uy cho cùng, tự hắn làm hỏng cuộc đời hắn. Được trời phú cho bộ óc thông minh, tỉnh táo như người ta, hắn đã có thể là người thành đạt mọi mặt. Giữa lúc chiến tranh ác liệt nhất, bao người cùng tuổi phải ra trận thì hắn được gửi đi Liên Xô, học ngay tại trường Đại học Lômônôxôp danh tiếng, đúng cái ngành thời ấy chưa phổ biến nhưng đầy triển vọng là tin học. Hắn học giỏi, của đáng tội. Còn là sinh viên năm thứ ba, hắn đã có một loạt bài in trên tạp chí chuyên ngành của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, dấu hiệu chắc chắn của sự xuất chúng, nếu không thành thiên tài thì bét ra cũng là một nhân vật tầm cỡ trong giới mình, nếu biết phát triển đúng hướng tài năng của hắn. Tiếc thay, hắn đã chọn sai hướng nên rốt cục mới đến nông nỗi này.
Số là vào những năm cuối đại học, không hiểu ai xui hay do nguyên cớ gì mà bỗng dưng hắn đâm ra rất mê thơ. Nếu biết dừng ở đấy thì chẳng sao. Yêu thơ là điều vô hại và có thể còn làm cuộc sống thêm phần mơ mộng. Đằng này, thay cho việc tập trung nghiên cứu khoa học, hắn dành toàn bộ thời gian nghiền ngẫm, nhấm nháp hàng đống thơ, cả thơ ta lẫn thơ tây. Xong phần đọc, hắn chuyển sang viết. Viết ngày, viết đêm. Về số lượng có thể gọi vô địch. Vô địch cả về tốc độ lẫn sự kiên nhẫn.
Trong khoa học mọi thứ rạch ròi và dễ đánh giá, nhưng văn thơ lại là chuyện khác. Không quan tâm người đời đánh giá thế nào, không mảy may nghi ngờ sự thành công sau này, hắn cắm cúi viết. Lúc ấy hắn còn trẻ, chỉ thấy tương lai toàn màu hồng mà không muốn nghĩ tới những tai ương có thể đến, nhất là khi quyết tâm dấn thân vào "sự nghiệp thơ văn vĩ đại".
Tổn thất đầu tiên của cái "sự nghiệp" ấy là do bỏ bễ học hành, hắn không được ở lại học tiếp để lấy bằng tiến sĩ, điều trước đó ai cũng coi như chuyện đương nhiên. Hắn chỉ tốt nghiệp loại bình thường, rồi lên đường về nước như người khác, nhưng không vì thế mà hắn buồn. Hắn được phân làm việc tại một Viện nghiên cứu đúng ngành học. Cả lần này, đáng lẽ tập trung nghiên cứu chuyên môn, hắn lại dành hết thời gian cho thơ, không ngó ngàng gì đến công việc được giao, thành ra chẳng bao lâu đã bị đuổi việc. May còn giữ được một chỗ nằm trong khu tập thể Viện.
Hắn dồn dập gửi đến tất cả các báo, các tạp chí cả ở trung ương lẫn địa phương từng tập dày thơ hắn viết, nhiều đến mức người ta nghĩ hắn là anh tâm thần, và do đó ngại nhận thơ hắn, chưa nói đến đọc. Không loại trừ khả năng trong đấy có những bài hay, nhưng có ai đọc đâu mà biết. Họa hoằn lắm, chắc do thương tình, người ta mới đăng một vài bài, làm hắn sướng rơn, càng quyết tâm hơn trong việc đeo đuổi sự nghiệp. Cuộc đời các thiên tài, nhất là trong lĩnh vực thơ ca, bao giờ chẳng gặp trắc trở. Sau này mọi người sẽ hiểu, sẽ đánh giá đúng chân giá trị của ta. Hắn tin chắc như vậy và lại cắm cúi viết, viết liên tục không ngừng nghỉ.
Có một nàng sinh viên khoa văn Tổng hợp, cũng lãng mạn và viển vông không kém, dường như hiểu hắn. Nàng say sưa đọc hết những gì hắn viết và tuyên bố rằng hắn là "một thiên tài vượt tầm thời đại nên chưa được thừa nhận". Nàng tin vào sự nghiệp của hắn, tin đến mức xin được làm vợ rồi đưa hắn về ở chung nhà với bố mẹ, lấy tiền bố mẹ nuôi hắn tiếp tục làm thơ. Họ có với nhau một đứa con. Bao lo toan cuộc sống tất nhiên đổ lên đầu nàng, lúc ấy đang làm nghề đánh máy thuê. Đánh máy cho người thì ít, cho chồng thì nhiều.
