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này. Thi thể của người gác dan phủ đầy máu đông và những bọc máu. Có những cái bướu kỳ lạ trên tứ chi và nửa mình trên, giống như bắp rang nổ ở dưới da.
Cô cắn môi.
Tôi không hiểu – Cô nói. Tại sao những khối u lại phát triển mau chóng như thế. Tốc độ của sự tái sản xuất các tế bào của con người không thể thực hiện nhanh được như vậy.
Cô cúi xuống để quan sát thi thể gần hơn. Nó bị bao phủ bởi một cái màng mỏng của chất nhờn nhầy nhụa.
Biết rằng đây là một trường hợp có thể lây nhiễm cao, nên chúng tôi đã xử lý một cách thận trong trường hợp này. Các chuyên viên của CDC, Trung tâm điều hành những vụ báo động dịch tễ, đang tiến hành những cuộc phân tích. Ngày một ngày hai, họ sẽ phải gửi cho chúng tôi những kết quả của họ. Tôi cũng đích thân thực hiện những thí nghiệm hạn hẹp, do những điều kiện an toàn. Hơn nữa, tại bệnh viện này, chúng tôi không có đủ phương tiện cần thiết, bác sĩ Frank nói.
Scully ném một cái nhìn về phía bạn đồng nghiệp.
Đúng như anh nói, vụ này quả thật là kỳ lạ.
Viên phụ tá đưa cho Scully một đôi găng tay. Cô đeo vào tay, rồi sờ lên thi thể người quá cố.
Cô giật mình.
Bình thường, khi sờ vào một xác chết thì thấy nó lạnh và cứng. Nhưng cái xác này lại nóng bỏng.
Người đàn ông này được đưa tới đây khi nào?
Hôm chủ nhật – bác sĩ Frank đáp.
Từ chỗ đứng, Scully có thể cảm thấy cái lạnh dữ đội của vách tủ lạnh.
Nhiệt độ thể xác của đối tượng này? Cô hỏi.
Ông bác sĩ đặt một tay – dĩ nhiên là đeo găng - lên xác chết. Lập tức ông thay đổi thái độ và quay lại người phụ tá trung thành luôn nhìn ông với vẻ mặt tươi tỉnh.
Edmund, chuyện gì đã xảy ra? Bộ những cái tủ lạnh thổ tả này bị hỏng sao? Người thằng chả nóng hổi? Cần phải giữ độ lạnh nếu không nó sẽ bị hư thối và cảnh sát sẽ chẳng còn gì để làm chứng cứ, và hãy nghĩ tới vấn đề cách ly kiểm dịch.
Người phụ tá lắp bắp:
Tôi… tôi sẽ đi tìm ê kíp bảo trì, thưa ông. À… không, trước hết tôi phải coi xem…
Anh mở cánh cửa sập ở trong tường, xem xét sự vận hành của cái tủ lạnh khổng lồ.
Nhưng tôi không thể hiểu nổi – anh ta nói tiếp. Không có một sự trục trặc nào.
Frank nổi đóa.
Nếu anh không tin thì thử sờ vào đó xem sao?
Edmund run lên, ông chủ của anh đã nói với một giọng gay gắt:
À, ồ… không tôi rất tin ở ông. Tôi sẽ đi tìm ê kíp… vâng, đúng thế!
Lẹ lên!
Frank rút đôi găng ra với một thái độ ghê sợ. Scully cũng làm như vậy. Đi tẩy uế bàn tay.
NGÔI NHÀ CỦA GIA ĐÌNH KENNESSY – TIGARD, ORGEGON
Thứ ba, 12 giờ 17
Ngôi nhà được xây dựng cùng kiểu với những nhà khác trong phố. Khu ngoại ô của Portland ấy hoàn toàn yên tĩnh. Những mái nhà thẳng hàng và những khu vườn giống hệt nhau tạo nên một khung cảnh tuy đơn điệu nhưng thanh bình.
Mulder nhìn ngôi nhà.
Kỳ thật! Anh cứ nghĩ rằng nơi cư ngụ của một giám đốc trung tâm nghiên cứu thì phải sang trọng hơn chứ. Và anh cứ tưởng sẽ nhìn thấy một cái áo trắng phấp phới bay ở phía trên hộp thư.
Cuộc sống của các nhà nghiên cứu không được sung túc như thiên hạ nghĩ đâu, Scully phản bác. Họ làm gì có thì giờ để chơi golf bên cạnh hồ bơi. Và rồi…
Cô thở dài trước khi tiếp lời:
… Thiết tưởng cũng nên biết gia đình Kennessy có những khoản chi tiêu đặc biệt.
