Chương 7
BẢN GIAO HƯỞNG FA THỨ, SẮC ĐIỆU 4,45 MUY

    
ái hiên rộng nhìn về hướng Nam, trông ra biển, tường làm bằng những tấm chất dẻo trong suốt. Ánh sáng mờ nhạt từ trên trần chiếu xuống không ganh đua với ánh trăng sáng tỏ, mà hòa với ánh trăng, làm dịu bớt màu đen thô của hình bóng. Hầu hết nhân viên của đoàn thám hiểm đều tụ tập ở đây. Chỉ trừ những người trẻ nhất, vì họ đã bắt đầu tổ chức một trò chơi trên mặt biển tràn ngập ánh trăng. Họa sĩ Ca-tơ Xan cùng đến với người mẫu vẽ tuyệt đẹp của mình. Trưởng đoàn thám hiểm Phơ-rít Đôn lắc mái tóc dài vàng ánh, tường thuật việc nghiên cứu con ngựa mà Mi-i-cô tìm thấy. Việc xác định vật liệu làm tượng để biết trọng lượng nâng đã đưa đến những kết quả bất ngờ. Lớp bề mặt làm bằng một hợp kim gì không rõ, nhưng bên trong toàn là vàng ròng. Nếu con ngựa là một vật đúc, thì trọng lượng của bức tượng, dù có trừ đi sức đẩy của nước, cũng phải đến bốn trăm tấn. Những tàu lớn có thiết bị đặc biệt được gọi tới để trục con quái vật ấy lên.
Để trả lời những câu hỏi về việc tại sao lại có trường hợp dùng thứ kim loại quí giá ấy một cách quá ư vô lý như vậy, một trong những cộng tác viên kỳ cựu nhất của đoàn nhắc lại câu chuyện truyền thuyết tìm thấy trong các tài liệu cổ nói về việc số vàng dự trữ của cả một nước tự dưng biến mất: thời ấy, vàng dùng làm vật trung gian để định giá trị lao động. Những kẻ cầm quyền tội lỗi đã thi hành bạo quyền và làm cho nhân dân bị phá sản, khi sắp bị lật đổ chúng trốn sang nước khác - hồi ấy, những trở ngại ngăn cản các dân tộc tiếp xúc với nhau được gọi là biên giới. Trước khi trốn đi, chúng vơ vét hết vàng đem đúc một pho tượng và đặt ở quảng trường đông người nhất ở một thành phố chính trong nước. Không ai tìm ra vàng. Nhà sử học cho rằng hồi ấy không ai đoán ra thứ kim loại bị che lấp dưới lớp hợp kim rẻ tiền là kim loại gì.
Câu chuyện khiến mọi người sôi nổi hẳn lên. Việc tìm thấy một số vàng hết sức lớn là món quà hết sức lớn cho loài người. Tuy thứ kim loại nặng màu vàng này từ lâu không còn là tượng trưng cho giá trị nữa, nhưng nó vẫn rất cần cho các khí cụ điện, cho các máy y tế và đặc biệt là cho chế tạo a-na-mê-dôn.
Trong một góc phía ngoài hiên, Vê-đa Công, Đa-rơ Vê-te, họa sĩ Các-tơ Xan, Tsa-ra Nan-đi và Ép-đa Nan quây quần thành một vòng tròn nhỏ. Ren Bô-dơ bẽn lẽn ngồi bên cạnh họ, sau khi đã lùng tìm Mơ-ven Ma-xơ mà không thấy đâu cả.
- Anh có lý khi khẳng định rằng họa sĩ, hay nói đúng hơn là nghệ thuật nói chung, bao giờ cũng chậm trễ so với sự phát triển mãnh liệt của kiến thức và kỹ thuật. Đó là điều không thể tránh khỏi - Đa-rơ Vê-te nói.
- Anh không hiểu tôi - Các-tơ Xan phản đối - Nghệ thuật đã sửa chữa những sai lầm của mình và đã biểu hiện nhiệm vụ của mình trước loài người. Nó từ bỏ việc tạo nên những hình thức đồ sộ, gây cho người xem cảm giác bị đè nén. Nó đã từ bỏ việc miêu tả cái hào nhoáng và hùng vĩ không có trên thực tế, vì đó chỉ là cái vỏ ngoài. Phát triển khía cạnh cảm xúc của con người trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất của nghệ thuật. Chỉ có nghệ thuật mới vận dụng được trạng thái tâm lý con người, chuẩn bị về mặt tâm lý cho việc tiếp thu những ấn tượng phức tạp nhất. Ai là người không biết rằng một khi đã được chuẩn bị trước bằng âm nhạc, màu sắc, hình dạng... thì việc hiểu sự vật trở nên dễ dàng kỳ lạ? Còn nếu người ta dùng cách thức thô bạo và cưỡng ép để xông vào tâm hồn con người thì tâm hồn ấy sẽ khép kín lại. Các bạn là những nhà sử học, hơn bất cứ ai khác, các bạn biết rằng loài người đã phải gánh chịu biết bao đau khổ trong cuộc đấu tranh để phát triển và giáo dục về mặt cảm xúc của tâm lý.
- Trong quá khứ xa xăm, có một thời kỳ nghệ thuật hướng về cảm xúc trừu tượng - Vê-đa Công nói.
- Nghệ thuật hướng về cái trừu tượng nhằm bắt chước lý trí, vì lý trí có ưu thế rõ ràng so với mặt khác. Nhưng nghệ thuật không thể biểu hiện bằng hình thức trừu tượng được, trừ có âm nhạc vốn giữ một vị trí đặc biệt và cũng hoàn toàn cụ thể theo kiểu riêng của nó. Đấy là con đường phức tạp.
- Vậy theo anh, con đường nào là con đường chân chính?
- Theo ý tôi, nghệ thuật là sự phản ánh cuộc đấu tranh và những mối lo âu của thế giới vào tình cảm của mọi người, đôi khi đó là sự minh họa cuộc sống, nhưng dưới sự kiểm soát của tính hợp lý nói chung. Tính hợp lý ấy cũng chính là vẻ đẹp, mà không có cái đẹp thì tôi không thấy có hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc đời. Không thế thì nghệ thuật dễ biến thành những điều bịa đặt ngông cuồng, đặc biệt khi người ta hiểu biết về cuộc sống và lịch sử không đầy đủ...
- Bao giờ tôi cũng mong muốn con đường của nghệ thuật là con đường chinh phục và làm thay đổi thế giới, chứ không chỉ cảm thụ thế giới - Đa-rơ Vê-te nói xen vào.
- Đồng ý! - Các-tơ Xan kêu lên - Nhưng cần nói thêm là không chỉ tác động đến thế giới bên ngoài, mà chủ yếu là tác động đến thế giới cảm xúc bên trong của con người. Nó phải giáo dục con người... muốn vậy, phải hiểu tất cả các mâu thuẫn.
Ép-đa Nan đặt bàn tay cứng cáp và ấm của mình lên tay Đa-rơ Vê-te.
- Hôm nay anh đã từ bỏ một ước mơ như thế nào?
- Một ước mơ rất lớn...
- Bất cứ ai trong chúng ta - họa sĩ tiếp tục diễn thuyết - nếu đã từng xem các tác phẩm nghệ thuật quần chúng thời cổ như phim ảnh, phim về các buổi trình diễn sân khấu, các cuộc triển lãm tranh, thì đều thấy rõ các cuộc biểu diễn, các điệu vũ và các bức tranh thời này của chúng ta tinh tế, trang nhã và hoàn hảo đến mức nào... Đấy là tôi chưa nói đến những thời đại suy đồi.
- Anh ấy thông minh nhưng lắm lời - Vê-đa Công thì thầm.
- Người họa sĩ thường khó dùng lời hay những công thức để diễn tả những hiện tượng hết sức phức tạp mà người đó nhìn thấy và chọn lựa từ thế giới xung quanh - Tsa-ra Nan-đi lên tiếng bênh vực, và Ép-đa Nan gật đầu tán thành.
Các-tơ Xan nói tiếp:
- Còn tôi mong muốn làm được như thế này: thu thập những hạt thuần giống của cái đẹp chân chính trong những tình cảm, hình thức, màu sắc ở rải rác trong những con người riêng biệt và kết hợp thành một hình tượng duy nhất. Khôi phục những mẫu cổ biểu hiện cái đẹp cao nhất của mỗi chủng tộc đời xưa, những chủng tộc đã hòa nhập với nhau tạo thành nhân loại ngày nay. Chẳng hạn, "Người con gái của Gôn-đơ-va-na" là sự thống nhất với thiên nhiên, là sự hiểu biết theo tiềm thức về mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, là toàn bộ những tình cảm và cảm giác còn nhiễm đầy bản năng.
"Con gái của Tê-tít hay của Địa-trung-hải" là những tình cảm phát triển mạnh, vừa rộng lớn vừa táo bạo và muôn hình muôn vẻ. Đây là mức độ khác của sự hòa hợp với thiên nhiên qua cảm xúc, chứ không phải qua bản năng. Đấy là sức mạnh của Ê-rốt[1], tôi hình dung cô gái ấy như thế. Những nền văn hóa cổ đại Địa-trung-hải - của dân tộc Cờ-rét, dân tộc Ê-tơ-ruýt, dân tộc Hy-lạp, dân tộc Anh-điêng nguyên thủy - đã sản sinh ra hình tượng con người duy nhất có thể sáng tạo ra nền văn hóa bắt nguồn từ chế độ mẫu hệ. Tôi thật may mắn vì đã tìm được Tsa-ra: ngẫu nhiên chị lại là mẫu hình đúc kết được những đặc điểm của dân tộc Hy-lạp đảo Cờ-rét và của các dân tộc Trung-Á vào thời kỳ muộn hơn.
Vê-đa mỉm cười vì sự phỏng đoán của mình đúng, còn Đa-rơ Vê-te thì thầm vào tai chị là khó tìm được hình mẫu nào hay hơn.