Scully và Mulder đã có đầy đủ những thông tin về Kennessy do cư dân ở trong vùng cung cấp. Bệnh bạch cầu tai hại đã giết dần mòn đứa con trai của họ, khiến họ mỗi ngày một nghèo đi. Họ đã phải chi tới đồng đô la cuối cùng để trị liệu cho nó.
Chỉ cần hai bước chân là đến cửa ngôi nhà. Trời lạnh và ẩm ướt. Mulder giơ tay lên vuốt tóc, còn cô bạn thì xem xét lại các khuy áo của mình.
Trước tình trạng khủng khiếp của thi hài ở nhà xác, Scully tự nhủ bằng bất cứ giá nào cũng sẽ tìm hiểu xem nhà khoa học ấy đã chế tạo cái gì trong phòng thí nghiệm của ông ta. Tất cả những tài liệu liên quan tới sự hoạt động của DyMar đã bị hủy hoại trong cơn hỏa hoạn. Mulder cũng chẳng thu lượm được một thông tin nào từ chính phủ liên bang, cơ quan tài trợ cho DyMar.
Mulder quan tâm đến việc này bởi sự huyền bí vây chung quanh nó, còn Scully thì bởi khía cạnh khoa học.
Tuy nhiên, Scully biết rằng Patricia, góa phụ của Kennessy, sẽ chẳng giúp được gì cho cô. Các nhà khoa học ít khi nào nói những công trình của họ cho vợ con. Nhưng tình trạng hiện tại buộc cô phải gặp tất cả những người quen biết nhà bác học.
Khi tới gần cửa, Mulder đảo mắt nhìn chung quanh. Màn cửa sổ khép, nhà chứa xe cửa đóng then cài. Không có một dấu hiệu nào của cuộc sống. Anh chợt nhìn thấy ở dưới đất tờ nhật báo cùng với một chồng thư. Đó là tờ Portland Oregonian, ấn bản đặc biệt của ngày chủ nhật… Và hôm nay là thứ ba!
Theo những dò hỏi của tôi, Mulder nói, Patricia là một nhà kiến trúc. Bà đã chỉ đạo xây cất nhiều cao ốc. Cái gì đã khiến bà ấy tới đây cư ngụ và sống trong ngôi nhà tiền chế này?
Scully ném cho anh một cái nhìn chế nhạo.
Em thấy nơi đây còn tốt hơn căn hộ của anh nhiều.
Mulder không đáp và định bấm chuông, nhưng thình lình Scully ngăn lại.
Coi kìa!
Một kẻ nào đó đã bẻ khóa cửa rồi dùng thanh gỗ che lỗ thủng để khách bộ hành không nhìn thấy.
Mulder, em nghĩ rằng trong trường hợp này, chúng ta có thẻ vào mà không cần phải có giấy phép lục soát.
Theo nguyên tắc, Mulder hét to:
Cảnh sát liên bang, không được động đậy!
Chỉ có tiếng vang của căn nhà trả lời anh.
Trong nhà khong có nơi nào mà không bị lục soát.
Tủ, ngăn kéo bị hất tung. Thảm lát sàn bị rạch tan hoang, tất cả những bìa sách cũng bị xé ra. Người ta không bỏ sót một tí gì.
Scully lắc đầu:
Sẽ chẳng tìm thấy một ai đâu. Chúng ta đến quá muộn.
Tuy vậy, họ cũng lục soát tất cả những căn phòng của ngôi nhà.
Scully tự hỏi không biết kẻ nào đã phá phách như thế. Những kẻ khủng bố của nhóm sinh thái đã thiêu hủy phòng thí nghiệm DyMar, không có lý do nào để thù ghét luôn cả gia đình David Kennessy. Liệu Patricia và Jody có ở đây lúc chúng đến không?
Mulder hình như đọc được ý nghĩ của cô, bởi anh thầm thì:
Chúng đã bắt cóc họ.
Vâng, hoặc giết chết
Họ quan sát tất cả các căn phòng. Scully cứ sợ mình sẽ phát hiện bà mẹ và cậu con trai miệng bị dán băng keo, bị trói, hoặc bị hạ sát với một viên đạn vào đầu.
Nhưng họ không tìm thấy một ai.
Cần phải báo cho phòng thí nghiệm – Mulder nói. Chúng ta cần biết xem tên tội phạm hoặc bè lũ của chúng có để lại dấu tay trên các đồ vật không.
Bởi một lý do không rõ, chúng đã lục soát kỹ càng văn phòng của bé Jody. Giường bị lật tung,  đệm bị banh ra, đồ đạc bị tháo gỡ, đồ chơi bị phá phách.