- Nếu như tác phẩm "Con gái Địa-trung-hải" của tôi thành công thì tất phải thực hiện phần thứ ba của dự định: một người phụ nữ phương Bắc, tóc vàng ánh hay hung lợt, thân hình cao, có vẻ hơi chậm chạp, mắt trong trẻo và bình tĩnh đang chăm chú nhìn vào thế giới, nom chị giống như những phụ nữ thời cổ của dân tộc Nga, dân tộc Xcăng-đi-na-vơ hay dân tộc Anh. Nhưng sau đó, tôi sẽ có thể bắt tay vào việc tổng hợp: tạo nên hình tượng người phụ nữ thời nay, trong đó tôi sẽ lấy những nét ưu mỹ nhất của ba vị tổ tiên ấy.
- Tại sao lại chỉ "con gái", chứ không phải "con trai"?
- Cần gì phải giải thích rằng theo các định luật sinh lý học thì ở phụ nữ, cái đẹp bao giờ cũng hoàn mỹ hơn, tinh tế hơn... - họa sĩ chau mày.
- Khi nào anh vẽ bức tranh thứ ba thì nên chú ý đến Vê-đa Công - Ép-đa Nan nói - Không thể nào...
Họa sĩ đứng phắt dậy.
- Chị tưởng tôi không nhìn thấy chắc! Tôi đang đấu tranh với bản thân để hình ảnh ấy đừng xâm nhập vào tâm hồn tôi trong lúc này, khi một hình ảnh khác đang choán hết tâm trí tôi. Nhưng Vê-đa...
- Vê-đa đang mơ ước về âm nhạc - Chị hơi đỏ mặt - Tiếc rằng ở đây chỉ có chiếc dương cầm mặt trời, ban đêm thì nó câm tiếng!
- Nó là một hệ thống bán dẫn dùng ánh sáng mặt trời phải không? - Ren Bô-dơ nghiêng mình qua ghế bành hỏi - Nếu vậy, thì tôi có thể sửa lại cho nó dùng được dòng điện của máy thu.
- Có mất nhiều thời giờ không?
- Chừng một tiếng.
Thế thì thôi. Một giờ nữa sẽ bắt đầu buổi truyền tin trong mạng thông tin toàn thế giới. Chúng tôi mải làm việc đến nỗi hai tối không có ai mở máy thu.
- Thế thì chị hát đi, Vê-đa - Đa-rơ Vê-te yêu cầu. Các-tơ Xan có cây đàn vĩnh cửu với những dây đàn từ thời "Những thế kỷ tối tăm của xã hội phong kiến".
- Đàn ghi-ta - Tsa-ra Nan-đi nhắc.
- Ai sẽ đệm đàn?... Để tôi thử xem, có thể tôi đánh được cũng nên.
- Tôi biết chơi loại đàn ấy - Tsa-ra tình nguyện chạy về xưởng lấy cây đàn.
- Ta cùng đi! - Phơ-rít Đôn đề nghị.
Tsa-ra hất mái tóc đen lên vẻ nghịch ngợm. Séc-lít quay cái tay gạt, điều khiển cho mang tường bên cửa hiên xê dịch đi, vì thế có thể nhìn rõ suốt dải bờ biển chạy về góc phía Đông vịnh. Phơ-rít Đôn phóng vun vút, nhảy những bước dài. Tsa-ra chạy, ngửa đầu ra sau. Chẳng bao lâu cô gái đã bị bỏ rơi, nhưng rồi cả hai cùng đến xưởng một lúc, biến vào cái lối đi tối om. Lát sau họ lại chạy dọc bờ biển, dưới ánh trăng, không ai chịu thua ai, đua nhau chạy thật nhanh. Phơ-rít Đôn đến hiên trước, nhưng Tsa-ra nhảy qua cánh cửa mở ở mé bên và vào luôn trong phòng.
Vê-đa giơ hai tay lên với vẻ khâm phục.
- Phơ-rit Đôn là nhà quán quân về cuộc thi mười môn mùa xuân kia mà!
- Còn Tsa-ra Nan-đi đã tốt nghiệp trường vũ cao cấp. Chị học hết cả hai bậc: vũ cổ điển và vũ hiện đại - Các-tơ Xan đáp lại, bắt chước kiểu nói của Vê-đa.
- Tôi với Vê-đa đã học vũ, nhưng chỉ hết bậc sơ cấp - Ép-đa Nan thở dài.
- Bây giờ thì ai chả học qua vũ sơ cấp - họa sĩ trêu chọc.
Tsa-ra bật dây đàn một cách chậm chạp, hếch cao cái cằm nhỏ đầy vẻ cương quyết. Giọng hát cao vút của chị vừa đượm buồn, vừa như chào mời. Chị hát một bài ca mới về niềm mơ ước không thành sự thật, bài ca từ một vùng phương Nam vừa truyền tới. Cái giọng trầm của Vê-đa hòa vào khúc điệu và trở thành tia hy vọng mà lời ca của Tsa-ra quấn quýt xung quanh mà lặng dần đi. Bản song ca thực là tuyệt diệu: hai người hát là hai thái cực trái ngược, nhưng lại bổ sung cho nhau một cách hài hòa. Đa-rơ Vê-te hết đưa mắt nhìn người này lại nhìn người kia và không thể quyết định là bài hát làm tôn vẻ đẹp của ai nhiều hơn: Vê-đa đứng chống khuỷu tay vào bàn điều khiển máy thu, đầu cúi xuống dưới sức nặng của hai bím tóc màu sáng, loáng bạc dưới ánh trăng, hay Tsa-ra đang cúi về phía trước, cây đàn ghi-ta để trên hai đầu gối tròn trặn lộ trần ra, mặt bắt nắng sẫm màu đến nỗi trên gương mặt chị, răng và đôi lòng trắng mắt trong ngời lên sáng lạ lùng.
Tiếng hát ngưng bặt. Tsa-ra lưỡng lự lướt nhẹ tay lên dây đàn. Đa-rơ Vê-te nghiến răng. Đấy chính là bài ca mà hồi xưa đã làm anh xa Vê-đa, giờ đây nó gây đau khổ cho cả chị.
Dây đàn bỗng bật dồn dập, rộ lên từng hồi, các hòa âm đuổi theo nhau và lặng dần đi, không hòa được vào nhau. Giai điệu ào lên từng đợt như những con sóng đổ vào bờ, tràn ngập bãi cát trong giây lát và lại theo nhau rút ra ngoài biển sâu thăm thẳm, đen ngòm. Tsa-ra không biết gì cả: giọng hát âm vang của chị truyền sức sống cho lời ca về mối tình bay vào những vực thẳm băng giá của không gian, từ ngôi sao này đến ngôi sao khác, cố tìm kiếm, cố hiểu và đoán xem giờ đây chàng trai đang ở đâu... Chàng trai đã đi vào vũ trụ để lập chiến công khoa học, chàng không bao giờ trở về nữa. Mặc lòng! Miễn là trong giây lát có thể biết được tình cảnh của chàng lúc này ra sao, có thể giúp đỡ chàng bằng một lời cầu nguyện, bằng một ý nghĩ âu yếm, bằng một lời chào mừng!
Vê-đa im lặng, Tsa-ra cảm thấy có điều gì không hay liền ngừng hát, đứng phắt dậy, ném cây đàn ghi-ta cho họa sĩ và cúi đầu như muốn xin lỗi, đến gần người đàn bà tóc sáng đang đứng không nhúc nhích.
Vê-đa mỉm cười.
- Biểu diễn một điệu vũ tặng tôi đi, Tsa-ra!
Tsa-ra gật đầu đồng ý, nhưng Phơ-rít Đôn lập tức xen vào.
- Múa thì khoan đã, đã đến giờ phát tin rồi.
Trên nóc tòa nhà, một ống kính viễn vọng nhô ra, đưa lên cao, hai mặt phẳng kim loại giao nhau với tám bán cầu trên cái vòng tròn kim loại đánh đai lấy thiết bị ở phần cuối. Căn phòng tràn ngập những âm thanh mạnh mẽ.
Mở đầu buổi truyền tin là cảnh một trong những thành phố mới hình xoáy ốc của vùng dân cư phương Bắc. Có hai khuynh hướng kiến trúc chiếm địa vị thống trị trong việc xây dựng thành phố: thành phố kiểu kim tự tháp hay thành phố xoáy ốc kiểu đinh vít. Các thành phố được xây dựng ở những chỗ đặc biệt thuận lợi cho đời sống, tại nơi tập trung sự phục vụ của các nhà máy tự động. Vành đai nhà máy này bao quanh thành phố, có những cánh rừng và đồng cỏ xen kẽ tạo thành những vòng khâu nhỏ, còn thành phố nhất định phải trông ra một hồ lớn.
Thành phố xây ở chỗ cao, các tòa nhà bố trí thành bậc cao thấp để không nhà nào hoàn toàn bị che lấp mất ánh mặt trời, gió, bầu trời và sao ở mặt phía trước. Bên trong các tòa nhà có những nhà xe nhà kho, nhà phân phối, xưởng thợ và các nhà bếp đôi khi đặt ngầm sâu dưới đất. Những người ủng hộ kiểu thành phố kim tự tháp cho rằng ưu điểm của kiểu thành phố này là thành phố không cao lắm nhưng sức chứa lại nhiều. Còn những người xây dựng kiểu thành phố xoáy ốc thì sáng tạo ra những kiểu kiến trúc cao tới hơn một ki-lô-mét. Trước mắt các đoàn viên đoàn thám hiểm hiện lên một hình xoáy ốc dựng đứng, ngời sáng vì ánh mặt trời lấp lánh lóe lên hàng triệu bức tường bằng chất dẻo màu trắng sữa, trên những đường gờ bằng sứ của các khung nhà bằng đá nóng chảy, trên những bộ phận gia cố bằng kim loại đánh bóng. Mỗi vòng xoáy ốc đều lên cao dần từ rìa ngoài vào trung tâm. Các khối nhà cách biệt nhau bởi những hõm tường thẳng đứng, lõm sâu vào. Ở một độ cao chóng mặt, có những chiếc cầu nhẹ, những bao lơn và những khu vườn nhô ra, lơ lửng trên không. Những dãy tường chống thẳng đứng, sáng lóe chạy xuống đến nền, ở đó có những cầu thang rộng chạy giữa hàng nghìn hành lang cuốn. Các cầu thang này dẫn tới những công viên bậc thang tỏa ra như nan quạt, đưa tới vành đai rừng um tùm đầu tiên. Phố xá cũng uốn theo đường xoáy ốc, và có trần bằng thủy tinh. Trên đường phố không có xe cộ gì cả: những chuỗi băng tải chuyển động liên tục, được giấu kín trong các hõm tường chạy dọc.
Dân thành phố người thì hớn hở, tươi cười, người thì nghiêm trang, đi nhanh trên đường phố hay dạo chơi dưới những hành lang cuốn hoặc lánh vào hàng nghìn chỗ kín đáo: giữa các hàng cột, trên các khoang chuyển tiếp của cầu thang trong các khu vườn treo trên các tầng cao...
Cảnh tượng thành phố hùng tráng tiếp tục không lâu, buổi phát thanh bắt đầu.
- Chúng ta tiếp tục thảo luận đề án do Viện hàn lâm về các bức xạ định hướng đưa ra - người vừa xuất hiện trên màn ảnh bắt đầu lên tiếng - viện đề nghị thay thế bộ vần tuyến tính bằng cách ghi điện tử. Đề án không được mọi người nhất trí ủng hộ. Mâu thuẫn chính là tính chất phức tạp của các máy đọc. Sách sẽ không còn là người bạn luôn luôn ở cạnh con người nữa. Mặc dù bề ngoài xem ra thì có lợi, nhưng dự án sẽ bị bác bỏ.
- Vấn đề này được bàn cãi đã lâu rồi! - Ren Bô-dơ nói.
- Một mâu thuẫn hết sức lớn! - Đa-rơ Vê-te tiếp lời - Cách ghi giản dị đến đáng mê, nhưng mặt khác lại khó đọc.
Người phát thanh trên màn ảnh nói tiếp:
- Tin hôm qua được xác nhận: đoàn thám hiểm vũ trụ số ba mươi tám đã lên tiếng. Họ đang trở về...
Đa-rơ Vê-te lặng người đi, bàng hoàng vì những tình cảm trái ngược nhau xung đột trong lòng. Anh liếc ngang nhìn Vê-đa Công. Chị đứng lên một cách chậm chạp, mắt mỗi lúc một mở to. Thính giác đã trở nên nhạy bén của Đa-rơ Vê-te nghe thấy hơi thở đứt quãng của chị...
-... Từ phía hình vuông sáu trăm linh một, và con tàu vừa ra khỏi trường âm tính[2], cách quỹ đạo của Diêm-vương-tinh một phần trăm pác-xếc. Đoàn thám hiểm về chậm, vì gặp phải vầng mặt trời đen. Không thiệt mất người nào! Tốc độ của con tàu gần năm phần sáu đơn vị tuyệt đối - Người phát thanh kết luận - Chúng ta trông chờ đoàn thám hiểm sẽ xuống ga Tơ-ri-tôn sau mười một ngày nữa. Các bạn hãy chờ nghe thông báo về những phát minh xuất sắc!
Buổi tuyền tin tiếp tục. Tiếp đó là những tin khác, nhưng chẳng ai nghe nữa. Mọi người vay quanh Vê-đa, chúc mừng chị...
Đa-rơ Vê-te nhẹ nhàng buông tay chị, mỉm cười - nụ cười chỉ riêng anh mới có, tươi tắn lạ thường -, rồi lánh ra chỗ khác. Các bạn trong đoàn thám hiểm sôi nổi bàn luận tin vừa nhận được. Vê-đa vẫn ở lại giữa vòng người, chị liếc mắt quan sát Vê-te. Chị thấy Ép-đa Nan đến gần anh, lát sau Ren Bô-dơ cũng đến.
- Cần tìm Mơ-ven Ma-xơ, anh ấy chưa biết gì cả! - Đa-rơ Vê-te kêu lên, như chợt tỉnh ra - Đi với tôi, Ép-đa ạ. Cả anh cũng đi chứ, Ren?
- Tôi nữa - Tsa-ra Nan-đi đi đến gần - Được không?
Họ đi về phía có tiếng sóng vỗ êm dịu. Đa-rơ Vê-te dừng lại, phơi mặt ra đón gió mát rượi, và buông một tiếng thở dài. Khi quay mặt lại, anh bắt gặp luồng mắt của Ép-đa Nan.
- Tôi sẽ đi khỏi đây luôn, không trở lại đằng kia nữa - anh trả lời câu hỏi thầm lặng.
Ép-đa Nan khoác tay anh. Bốn người cùng lẳng lặng bước đi, không ai nói một lời.
- Tôi tự hỏi không biết anh có nên làm thế không - Ép-đa Nan thì thầm - chắc là nên như thế, anh có lý. Giá như Vê-đa...
Ép-đa ngừng bặt, nhưng Đa-rơ Vê-te siết chặt tay chị với vẻ hiểu biết và áp bàn tay ấy vào má mình. Ren Bô-dơ bám sát gót họ, thận trọng rời xa Tsa-ra, còn Tsa-ra cố giấu nụ cười giễu cợt, chốc chốc lại liếc nhìn anh bằng đôi mắt to và vẫn bước dài bên cạnh anh. Ép-đa cất tiếng cười khe khẽ và đột nhiên chìa bàn tay kia cho nhà vật lý. Ren Bô-dơ vồ lấy tay chị bằng động tác của con thú vồ mồi, một cử chỉ khá khôi hài với một người nhút nhát như anh.
- Tìm bạn anh ở đâu bây giờ? - Tsa-ra dừng lại ngay sát rìa mặt nước.
Đa-rơ Vê-te chăm chú nhìn, và trong ánh trăng sáng ngời, anh thấy những vết chân hằn rõ trên dải cát ẩm. Vết chân cách quãng rất đều, những đầu bàn chân phân bố rất cân xứng, với mức chính xác hình học, đến nỗi người ta có cảm giác rằng đấy là dấu vết do máy in trên cát.
- Anh ấy đi về phía này - Đa-rơ Vê-te trỏ về phía những khối đá lớn.
- Đúng là dấu chân anh ấy. - Ép-đa xác nhận.
- Tại sao chị lại tin chắc như vậy? - Tsa-ra có ý ngờ vực.
- Chị hãy xem sự phân bố đều đặn các bước chân thì biết: đó là lối đi của những người đi săn thời nguyên thủy hay của những người thừa hưởng các đặc điểm ấy của tổ tiên. Tôi có cảm giác rằng Mơ-ven Ma-xơ tuy có học vấn uyên bác, nhưng gần thiên nhiên hơn bất cứ người nào trong chúng ta... Tôi không rõ chị thì thế nào, Tsa-ra? - Ép-đa Nan quay về phía cô gái có vẻ suy nghĩ.
- Tôi ấy à? Ồ không! - Và chị chỉ tay về phía trước, kêu lên: - Anh ấy kia kìa!
Hình dáng đồ sộ của anh chàng gốc Phi xuất hiện trên khối đá gần nhất. Thân hình anh lấp loáng dưới ánh trăng như pho tượng bằng đá cẩm thạch đen đánh bóng. Mơ-ven Ma-xơ lắc hai tay một cách hung hăng như đe dọa ai. Những bắp thịt ghê gớm trên tấm thân cường tráng của anh phồng lên, chuyển vận dưới lớp da bóng loáng.
- Anh như con ma đêm trong truyện cổ tích của trẻ em! Tsa-ra thì thầm vẻ xúc động.
Mơ-ven Ma-xơ nhận thấy những người đang đến gần, anh nhảy xuống khỏi tảng đá và khi ra, anh đã mặc quần áo chỉnh tề. Đa-rơ Vê-te vắn tắt thuật lại tin tức mới nhận được, và Mơ-ven Ma-xơ ngỏ ý muốn gặp Vê-đa Công ngay...
- Anh hãy đến đấy cùng với Tsa-ra - Ép-đa nói - Còn chúng tôi sẽ ở lại đây một lúc nữa.
Đa-rơ Vê-te phác một cử chỉ từ biệt, và nét mặt chàng trai gốc Phi tỏ vẻ hiểu ý. Sự xúc động gần như trẻ con khiến anh thì thầm với những lời từ biệt đã bị quên lãng từ lâu. Đa-rơ Vê-te cảm động và trầm ngâm bỏ ra xa, Ép-đa lẳng lặng đi theo anh. Ren Bô-dơ bối rối đứng chôn chân tại chỗ và quay lại nhìn theo Mơ-ven Ma-xơ và Tsa-ra Nan-đi.
Đa-rơ Vê-te và Ép-đa đi đến chỗ mũi đất ngăn vịnh với biển. Đã có thể thấy rõ những ngọn đèn viền quanh những chiếc mảng khổng lồ hình đĩa của đoàn thám hiểm biển.
Đa-rơ Vê-te đẩy chiếc thuyền trong suốt khỏi bờ cát và đứng sát rìa ngấn nước, trước mặt Ép-đa, nom anh còn đồ sộ và lực lưỡng hơn cả Mơ-ven Ma-xơ. Ép-đa nhón đầu mũi chân và hôn người bạn sắp ra đi.
- Vê-te, tôi sẽ luôn ở bên Vê-đa - chị trả lời những ý nghĩ của anh - chúng tôi sẽ trở về khu vực của chúng ta và chờ đoàn thám hiểm vũ trụ tại đó. Bao giờ anh anh thu xếp ổn thỏa thì cho tôi biết, tôi bao giờ cũng sung sướng được giúp đỡ anh...
Ép-đa đưa mắt nhìn theo con thuyền lướt trên làn nước óng ánh bạc, nhìn mãi không dứt...
Đa-rơ Vê-te cho thuyền đến chiếc mảng thứ hai, nơi các thợ cơ khí vẫn đang làm việc, cố đặt cho xong các bộ ắc-qui. Theo yêu cầu của Đa-rơ Vê-te, họ bật ba ngọn đèn màu lá mạ bố trí thành hình tam giác.
Một tiếng rưỡi sau, một chiếc tàu lượn bay qua đây và dừng lại lơ lửng phía trên mảng. Đa-rơ Vê-te ngồi trên chiếc thang máy được thả xuống và lát sau anh đã ở dưới cái bụng tàu sáng ánh đèn và biến vào ô cửa nắp. Buổi sáng, anh vào căn nhà ở thường xuyên của mình ở gần đài quan sát của Hội đồng, vì anh vẫn chưa kịp đổi chỗ ở. Đa-rơ Vê-te mở khóa thổi gió ở cả hai buồng. Mấy phút sau, bao nhiêu bụi tích tụ đã biến mất. Đa-rơ Vê-te kéo ra một chiếc giường ăn vào tường và sau khi đã điều chỉnh cho trong phòng có mùi biển và tiếng sóng vỗ rì rào (những cái gần đây đã trở nên quen thuộc đối với anh), anh đánh một giấc ngủ say lì.