Thô bạo và chính xác làm sao! Chúng không bỏ sót một tí gì! Scully thở dài.
Mulder thu nhặt những cái gì còn lại của mô hình chiếc phi thuyền không gian ở trong phim “Ngày độc lập”. Đứa bé đã bỏ nhiều công phu để lắp ráp với niềm say mê.
Mulder đứng dậy:
Âm mưu chống DyMar và cái chết của bác sĩ Kennessy xảy ra cách đây hai tuần. Chúng ta không biết bọn chúng tới phá phách nhà này vào thời điểm nào. Những người lối xóm không thấy có dấu hiệu nào bất thường.
Chú bé Jody đang ở trong thời kỳ trị liệu. Nó phải đi đi về về, nằm dài ngày ở bệnh viện, có thể đã rời khỏi tiểu bang đi New Yor để cho các chuyên viên khám bệnh. Như vậy xóm giềng phải biết ngôi nhà vắng người.
Scully cúi xuống nhặt một chiếc máy bay nhỏ, cánh bị gãy. Một sợi dây nylon buộc vào đó. Có lẽ nó được treo trên trần nhà trước thảm kịch. Người ta đã mở cả cánh máy bay. Người ta muốn tìm cái gì?
Thôi được, chúng ta cần phải đi xem những gì còn lại của DyMar – Mulder nói.
Scully nghĩ chắc bé Jody sợ lắm. Nó đã bị suy sụp bởi ung thư và biết chắc mình sẽ chết. Nếu người ta bắt cóc đứa bé ấy tức là người ta đã ngăn cản không cho nó được tiếp tục trị liệu. Đó là một tội ác!
Scully đi theo Mulder đi vào bếp. Họ phải cẩn trọng để không giẫm lên những mảnh thủy tinh và những cốc tách ngổn ngang trên đất.
Scully nổi giận:
Cần phải mở một hồ sơ mới về vụ này: đây là một vụ bắt cóc. Bé Jody chỉ còn vài tháng để sống. Nó phải được nhập viện.
Mulder xem xét kỹ một cái tô bằng nhựa màu da cam để cho chó ăn. Người ta đã ghi tên nó: VADOR. Những thức ăn trong tô đã bị mốc meo.
Scully, cái nhóm người điên khùng ấy có thể bắt cóc Jody và Patricia, nhưng chúng làm gì với con chó? Nó ở đâu? Nếu nhiều ngày qua không được ăn, hiển nhiên nó phải sủa vang trước cái lạnh!
Cô bạn anh cau mày:
Trừ phi chúng cũng bắt cóc cả con chó.
Mulder gãi cằm:
Con chó? Nhưng tại sao lại bắt cóc nó?
Giây phút im lặng.
O.K, chúng ta sẽ ghi thêm tên con Vador vào danh sách những người mất tích – Mulder kết luận. Vụ việc này chắc còn nhiều rắc rối.
MỘT VÙNG QUÊ Ở OREGON
Thứ ba, 14h05
Sẽ chẳng bao giò có ai tìm thấy họ, trong ngôi nhà nằm ở cuối những rặng đồi mênh mông của vùng Oregon hẻo lánh.
Cô đơn, tuyệt vọng, Patricia và Jody cố gắng để không bỏ cuộc và để tiếp tục sống bình thường, hoặc chí ít cũng ra vẻ như vậy.
Nhưng ngày lại ngày, nỗi sợ là thế giới của họ. Một cái bóng cây cũng làm họ giật mình. Tiếng động của đêm tối khiến họ khiếp hãi. Nhưng họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài sự chịu đựng.
Patricia đi về phía cửa sổ, vạch rèm ra và ngắm nghía bé Jody đang chơi với trái banh quần vợt. Nó ném banh vào bức tường bên ngoài. Patricia biết rõ ngôi nhà này. Chính nàng đã vẽ kiểu cho người cộng tác với chồng nàng: Jeremy Dorman. Xưa kia, nàng rất thích chốn này. Nhưng sự thể đã thay đổi. Và cảnh vật cũng vậy: nạn phá rừng không còn là một từ ngữ trừu tượng trong vùng này.
Một chiếc máy bay vừa bay vụt qua. Patricia chăm chú theo dõi nó để biết chắc rằng nó không chup hình. Nang luôn phải đề phòng. Lo âu là chuyện thương nhật của nàng từ khi DyMar bị tấn công. Nhưng bé Jody thì vẫn kiên cường, dũng cảm… giống như khi người giải thích cho nó biết rằng nó bị bệnh bạch cầu.