Khi anh thức dậy, anh có cảm giác là thế giới mất vẻ quyến rũ. Vê-đa ở xa và sẽ còn xa anh cho đến khi... Nhưng anh phải giúp đỡ chị, chứ không phải là làm cho tình thế rắc rối thêm!
Trong phòng tắm, một cột nước xoáy tít mát lạnh, có nhiễm điện đổ xuống người anh. Anh đứng dưới cột nước ấy lâu đến nỗi bị lạnh. Sức khỏe đã hoàn toàn hồi phục, anh đến máy điện thoại truyền hình, mở những cánh cửa gương và gọi trạm phân phối công việc gần nhất. Một khuôn mặt trẻ xuất hiện trên màn ảnh. Chàng trai nhận ra Đa-rơ Vê-te và chào anh với vẻ kính trọng kín đáo, một thái độ được coi là biểu hiện của sự lịch thiệp.
Vê-te nói:
- Tôi muốn nhận một công việc khó khăn và lâu dài liên hệ với lao động chân tay: công việc tại các mỏ ở châu Nam cực chẳng hạn.
- Ở đấy không còn chỗ làm - người kia trả lời, giọng đượm vẻ buồn tiếc - các mỏ trên Kim-tinh, Hỏa-tinh và thậm chí trên Thủy-tinh cũng hết chỗ. Anh biết đấy, nơi nào càng khó khăn thì thanh niên càng thích đến.
- Đúng, nhưng tôi không còn có thể tự liệt mình vào loại người may mắn đó nữa... song hiện giờ có công việc gì không? Tôi cần có ngay kia.
- Thế thì đi khai thác kim cương ở trung Xi-bê-ri. Người kia vừa nói một cách chậm rãi, vừa nhìn cái bảng mà Đa-rơ Vê-te không trông thấy - nếu anh thích công việc khai mỏ. Ngoài ra, còn có thể làm ở các nhà máy chế tạo thực phẩm xây nổi trên đại dương, hoặc đến các trạm bơm dùng năng lượng mặt trời ở Tây tạng, nhưng công việc ở đấy thuộc loại nhẹ rồi. Công việc ở nơi khác cũng không có gì đặc biệt khó.
Đa-rơ Vê-te cảm ơn người thông tin và xin để cho mình có thời gian suy nghĩ, nhưng yêu cầu anh ta vẫn tạm dành cho anh công việc ở nơi khai thác kim cương.
Anh cắt liên lạc với trạm phân phối và liên lạc với Nhà Xi-bê-ri: đây là trung tâm thông tin địa lý rộng lớn nhất khu vực này. Máy điện thoại truyền hình của anh được nối với máy nhớ ghi lại những thông tin mới nhất, và Đa-rơ Vê-te thấy những cánh rừng bao la lướt qua trước mặt anh. Rừng Tai-ga nhiều đầm lầy với những cây thông lạc diệp mọc thưa thớt trên đất quanh năm băng giá, loại rừng xưa kia tràn lan ở vùng này mà nay đã biến mất, nhường chỗ cho những cây khổng lồ hùng vĩ: cây tuyết tùng Xi-bê-ri và cây Xếc-coi-a[3] Mỹ mà trước kia hầu như đã tuyệt chủng. Những thân cây khổng lồ màu đỏ vươn cao thành một hàng rào tuyệt đẹp xung quanh những quả đồi đội mũ bê-tông. Những ống thép đường kính mười mét từ dưới đồi thòi lên và uốn mình qua những đường phân thủy, vươn tới những con sông gần nhất hút hết nước sông vào những mõm rộng hình phễu há hoác. Những máy bơm kỳ quái gầm gừ. Hàng trăm nghìn tấn nước ào ào vào đáy những ống núi lửa có chứa kim cương, gào thét xoáy tít trong đó, xói vỡ đá quặng và lại vọt ra ngoài, để lại trên mạng sàng của các buồng rửa hàng chục tấn kim cương. Trong những nhà dài sáng trưng, người ta ngồi coi lại những mặt số của máy chọn. Đá lấp lánh tuôn thành dòng hạt nhỏ qua những lỗ định cỡ của các hòm thu nhận. Những người điều vận các trạm bơm không ngừng theo dõi chỉ số của những máy tính sức cản luôn luôn thay đổi của đất đá, áp suất và mức tiêu thụ nước, độ sâu của đáy lỗ khoan và sức phun của những hạt rắn. Đa-rơ Vê-te nghĩ rằng cảnh vui tươi của những khu rừng chói chang ánh mặt trời không hợp với tâm trạng anh lúc này, và anh cắt liên lạc với Nhà Xi-bê-ri. Tín hiệu gọi chợt vang lên, và người báo tin của trạm phân phối công việc xuất hiện trên màn ảnh.
- Tôi muốn biết rõ ý định của anh. Chúng tôi vừa nhận được yêu cầu điều người: đã có một chỗ trống trong các mỏ ti-tan ngầm dưới nước ở vùng duyên hải Tây Nam-mỹ. Đó là công việc khó khăn nhất hiện có... Nhưng cần có mặt ngay lập tức!
Đa-rơ Vê-te lo ngại:
- Tôi chưa kịp qua những thử thách tâm sinh lý tại trạm gần nhất của Viện hàn lâm tâm sinh lý lao động.
- Căn cứ vào toàn bộ những lần thử hàng năm bắt buộc phải có trong công tác trước kia của anh thì anh không cần qua cuộc thử thách này.
- Thế thì anh báo tin cho họ đi và cho tôi xin tọa độ! - Đa-rơ Vê-te ưng thuận ngay.
- Nhánh phía Tây của đường xắn ốc, chi nhánh số mười bảy phía Nam, trạm 6L, điểm KM 40. Tôi sẽ báo trước cho họ.
Khuôn mặt nghiêm trang trên màn ảnh biến mất. Đa-rơ Vê-te thu thập tất cả những đồ vật lặt vặt của riêng anh, xếp những cuộn ghi ảnh và tiếng nói của những người thân nhất và ghi ý nghĩ riêng quan trọng nhất của anh vào một cái hòm nhỏ. Anh tháo trên tường tấm phiên bản phản xạ màu[4] sao lại bức tranh cổ của Nga, lấy trên bàn bức tượng đồng nhỏ tạc hình nữ nghệ sĩ Ben-lô Gan nom giống Vê-đa Công. Tất cả những vật đó, cùng mấy bộ quần áo, được xếp vào cái hòm bằng nhôm trên nắp có những con số và những chữ tuyến tính nổi, chạy thành hình vòng tròn. Đa-rơ Vê-te quay số lấy tọa độ đã cho biết, mở khuôn cửa nắp trong tường và đẩy cái hòm vào. Cái hòm biến mất: nó đã được một băng chuyền tải vô tận mang đi. Sau đó Đa-rơ Vê-te kiểm tra lại căn phòng của mình. Đã nhiều thế kỷ nay, trên hành tinh không còn những người chuyên quét dọn trong nhà. Việc quét dọn do mỗi người tự làm lấy, điều đó chỉ có thể thực hiện được khi ai nấy đều hết sức ngăn nắp và có tính kỷ luật cao, ngoài ra cũng nhờ một hệ thống thiết bị chu đáo gồm những máy lau rửa và thông gió tự động trong các nhà ở và nhà công cộng.
Xem xét xong, anh quay cái tay gạt ở phía trước cửa xuống dưới, truyền tín hiệu cho trạm phân phối nhà biết rằng những căn buồng của anh đã được giải phóng, rồi anh đi ra. Hành lang bên ngoài lắp những tấm kính màu trắng sữa đã nóng ấm lên nhờ ánh nắng mặt trời, nhưng trên mái bằng, gió biển thổi nhè nhẹ vẫn mát lạnh như mọi khi. Những chiếc cầu bộ hành bắc trên cao nom như đang bay lượn trên không trung giữa các tòa nhà kiểu chấn song mắt cáo và rủ rê người ta làm một cuộc dạo chơi thong thả, nhưng Đa-rơ Vê-te không còn thuộc về mình nữa rồi. Một đường ống tự động đưa anh xuống nhà bưu điện điện-từ ở dưới đất, và một toa nhỏ đưa anh tới một nhà ga của Đường xoáy ốc. Đa-rơ Vê-te không đi về phía Bắc, tới eo Bê-rinh, nơi có vòng cung nối tiếp của nhánh phía Tây chạy ngang qua. Đi đường này đến Nam Mỹ, đặc biệt đến một nơi rất xa về phương Nam như chi nhánh mười bảy, thì phải mất gần bốn ngày. Dọc theo các vĩ tuyến của vùng dân cư phương Bắc và phương Nam, có những tuyến máy bay vận tải hình xoáy ốc đánh đai lấy hành tinh ngang qua các đại dương và nối các nhánh của Đường xoáy ốc theo đường ngắn nhất. Đa-rơ Vê-te đi theo nhánh Trung tâm, đến vùng dân cư phương Nam và dự tính thuyết phục ông chủ nhiệm ngành chuyên chở bằng máy bay coi anh như một món hàng khẩn. Ngoài việc rút ngắn thời gian đi đường xuống còn ba mươi giờ, Đa-rơ Vê-te còn có thể gặp con trai của Gơ-rôm Oóc-mơ. Gơ-rôm Oóc-mơ là chủ tịch Hội đồng du hành vũ trụ, ông chọn anh làm người thầy dạy và hướng dẫn cho con trai mình.
Thằng bé đã lớn từ năm ngoái, nó bắt đầu thực hiện mười hai chiến công của Héc-quyn, hiện thời nó làm việc tại ban tuần tra vùng đầm lầy Tây Phi châu.