Với Patricia, những âm mưu, những kẻ sát nhân, tất cả những cái đó không máy quan trọng, bời không có gì có thể khủng khiếp hơn là nhìn thấy đứa con trai của mình chết…
Jody lại ném trái banh nhưng không trúng tường. Trái banh lăn trong đám cỏ. Jody thích thú chạy theo nó lấy chân đá nó như một cầu thủ. Patricia dựa vào cửa sổ để nhìn thấy đứa bé rõ hơn. Từ sau tai ương, nàng không bao giờ rời xa con, dù chỉ một giây.
Bây giở Jody có vẻ khỏe hơn. Nàgn không biết mình nên ngợi khen hay nguyền rủa người chồng của mình về những điều ông ta đã làm.
Đứa bé thản nhiên chịu đựng hoàn cảnh. Đã một tuần rưỡi nay, nó sống với mẹ tại vùng hẻo lánh này. Nhưng nó không còn sợ hãi nữa… Nó vui đùa để quên đi nỗi buồn.
Tám tuổi, tuổi thơ ấu vô tư. Nhưng Jody không còn là một đứa bé như những đứa trẻ khác. Nó có những vấn đề. Số phận chưa quyết định để cho nó sống hay chết.
Patricia rời khỏi nhà và thận trọng không để lộ sự lo âu của mình.
Một lần nữa, mây tan. Người ta có thể nhìn thấy một vùng trời cao rộng. Không khí hãy còn ẩm ướt. Đêm hôm trước có một trận mưa rào. Patricia sực tỉnh và ngắm nhìn trần nhà trong nhiều giờ lúc nghe mưa rơi và gió thổi.
Nhưng chiều nay trời đẹp. Hàng thông reo vi vu. Bùn phủ đầy con đường dẫn ra quốc lộ đã khô dần.
Trên lý thuyết, chẳng có ai biết sự hiện hữu của ngôi nhà. Jeremy chẳng có điện thoại, cũng chẳng có đèn điện. Một sự cách biệt hoàn toàn. Patricia hy vọng sẽ không có ai tới đây để tìm hai mẹ con nàng.
Bất chợt, đứa bé ném trái banh vào trong một vũng bùn. Nó lầu bầu và chạy đi lượm. Thấy trái banh ướt sũng không còn dùng được nữa, nó cáu kỉnh vứt vào một gốc cây. Patricia lại gần mỉm cười hỏi:
Chuyện gì vậy cưng?
Jody đong đưa một chân và đăm đăm nhìn xuống đất.
Hãy nói cho mẹ biết có điều gì không suôn sẻ?
Con Vador – sau cùng nó giải thích. Con chó chay đi đâu tối hôm qua vẫn chưa trở về.
Con chó… à phải. Patricia hiểu ra.
Jody, con cứ yên tâm. Vador khôn lắm. Không có chuyện gì xảy ra với nó đâu. Đứa bé và con chó cùng một tuổi. Và chúng cùng lớn lên. Bảy năm về trước, hình như tất cả mọi sự đều tốt đẹp. Patricia hãy còn nhớ đứa bé ngồi ở giữa phòng thí nghiệm, cố gắng bập bẹ “ba”, “má” và “Darth Vador”. Nhưng tên con chó phát âm khó quá. Jody chỉ có thể nói “Naf Vrrrr”. Biết bao lần David và Patricia đã rũ ra cười khi nhìn con trai họ chơi đùa với con vật. Vador cố gắng chạy trên sàn gạch vuông của phòng thí nghiệm, nhưng những cái móng của nó làm cho nó trượt dài. Nó đành xoay chung quanh đứa bé, Jody vỗ tay để hoan hô nó.
Những ngày hạnh phúc ấy hình như quá xa. Tất cả đã thay đổi trong cái đêm định mệnh: Nàng nhận được một cú điện thoại của chồng nàng. David gọi cho nàng từ phòng thí nghiệm. Gọi cầu cứu. Từ sau giây phút ấy, Patricia không bao giờ còn được thanh thản nữa.
Mẹ ơi, nếu Vador ngã xuống một cái hố? Nếu nó bị thương nó sẽ không thể trở về được.
Patricia cảm thấy tim mình se lại. Đứa bé ứa nước mắt.
Mẹ ơi, nếu nó bị mắc chân vào bẫy của những người đi săn? Hoặc nếu người đi săn lại bắn vào nó vì ngỡ nó là một con vật khác?
Mẹ nó mỉm cười.
Đừng lo con ạ. Vador sẽ trở về. Nó luôn trở về với con, con đã biết đấy.
Nàng rùng mình nhìn chung quanh.
Phải, Vador luôn trở về.
Như thường lệ.