Có thanh niên nào lại không thèm muốn được vào ban tuần tra: theo dõi sự xuất hiện của cá mập trong đại dương, sự xuất hiện của loài bọ có hại, những con dơi quỷ và những vật bò sát trong các đầm lầy nhiệt đới, theo dõi sự xuất hiện của các vi khuẩn gây bệnh ở các vùng người ở, theo dõi các trận dịch động vật hay các đám cháy rừng trong những vùng thảo nguyên và vùng rừng, phát hiện và tiêu diệt các giống có hại của Trái đất trước kia mà nay vẫn lại xuất hiện một cách bí mật trong những xó xỉnh của hành tinh. Cuộc đấu tranh với những hình thức có hại của không bao giờ chấm dứt. Để phản ứng lại những thứ thuốc mới, các sinh vật, các giống sâu bọ và các thứ nấm sản sinh ra những dạng mới có sức chống cự dai dẳng đối với hóa chất hết sức mạnh. Mãi sau kỷ nguyên CR - kỷ nguyên Thế giới Chia rẽ - người ta mới học được cách sử dụng đúng đắn những chất kháng sinh mạnh.
"Nếu như Đi-xơ Ken được đưa vào đội tuần tra các đầm lầy thì nó trở thành người lao động nghiêm túc từ thuở thanh niên." Đa-rơ Vê-te nghĩ.
Cũng như mọi trẻ em của kỷ nguyên Vành-khuyên, con trai của Gơ-rôm Oóc-mơ được giáo dục trong một trường trên bờ biển ở vùng phương Bắc. Tại đó, cậu bé đã trải qua những thử thách đầu tiên ở Trạm tâm sinh lý của Viện hàn lâm tâm sinh lý lao động.
Khi giao việc cho thanh niên, bao giờ người ta cũng chú ý đến những đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên như: chí cầu tiến hăm hở, tinh thần trách nhiệm cao và thói trung tâm tự kỷ.
Toa xe đồ sộ lao nhanh, êm nhẹ và không có tiếng động. Đa-rơ Vê-te lên tầng cao nhất có mái trong suốt. Mãi dưới kia, ở hai bên Đường xoáy ốc, những ngôi nhà, những kênh đào, những khu rừng và những đỉnh núi lướt qua vùn vụt. Những nhà máy tự động tạo thành một vành đai hẹp ở khoảng giáp giới giữa vùng nông nghiệp và vùng lâm nghiệp, những mái vòm bằng kính trong mờ làm cho vành đai này sáng lóe lên dưới ánh mặt trời. Có thể nhìn thấy hình dạng rõ nét và nghiêm nghị của những cỗ máy khổng lồ qua tường của các tòa nhà bằng thủy tinh. Đài kỷ niệm Gin-nơ Cát vụt hiện ra. Gin-nơ Cát là người đã đề ra cách làm đường nhân tạo theo phương pháp rẻ tiền. Dãy hành lang cuốn của Đường xoắn ốc bắt đầu xuyên qua những khu rừng của vùng nông nghiệp nhiệt đới. Những dải rừng và khoảnh rừng mà cây cối có hình dạng và chiều cao khác nhau, lá và vỏ mang sắc thái nhiều vẻ, chạy mất hút vào khoảng xa vô tận. Trên những dải đường hẹp và phẳng lì ngăn cách các khối rừng, những máy gặt, máy thụ phấn và máy kiểm tra chậm chạp bò đi; dây điện chằng chịt và lấp lánh như mạng nhện. Thuở xưa, cánh đồng lúa mì chín vàng là biểu tượng của sự dư dật. Nhưng ngay trong kỷ nguyên ĐĐ - kỷ nguyên Thế giới đại đồng -, người ta đã hiểu sự bất lợi về kinh tế của những loại cây trồng một năm, rồi khi việc canh tác được tập trung cả về vùng nhiệt đới thì người ta tránh được một công việc hết sức vất vả là hàng năm phải trồng và chăm sóc bón những loại rau và những loại cây bụi. Trước kỷ nguyên Vành-khuyên hàng trăm năm, những cây lâu năm, ít làm kiệt đất hơn, có sức chịu đựng khỏe hơn đối với những thay đổi bất lợi về thời tiết đã trở thành những cây nông nghiệp chính.
Những cây thân gỗ họ ngũ cốc, họ quả mọng, họ hồ đào với hàng nghìn loại quả giàu chất an-bu-min, cung cấp cho ta mỗi cây đến một tạ khối lượng dinh dưỡng. Những khối vườn cây khổng lồ, gồm toàn cây ăn quả, với diện tích hàng triệu héc-ta, tạo thành hai vành đai bao quanh hành tinh: đấy thực sự là chiếc thắt lưng của Xê-re, nữ thần ban sự phì nhiêu trong thần thoại. Giữa những khối vườn cây ấy là khu rừng xích đạo, một đại dương rừng nhiệt đới ẩm ướt, cung cấp gỗ cho hành tinh: gỗ trắng, đen, tím, hồng, vàng, xám, màu sắc óng ả như lụa, có loại rắn như xương, có loại mềm như táo, có loại chìm trong nước như đá, và có loại nhẹ như bấc. Ở đây, người ta lấy được hàng chục loại nhựa rẻ tiền hơn nhựa tổng hợp, nhưng lại có những tính chất kỹ thuật quý giá hay có khả năng chữa bệnh.
Đỉnh những cây rừng khổng lồ cao tới nền đường xoáy ốc, bây giờ là cái biển xanh lục rì rào ở hai bên đường. Dưới đáy sâu rợp bóng của cái biển ấy, ẩn giữa những bãi đất trống nên thơ là những ngôi nhà dựng trên cọc kim loại cao và những cỗ máy kỳ quái hình con nhện có đủ sức biến những khu rừng gồm những cây cao tới tám mươi mét thành những chồng gỗ súc và gỗ ván ngoan ngoãn...
Bên trái hiện ra những vòm núi nổi tiếng của xích đạo. Trạm liên lạc của Vành-khuyên vĩ đại đặt trên một trong những dãy núi ấy - đỉnh Kê-ni-a. Biển rừng lùi về xa về bên trái, nhường chỗ cho một bình sơn nguyên lởm chởm đá. Hai phía bình sơn nguyên nhô lên những công trình xây dựng hình lập phương màu canh da trời.
Đoàn xe dừng lại, Đa-rơ Vê-te ra cái bãi rộng lát kính màu xanh lá cây: đấy là ga xích đạo. Gần chiếc cầu bộ hành bắc qua phía trên những tán lá bằng phẳng màu xanh nhạt của những cây tuyết tùng Bắc Phi, một kim tự tháp bằng a-pô-tít[5] trắng giống như sứ, nhô lên cao trên sông Lu-a-la-ba. Trên cái chóp cụt của tháp là bức tượng một người mặc bộ áo quần liền của công nhân trong kỷ nguyên CR. Tay phải anh ta cầm cái búa, tay trái giơ cao một quả cầu sáng loáng có bốn nhánh ăng-ten phát, chĩa về phía bầu trời xích đạo nhợt nhạt. Đấy là đài kỷ niệm những người đã sáng tạo ra các vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái đất, đã hoàn thành chiến công kỳ diệu của lao động, của óc phát minh và lòng can trường. Toàn bộ cơ thể người đó ngả về phía sau và dường như đẩy quả cầu lên trời, biểu hiện một cố gắng hào hứng. Cố gắng ấy là do những hình người mặc y phục lạ lùng bao quanh bệ đài kỷ niệm truyền cho anh.
Lần nào Đa-rơ Vê-te cũng xúc động, chăm chú nhìn những khuôn mặt điêu khắc của đài kỷ niệm này. Anh biết rằng những người đã làm những vệ tinh nhân tạo đầu tiên và bước tới ngưỡng cửa vũ trụ là người Nga, mà dòng dõi của anh bắt nguồn từ dân tộc tuyệt diệu đó. Một dân tộc đi những bước đầu tiên trong việc xây dựng xã hội mới và chinh phục vũ trụ.
Lần này như mọi lần, Đa-rơ Vê-te tới gần đài kỷ niệm để ngắm nhìn những người anh hùng cổ xưa một lần nữa, tìm xem họ có gì giống và khác với người thời nay. Dưới những cành đầy lông nhung trắng bạc của những cây lây-cô-đen-rôn[6] Nam Phi viền quanh cái tháp chói lòa ánh mặt trời, có hai vóc người cân đối hiện ra và dừng lại. Một trong hai chàng trai đâm bổ đến gặp Đa-rơ Vê-te. Một tay ôm quàng lấy vai đồ sộ của Đa-rơ Vê-te, chàng trai nhìn trộm những đường nét quen thuộc trên gương mặt cương quyết: cái mũi to, cái cằm rộng, cặp môi có nét uốn vui vẻ bất ngờ không ăn nhập với vẻ cau có của đôi mắt thép, dưới cặp lông mày dính liền nhau...
Ánh mắt lộ vẻ tán thành, Đa-rơ Vê-te nhìn con trai của người nổi tiếng đã xây dựng cơ sở nghiên cứu trên hệ hành tinh của sao Nhân-mã và là người đứng đầu Hội đồng du hành vũ trụ đã năm nhiệm kỳ ba năm. Gơ-rôm Oóc-mơ không thể dưới một trăm ba mươi tuổi, gấp ba lần tuổi của Đa-rơ Vê-te.
Đi-xơ Ken gọi bạn, một chàng trai tóc thẫm màu.
- Đây là Tơ-ro An, bạn thân nhất của cháu, con trai nhà soạn nhạc Di-gơ Do-rơ.
- Hiện tại chúng cháu cùng làm việc trong vùng đầm lầy - Đi-xơ Ken nói tiếp - Chúng cháu muốn cùng nhau hoàn thành các chiến công sau đó cùng làm việc với nhau.
- Cháu vẫn say mê xi-béc-nê-tíc di truyền[7] như trước đây chứ? - Đa-rơ Vê-te hỏi.
- Dạ vâng! To-rơ còn lôi cuốn cháu đi xa hơn, bạn ấy là nhạc sĩ, cũng như ông bố. Bạn ấy cùng với cô bạn gái... hai người mơ ước làm việc trong lĩnh vực mà âm nhạc giúp ta hiểu được sự phát triển của cơ thể sống một cách dễ dàng hơn, nghĩa là nghiên cứu bản nhạc giao hưởng của cấu tạo cơ thể.
- Cháu nói hơi mơ hồ - Đa-rơ Vê-te cau mày.
- Cháu vẫn chưa thể diễn tả rành mạch được - Đi-xơ Ken bối rối - Có lẽ To-rơ nói khá hơn.
Chàng trai kia đỏ mặt, nhưng chịu dựng được cái nhìn dò xét.
- Đi-xơ muốn nói về nhịp điệu của cơ chế di truyền: khi phát triển từ tế bào mẹ, cơ thể sống được xây dựng nên từ các phân tử, nhờ các hợp âm. Đường xoáy ốc cặp đôi sơ cấp phát triển theo một thể thức tương tự như sự phát triển bản nhạc giao hưởng. Nói cách khác, chương trình kiến tạo cơ thể sống từ các tế bào sống là chương trình nhạc!
- Thật ư?... - Đa-rơ Vê-te tỏ ra ngạc nhiên hơi quá đáng - Nhưng như vậy là anh quy toàn bộ sự tiến hóa của chất sống và chất vô sinh thành một bản giao hưởng đồ sộ à?
- Dàn bài và nhịp điệu của bản giao hưởng đó do các định luật vật lý cơ bản quyết định. Chỉ cần tìm xem chương trình được xây dựng như thế nào và thông tin của cơ chế xi-béc-nê-tíc - nhạc ấy ở đâu ra - To-rơ An cả quyết với niềm tin không gì lay chuyển được của tuổi trẻ.
- Đấy là ý kiến của ai vậy?
- Của bố cháu là Di-gơ Do-rơ. Mới đây bố cháu vừa công bố bản giao hưởng vũ trụ số mười ba, fa thứ, sắc điệu 4,750 muy.
- Nhất định tôi phải nghe thử bản giao hưởng ấy! Tôi thích màu lam... Nhưng kế hoạch trước mắt của các cháu là những chiến công của Héc-quyn. Các cháu biết những nhiệm vụ được quy định rồi chứ?
- Mới có sáu việc đầu tiên.
- Cố nhiên rồi, sáu việc kia sẽ được trao nốt khi làm xong được những việc trước - Đa-rơ Vê-te nhớ lại.
- Dọn sạch tầng dưới của hang Côn-i-Gút ở Trung Á và sửa sang lại để cho khách đến xem được tiện lợi.
- Mở một con đường tới hồ Men-tan, xuyên qua sống núi nhọn - Đi-xơ Ken tiếp lời - khôi phục lại khu rừng lúa mì thân gỗ trước kia ở Ác-hen-ti-na, tìm ra nguyên nhân xuất hiện những con bạch tuộc lớn trong khu đất mới trồi lên ở Tơ-ri-ni-đát...
- Và tiêu diệt chúng!
- Mới có năm việc, còn việc thứ sáu?
Cả hai chàng trai hơi ngập ngừng.
- Cả hai chúng cháu đều được đánh giá là có khả năng âm nhạc- Đi-xơ Ken đỏ mặt, nói - Chúng cháu được giao nhiệm vụ thu thập các tài liệu về những điệu vũ cổ xưa của đảo Ba-li, phục hồi các điệu vũ đó cả về nhạc và vũ hình.
- Tức là phải chọn các nữ diễn viên và lập đội vũ chứ gì? - Đa-rơ Vê-te phá lên cười.
- Vâng - To-rơ gằm mắt xuống.
- Một công việc thú vị đấy! nhưng đấy là việc tập thể, cũng như việc mở con đường tới hồ.
- Nhóm chúng cháu khá lắm ạ. Nhưng các bạn ấy cũng muốn được chú hướng dẫn. Được vậy thì hay quá!
Đa-rơ Vê-te tỏ ý nghi ngờ khả năng của mình với công việc thứ sáu. Nhưng hai chàng trai mặt mày hớn hở nhảy cẫng lên vì vui sướng, cam kết rằng "chính" Di-gơ Do-rơ đã hứa sẽ lãnh đạo công việc thứ sáu.
- Một năm bốn tháng nữa, chú sẽ kiếm được một việc ở Trung Á - Đa-rơ Vê-te thốt lên, và khoái trá nhìn những khuôn mặt trẻ đầy vui sướng.
- May là chú không còn làm chủ nhiệm các Trạm liên lạc vũ trụ nữa! - Đi-xơ Ken reo lên - Chính cháu cũng không hy vọng được làm việc với một người chỉ đạo như thế! Gã trai đột nhiên đỏ bừng mặt, đến nỗi trán lấm tấm những hạt mồ hôi nhỏ, còn To-rơ thậm chí rời xa bạn, thái độ đầy vẻ trách móc.
Đa-rơ Vê-te vội tìm cách giúp con trai của Gơ-rôm Oóc-mơ thoát khỏi tình trạng khó xử vì trót lỡ lời.
- Các cháu có nhiều thời gian không?
- Không ạ. Chúng cháu chỉ được phép vắng mặt ba giờ: chúng cháu đưa một người ốm sốt rét từ trạm nghiên cứu của chúng cháu trên đầm lầy về đây.
- Thế bệnh sốt rét vẫn còn! Chú tưởng...
- Họa hoằn mới có và chỉ vùng đầm lầy thôi ạ! - Đi-xơ vội nói xen vào - chính vì thế mới cần có chúng cháu ở đấy!
- Chúng ta còn hai giờ nữa. Từ thành phố đi, chắc các cháu muốn đi xem Nhà trưng bày cái mới chứ?
- Ồ không ạ! Chúng cháu chỉ muốn... chú giải đáp những câu hỏi của chúng cháu. Chúng cháu đã chuẩn bị, và điều đó hết sức quan trọng đối với việc chọn con đường sau này...
Đa-rơ Vê-te đồng ý, và ba người đi vào một trong các căn phòng của nhà khách, đấy là những căn phòng mát mẻ, có gió biển nhân tạo.
Hai giờ sau, một toa xe khác đưa Đa-rơ Vê-te đi, anh mệt mỏi, thiu thiu ngủ trên đi văng. Anh thức giấc ở một bến đỗ trong Thành phố của các nhà hóa học. Một công trình xây dựng khổng lồ hình ngôi sao có mười cánh bằng kính, nhô cao trên một mỏ than lớn. Than khai thác ở đây được chế biến thành thuốc, thành các vi-ta-min, các hoóc-môn, thành tơ lụa và lông thú nhân tạo. Phế phẩm được dùng để chế tạo đường. Trong một cánh của tòa nhà bằng than, người ta khai thác những kim loại hiếm: Giéc-ma-ni và Va-na-đi. Cái khoáng chất đen quí giá này chứa đựng biết bao nhiêu của báu!
Một nhà hóa học ở đây ra ga đón anh, người này vốn là bạn cũ của anh. Trước kia đã từng có ba thợ cơ khí trẻ tuổi, vui tính làm việc tại trạm hái quả ở In-đô-nê-xi-a trong vành đai nhiệt đới... Bây giờ một người là nhà hóa học lãnh đạo một phòng thí nghiệm lớn của một nhà máy đồ sộ, người thứ hai vẫn làm nghề trồng vườn và đã tạo ra một cách thụ phấn mới, còn người thứ ba chính là Đa-rơ Vê-te bây giờ lại trở về giữa Trái đất, thậm chí vào giữa lòng sâu của Trái đất. Hai người bạn gặp nhau không quá mười phút, cuộc gặp mặt tuy ngắn ngủi nhưng vẫn còn thú vị hơn gặp nhau trên màn ảnh máy điện thoại truyền hình.
Chặng đường tiếp theo không dài lắm. Chủ nhiệm đường hàng không vĩ tuyến tỏ ra có dấu hiệu thiện ý - đấy là đặc điểm chung của những người thuộc thời đại Vành-khuyên, - ông chấp thuận yêu cầu của anh. Đa-rơ Vê-te bay qua đại dương và đến nhánh phía Tây của đường xoắn ốc ở phía Nam của phân nhánh 17. Ở cuối phân nhánh này, trên bờ đại dương, anh chuyển sang tàu trượt nước.
Những dãy núi cao ăn sát bờ biển. Ở chân những sườn dốc thoai thoải có những bậc đá trắng ngăn giữ lớp đất có những hàng cây thông phương Nam và cây uýt-đơ-rinh-tô-ni[8] trồng xen kẽ nhau, lá hình kim màu đồng và màu xanh nhạt, tạo thành những đường cây song song. Cao hơn nữa, những khối đá trần trụi phô ra những khe hẻm tối đen, những thác nước xối xuống đáy khe, bắn tung lên thành bụi nước. Trên các bậc thềm, những ngôi nhà nhỏ mái xám xanh, tường màu da cam hay vàng chóe nối liền nhau thành một chuỗi thưa thớt.
Xa xa ngoài biển khơi, nổi lên một bãi cát nhân tạo, cuối bãi là một ngọn tháp sóng vỗ bốn bề. Tháp dứng ở rìa một sườn lục địa dốc đứng đổ thẳng xuống đại dương tới độ sâu một ki-lô-mét. Dưới đáy tháp, một giếng mỏ khổng lồ chạy thẳng đứng xuống dưới: đấy là một ống xi-măng cực dày chống được sức ép của nước sâu. Ống cắm vào đỉnh một quả núi ngầm hầu như gồm toàn ru-tin (tức là ô-xít ti-tan) nguyên chất. Tất cả các quá trình xử lý quặng đều tiến hành dưới nước, dưới núi. Nổi lên trên mặt nước chỉ có những thỏi ti-tan nguyên chất cực to và bã quặng lềnh bềnh tản ra khắp xung quanh. Những làn sóng màu vàng đục ngầu làm cho chiếc tàu trượt nước bắt đầu tròng trành trước bến tàu phía Nam tháp. Đa-rơ Vê-te lợi dụng lúc thuận lợi, nhảy lên cái khoảng bằng ướt át vì nước bắn lên.
Anh lên dãy hành lang có rào bao quanh, ở đó mấy người không phải trực đã tụ tập để đón người bạn mới. Những người làm việc ở cái mỏ mà Đa-rơ Vê-te cảm thấy rất heo hút này không có vẻ gì là những người ẩn dật cau có như anh tưởng: do tâm trạng riêng của anh, anh mường tượng là sẽ gặp những người như thế ở đây. Nét mặt vui vẻ, hơi mệt mỏi vì công việc gian khổ, họ tươi cười chào mừng anh. Năm người nam, sáu người nữ, cả phụ nữ cũng làm việc tại đây...
Mười ngày sau, Đa-rơ Vê-te đã quen với hoạt động mới.
Ở đây có cơ sở điện lực riêng được giấu kín dưới những khu khai thác cũ: có những thiết bị năng lượng nguyên tử loại E, hay như tên gọi thời xưa, là năng lượng nguyên tử loại hai, không phát tia phóng xạ, vì vậy nó thích hợp cho các nhà máy điện địa phương.
Một hệ thống máy móc hết sức phức tạp đặt trong bụng một trái núi ngầm và ngập sâu vào lớp khoáng chất giòn, màu đỏ nâu. Công việc khó khăn nhất là ở tầng dưới của bộ máy liên hợp, nơi khai thác và nghiền quặng theo phương pháp tự động. Máy nhận được các tín hiệu từ trạm điều khiển trung tâm ở trên, trạm này khái quát những kết quả hoạt động của các thiết bị cắt và nghiền, quan sát độ rắn và độ nhớt của khoáng sản và theo dõi các bảng thông tin về việc làm giàu quặng. Tùy theo sự thay đổi hàm lượng kim loại mà tốc độ của máy khai thác và nghiền tăng lên hay giảm đi. Vì khu vực được bảo vệ chống sự xâm hại của biển chỉ có hạn, nên không thể giao toàn bộ việc kiểm tra quan sát cho các máy xi-béc-nê-tíc.
Đa-rơ Vê-te trở thành thợ cơ khí phụ trách việc kiểm tra và điều chỉnh hệ thống máy liên hợp bên dưới. Bắt đầu những phiên trực hàng ngày dài đằng đẵng trong căn buồng tranh tối tranh sáng, đầy rẫy những mặt số. Trong các buồng đó, máy bơm của bộ điều hòa không khí phải khó khăn lắm mới đấu tranh nổi với cái nóng kinh người. Đã thế không khí nén lại rỉ ra (điều này không thể tránh khỏi), làm áp suất tăng lên khiến cho tình trạng đó càng thêm trầm trọng.
Hết ca trực, Đa-rơ Vê-te và người giúp việc trẻ của anh lại lên trên mặt nước, đứng một lúc lâu trên bao lơn hít thở không khí trong lành, rồi lại đi tắm, đi ăn và ai về buồng nấy ở một trong những căn nhà nhỏ trên bờ biển. Đa-rơ Vê-te thử nối tiếp lại việc nghiên cứu phép tính cô-cơ-lê-a, một bộ môn mới của toán. Anh có cảm giác rằng anh đã quên sự tiếp xúc trước đây của mình với vũ trụ. Cũng như tất cả mọi người làm việc ở mỏ ti-tan, anh vui thích đưa tiễn chiếc mảng rời mỏ vào những kỳ nhất định, chở đi những thỏi ti-tan xếp rất gọn gàng. Sau khi giảm được các fron-cực, các trận bão trên hành tinh đã kém mạnh đi nhiều, và một số lớn công việc vận tải đường biển được thực hiện bằng những chiếc mảng do tàu dắt hay có động cơ tự chạy. Khi toán làm việc tại mỏ được toán khác đến thay, Đa-rơ Vê-te vẫn ở lại với hai người ham mê công việc khai khoáng.
Không có cái gì vĩnh viễn trong thế giới luôn luôn thay đổi này, và mỏ tạm ngừng hoạt động theo kỳ hạn thường lệ để sửa chữa máy liên hợp đào và nghiền quặng. Lần đầu tiên Đa-rơ Vê-te vào tận khoang đào trước cửa van, nơi mà chỉ có bộ áo giáp bảo vệ đặc biệt mới chống nổi hơi nóng, áp suất cao cũng như những luồng khí độc bất ngờ phụt ra từ kẽ nứt. Dưới ánh sáng chói lòa, những bức tường bằng ru-tin màu nâu lấp lánh một vẻ sáng đặc biệt như ánh kim cương và lóe lên những đốm lửa nhỏ, nom như những con mắt điên dại ẩn trong khoáng vật. Trong khoang đào yên lặng lạ thường. Cái choòng khoan điện thủy lực phóng hoa lửa và lần đầu tiên kể từ nhiều tháng qua, những đĩa khổng lồ phát sóng cực ngắn đứng yên không chuyển động. Bên dưới những bộ phận đó, các nhà địa vật lý mới tới loay hoay bố trí các dụng cụ để nhân dịp này kiểm tra chu vi của tầng quặng.
Trên mặt đất là những ngày yên tĩnh và nóng bức của mùa thu phương Nam. Đa-rơ Vê-te đi vào núi và cảm thấy một cách sắc bén lạ thường sự hùng tráng của những khối đá sừng sững nhô lên ở đây từ bao ngàn năm nay, trước biển và trời. Cỏ khô loạt soạt, tiếng sóng vỗ từ phía dưới vọng lên rất khẽ. Thân thể mệt mỏi đòi nghỉ, nhưng não thèm thuồng vồ lấy những cảm tưởng về thế giới, những cảm tưởng đã trở nên mới mẻ sau thời gian làm việc lâu dài và vất vả ở dưới đất.
Cựu chủ nhiệm các trạm ngoại vi hít mùi đá nóng và mùi cỏ vùng hoang mạc, đồng thời tin chắc rằng sắp tới sẽ còn nhiều điều tốt lành, và tương lai càng tốt đẹp thì bản thân anh sẽ càng hoàn hảo và mạnh hơn.
"Gieo hành động, gặt thói quen
"Gieo thói quen, gặt tính cách
"Gieo tính cách, gặt số phận".
Câu cách ngôn cổ chợt đến trong đầu anh. Đúng cuộc đấu tranh vĩ đại nhất của con người là đấu tranh với tính ích kỷ! Đấu tranh không phải bằng cách dựa vào những quy tắc đa cảm và thứ luân lý đẹp đẽ nhưng bất lực, mà dựa vào quan niệm biện chứng cho rằng tính ích kỷ không phải là sản phẩm của những tệ lậu nào đó, mà là bản năng tự nhiên của con người nguyên thủy, cái bản năng đã từng có vai trò rất lớn lao trong cuộc sống dã man và nhằm mục đích tự tồn. Điều đó giải thích tại sao ở những cá nhân lỗi lạc và mạnh, tính ích kỷ thường cũng mạnh và khó khắc phục hơn. Nhưng chiến thắng thói ích kỷ là điều cần thiết, thậm chí là điều quan trọng nhất trong xã hội thời nay. Cho nên người ta mới dành nhiều công sức và thời gian như thế cho việc giáo dục, mới nghiên cứu cẩn thận như thế cấu trúc di truyền của mỗi người. Sự pha trộn vĩ đại các chủng tộc và dân tộc đã đưa đến kết quả tạo thành một gia đình thống nhất của hành tinh, nhưng trong quá trình ấy, từ những ngóc ngách sâu kín nào không rõ của tính di truyền, những nét tính cách bất ngờ nhất của tổ tiên xa xôi đột nhiên lại bộc lộ ra. Đôi khi vẫn còn những lệch lạc tâm lý kỳ lạ đã từng xảy ra trong thời kỳ đầy những tai họa ghê gớm của kỷ nguyên Thế giới chia rẽ, khi người ta không thận trọng trong việc thí nghiệm và sử dụng năng lượng hạt nhân và làm tổn thương tính di truyền của nhiều người...
Đa-rơ Vê-te trước kia cũng có một cuốn gia phả dài, bây giờ tài liệu đó không cần thiết nữa. Việc nghiên cứu tổ tiên được thay thế bằng sự phân tích trực tiếp cấu tạo của cơ chế di truyền. Bây giờ sự phân tích đó càng quan trọng khi tuổi thọ của con người tăng lên nhiều. Từ kỷ nguyên Lao động chung, chúng ta đã sống tới một trăm bảy mươi tuổi, nhưng bây giờ thì rõ ràng ba trăm tuổi cũng chưa phải là giới hạn...
Tiếng đá lạo xạo khiến Đa-rơ Vê-te phải rời bỏ những suy nghĩ phức tạp và không rõ ràng của mình. Có hai người từ trên thung lũng đi xuống: người điều vận lò nấu chảy bằng điện - một phụ nữ bẽn lẽn và trầm lặng - và một kỹ sư nhỏ nhắn, linh hoạt. Cả hai đều đỏ mặt vì đi bộ nhanh. Họ chào anh và định đi, nhưng anh giữ họ lại, và nói với người phụ nữ:
- Từ lâu tôi đã định nhờ chị biểu diễn cho nghe bản nhạc vũ trụ fa thứ, màu lam, số mười ba. Chị đã chơi nhạc cho chúng tôi nhiều lần, nhưng chưa lần nào biểu diễn bản nhạc ấy.
- Anh muốn nói đến bản nhạc vũ trụ của Di-gơ Do-rơ chứ gì? - Người phụ nữ hỏi lại, và thấy Đa-rơ Vê-te phác một cử chỉ xác nhận, chị phá lên cười.
- Trên hành tinh chúng ta, không mấy người biểu diễn được tác phẩm ấy... Đàn dương cầm mặt trời ba phím thì nghèo âm điệu, mà hiện thời chưa có cải biên... và chắc là sẽ không có. Nhưng tại sao anh không đề nghị Nhà âm nhạc cao cấp cho nghe băng ghi âm bản nhạc đó? Máy thu của chúng ta là máy thu vạn năng và đủ mạnh.
- Tôi không biết thể thức làm việc đó như thế nào - Đa-rơ Vê-te ấp úng - Trước kia tôi chưa...
- Tối nay tôi sẽ gọi anh! - Nữ nhạc sĩ hứa với Đa-rơ Vê-te và chìa tay cho người bạn cùng đi, tiếp tục đi xuống phía dưới.
Từ lúc ấy đến tối, Đa-rơ Vê-te không thể nào rời bỏ cái cảm giác là sắp xảy ra một điều gì quan trọng. Với tâm trạng sốt ruột lạ lùng, anh chờ tới mười một giờ, giờ quy định của Nhà âm nhạc cao cấp để truyền đi bản giao hưởng.
Chị điều vận lò nấu điện đảm nhiệm việc bố trí chỗ ngồi: chị để Đa-rơ Vê-te và những người thích nhạc khác ngồi ở tiêu điểm của cái màn ảnh hình bán cầu ở phòng nhạc. Chị tắt đèn và giải thích rằng nếu không thì sẽ khó theo dõi phần màu của bản giao hưởng, phần này chỉ có thể trình bày trong căn phòng đặc biệt, còn ở đây thì đành chỉ bó hẹp trong màn ảnh.
Trong bóng tối, màn ảnh chỉ sáng mờ mờ và từ bên ngoài, có tiếng sóng biển rì rào rất khẽ, không ngớt lọt vào. Ở một nơi nào đó xa vô tận bỗng nảy ra một âm thanh thấp, trầm nặng đến nỗi tưởng chừng như nó là một sức mạnh có thể cảm thấy được. Nó mạnh lên, làm rung chuyển cả căn phòng và trái tim người nghe, và bỗng nhiên, nó vừa rơi xuống vừa tăng cung bậc, vỡ tan tành và tóe ra thành hàng triệu mảnh thủy tinh. Trong không trung tràn ngập bóng tối bắt đầu lóe lên những tia lửa li ti màu da cam. Cảnh tượng nom giống như làn sét nguyên thủy mà hàng triệu năm trước đã phóng ra trên Trái đất và lần đầu tiên liên kết những hợp chất các-bon thành những phân tử phức tạp hơn làm nền tảng cho vật chất hữu cơ và sự sống.
Một làn sóng âm thanh xao xuyến và lộn xộn ùa tới. Đó là bản hợp xướng vang lừng của ý chí của nỗi buồn và sự thất vọng... Làn sóng âm thanh ấy được bổ sung thêm bằng những đốm sáng nhấp nháy bùng lên rồi lại tắt thể hiện những sắc thái mờ mờ của các màu tía và đỏ thắm. Những nốt nhạc rung động ngắn ngủi và gay gắt nối tiếp nhau, tạo nên cảm giác về một trật tự vòng tròn, còn ở trên cao thì một luồng lửa xám cuộn lên thành hình xoáy ốc mờ nhạt. Đột nhiên, bản hợp xướng xoáy tròn bị cắt ngang bởi những nốt nhạc dài, kiêu hãnh và âm vang, tràn trề sức mạnh mãnh liệt.
Những đường viền lửa mờ nhòe của không gian bị những mũi tên xuyên qua, những mũi tên bằng vệt lửa rõ nét màu lam bay vào bóng tối không đáy ở ngoài rìa Đường xoáy ốc và chìm nghỉm trong đêm đen khủng khiếp và câm lặng.
Bóng tối và sự im lặng, phần thứ nhất của bản giao hưởng đã kết thúc như thế.
Người nghe hơi bàng hoàng, chưa kịp thốt lên một lời nào thì nhạc đã lại nổi lên. Những luồng âm thanh hùng tráng ùa tới từng đợt rộng lớn cùng với ánh sáng chói lòa, óng ánh nhiều màu. Những luồng âm thanh rơi xuống, càng xuống thấp càng yếu đi, và những ngon lửa chói lọi nhợt dần theo một nhịp điệu u sầu. Rồi một cái gì mỏng mảnh và hung hăng lại bắt đầu quẫy lộn trong những đợt âm thanh đang đổ xuống và những ngọn lửa xanh lại bắt đầu bốc lên theo một nhịp điệu nhảy nhót.
Đa-rơ Vê-te sửng sốt, anh cảm thấy những âm thanh màu xanh biểu lộ khát vọng vươn tới những nhịp điệu và hình thức ngày càng phức tạp, và anh cho rằng không thể nào phản ánh được cuộc đấu tranh của sự sống nguyên thủy chống lại en-tơ-rô-pi một cách tài tình hơn... Những bậc thang, những con đê, những tấm lọc ngăn giữ những luồng năng lượng rơi xuống các mức thấp. "Đúng, đúng như thế đấy! Đó chính là những làn gợn đầu tiên của sự tổ chức vật chất, một quá trình vô cùng phức tạp".
Những mũi tên xanh nối liền nhau thành một vòng múa của những hình hình học, của các hình dạng và các mạng tinh thể dần dần trở nên phức tạp, phù hợp với những kết hợp của các chồng âm thứ, tan hợp, hợp tan, rồi những mũi tên đột nhiên tan biến trong bóng tối nhờ nhờ màu xám.
Phần thứ ba của bản giao hưởng bắt đầu bằng những nốt trầm có bước đi khoan thai. Những ngọn đèn xanh bừng lên và tắt đi theo nhịp điệu nhạc và chạy mất hút vào vực thẳm của vô tận và của vĩnh viễn. Làn sóng triều của những âm thanh trầm hung dữ mỗi lúc một mạnh lên và nhịp điệu tăng nhanh, chuyển thành một điệu nhạc trúc trắc và ghê rợn. Những ngọn lửa xanh nom như những bông hoa trĩu xuống trên cuống lửa mảnh. Dưới sức ép của những nốt nhạc thấp vang dội như tiếng kèn, những bông hoa lửa rũ xuống một cách buồn rầu và tắt đi ở đằng xa. Nhưng những chuỗi hoa lửa hoặc những chuỗi đèn mỗi lúc một sít hơn, cuống của chúng dày hơn. Kìa, hai dải lửa đã vạch thành một con đường chạy vào khoảng tối đen vô hạn, và tiếng nói âm vang, óng ánh vàng của sự sống nhẹ nhàng trôi vào không gian bao la của vũ trụ, đem sức nóng huyền diệu sưởi ấm tính thờ ơ ủ rũ của vật chất vận động. Con đường tối biến thành con sông, thành một thác lửa xanh, trong đó những ngọn lửa nhiều màu nhấp nháy tạo thành những đường lượn mỗi lúc một phức tạp.
Những tổ hợp cao siêu của các đường cong đều đặn và của các mặt cầu toát ra một vẻ đẹp không kém gì các hợp âm nhiều bậc thay thế nhau theo nhịp điệu mãnh liệt, khiến cho điệu nhạc đang lan ra mỗi lúc một mạnh càng trở nên phức tạp thêm một cách mau lẹ...
Đa-rơ Vê-te choáng váng cả đầu óc, anh không còn theo dõi được tất cả các sắc thái của nhạc và ánh sáng, mà chỉ nắm được những nét đại cương của ý đồ sáng tác vĩ đại. Đại dương của những nốt cao vút, trong trẻo như pha-lê vỗ sóng bập bềnh, lấp lóe một màu xanh lam ngời ngợi, hùng tráng lạ thường, tràn ngập niềm vui sướng. Thanh âm mỗi lúc một cao, còn bản thân điệu nhạc biến thành một đường xoáy ốc đi lên quay tít, cho đến khi đột ngột dứt quãng, biến thành ánh lửa bừng chói.
Bản giao hưởng chấm dứt, và Đa-rơ Vê-te hiểu được rằng trong tất cả những tháng dài đằng đẵng ấy, anh thiếu thốn cái gì. Anh cần có một công việc gần vũ trụ hơn, gần cái đường xoáy ốc không ngừng vươn lên, thể hiện hoài bão của nhân loại muốn đi tới tương lai. Rời khỏi phòng nhạc, anh đi thẳng tới phòng đàm thoại và gọi Trạm trung tâm phân phối công việc của khu dân cư phương Bắc. Người nhân viên thông tin trẻ tuổi đã giới thiệu Đa-rơ Vê-te đến mỏ này nhận ra anh và tỏ vẻ mừng rỡ:
- Sáng nay, Hội đồng du hành vũ trụ gọi anh nhưng tôi không liên lạc được. Tôi bắt liên lạc cho anh ngay bây giờ đây.
Màn ảnh mờ đi và lại sáng bừng lên ngay. Mi-rơ Ôm, bí thư trưởng trong số bốn bí thư của Hội đồng, xuất hiện trên màn ảnh. Nom anh rất nghiêm trang, và Đa-rơ Vê-te cảm thấy anh có vẻ buồn nữa là khác.
- Một tai họa lớn! Vệ tinh số năm mươi bảy đã tan tành. Hội đồng tìm anh để trao một việc hết sức khó khăn. Tôi sẽ cho tàu liên hành tinh chạy động cơ i-on đến đón anh. Chuẩn bị đi!
Đa-rơ Vê-te ngạc nhiên, ngây ra trước màn ảnh.
 

[1] Thần ái tình ( thần thoại Hy-lạp) - ND
[2] Trường tích điện âm, ở khoảng không gian giữa các vì sao.
[3] Cây Cù Tùng - đặc trưng của vùng California nước Mỹ là loài cây quý hiếm lâu đời nhất thế giới và to nhất thế giới. Cây này có thể đạt độ cao tới 100 m. Tuy nhiên, vì sự ấm dần lên của trái đất mà loài này đang đứng trước những nguy cơ bị huỷ diệt.
Loài cây cù tùng tại California có thể cao hơn 100 m và sống 3.000 năm tuổi được mệnh danh là ông vua của cánh rừng nơi đây, đồng thời cũng có tuổi đời cao nhất hành tinh. Ngoài ra, trong hốc cây còn là nơi sinh sống của nhiều loài động vật. Nhưng ngày nay, do tác động của con người và sự ấm dần lên của Trái đất nên đã làm giảm khả năng tăng trưởng của cây.
Trên sườn núi thuộc dãy Nevada của California cây cù tùng mọc rất nhiều ở độ cao giữa 1.500 m và 2.000 m, bởi ở đó chúng mới có được lượng tuyết đủ sống. Theo các chuyên gia, nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng thì nguy cơ biến mất của loài cây không lổ này càng cao.
 
Chú thích:
[4] Bức tranh in bằng những màu có tính phản xạ ánh sáng bên trong, làm cho hình ảnh nổi hẳn lên theo sự chuyển biến tự nhiên giữa màu và ánh sang.
[5] Đá núi màu trắng, có vân.
[6] Loại cây màu trắng bạc ở Nam Phi, có lá hình kim màu bạc óng ánh.
[7] Khoa học điều khiển tính di truyền. Nhịp điệu di truyền là sự hài hòa và tính liên tục của sự gia tăng các chuỗi phân tử của chất sống, tiếp đó là tăng thêm các phân tử của cơ thể (tưởng tượng).
[8] Loại thông Nam phi.