Phải công nhận vợ hắn là người phụ nữ lý tưởng, một tấm gương sáng chói trong việc phụng sự chồng đeo đuổi sự nghiệp. Nhưng ở đời mọi cái đều có giới hạn. Dần dần, cả người vợ "lý tưởng" ấy cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và thoáng chút nghi ngờ về tương lai thiên tài của chồng. Quan trọng hơn cả là nàng ấm ức tiếc những bao tải thơ hắn chất trong nhà (vì không đủ giá sách) không phải những bao gạo có thể nuôi sống gia đình, rằng giá chồng bớt làm thơ chút ít để giúp nàng kiếm sống thì sẽ tốt hơn. Nàng lựa lời nói với hắn điều ấy, tất nhiên hắn không chịu, thậm chí còn chê nàng dung tục. Cuộc sống văn xuôi hàng ngày cứ thế gậm nhấm dần chất thơ lãng mạn một thời rất bay bổng trong tâm hồn nàng, kèm theo cả sự hoài nghi về tương lai của người chồng vĩ đại. Rồi một sáng đẹp trời, khi giọt kiên nhẫn cuối cùng biến mất sau một trận cãi nhau, nàng tuyên bố ly dị và lịch sự mời hắn ra khỏi nhà cùng những bao tải thơ của hắn. Với sự dũng cảm của một thiên tài bị hắt hủi, hắn lẳng lặng ra đi không một lời oán trách, không tiền, không nghề nghiệp và cũng không chỗ đặt lưng ban đêm.
Từ đấy hắn thành thằng vô gia cư, ngủ vật vạ nay đây mai đó, lúc gầm cầu, lúc xó chợ. Vì là nhà thơ, lại nhà thơ thiên tài, hắn rất sĩ. Không bao giờ hắn ngửa tay xin ai cái gì. Không bao giờ hắn nhờ bạn bè hoặc vợ con giúp đỡ. Hắn nhận làm những việc lặt vặt để khỏi chết đói, nếu có việc và người ta chịu thuê hắn. Cái nhu cầu ăn của hắn ít lắm, vì hắn sống bằng những áng thơ luôn đầy ắp trong đầu. Mọi người tỏ vẻ ái ngại, còn hắn thì thầm cười giễu chất thực dụng ngu dốt của họ.
Một hôm, nhặt được tờ báo cũ ai vứt bên đường, hắn ngồi xuống lơ đãng đọc, chủ yếu để quên đi cái bụng đói đang giày vò. Tờ báo có một bài dài nói về tập đoàn phần mềm Microsoft và người sáng lập nó, Bill Gates, cũng là người giàu nhất hành tinh hiện nay, có kèm theo cả địa chỉ e-mail của ông ta.
Hắn tư lự hồi lâu, nhớ lại cái chuyên môn xa xưa của hắn, rồi bất chợt nảy ra một ý tưởng rất độc đáo. Hắn chạy vội đến nhà một người quen có máy vi tính và đánh đi một bức thư điện tử như sau:
"Thưa ông Bill Gates,
Tôi viết thư này cho ông với tư cách người nghèo nhất thế giới gửi người giàu nhất thế giới. Ấy là nói về vật chất chứ về tinh thần chưa hẳn ông đã giàu hơn tôi. Tôi không có ý đinh xin tiền hay nhờ ông giúp đỡ, đừng ngại. Đơn giản tôi nghĩ trong hơn sáu tỉ người đang sống trên trái đất, tôi và ông là hai người đặc biệt ở hai cực của thước đo vật chất. Ông không nghĩ chỉ riêng điều ấy cũng đáng cho ta có đôi lời trao đổi hay sao? Tôi tò mò muốn biết ông có thực sự hạnh phúc hay không với khoản gia tài gần trăm tỉ đô-la của ông, cũng như ông có muốn biết tôi thực sự cảm thấy bất hạnh hay không khi đã nhiều ngày nay tôi chẳng có đồng xu nào trong túi và hiện đang rất đói. Là nhà kinh doanh, ông đã đạt đến tột đỉnh của sự giàu có. Là nhà thơ, tôi đang phấn đấu vươn tới đỉnh vinh quang của mình. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông chia sẻ phần nào bí quyết thành công của ông với tôi, một người đang gặp khó khăn trên con đường đã chọn.
Kính thư,
N.G.V
người nghèo nhất thế giới".
Xong, hắn ôm bụng đói lê bước về ngủ dưới chân cầu Long Biên.
°
Ngay chiều hôm ấy, một người Âu đứng tuổi ăn mặc lịch sự đến tìm hắn khi hắn đang nằm còng queo dưới chân cầu, suýt ngất xỉu vì đói. Người đàn ông cúi đầu thật thấp, cung kính nói với hắn:
- Thưa ông, tôi là trợ lí thứ nhất, đồng thời là đại diện được ủy quyền của ông Bill Gates, người vừa hân hạnh nhận được thư ông cách đây đúng ba giờ...
- Thư nào? Thư tôi gửi cho ông Bill Gates?
- Vâng, đúng thế, thưa ông. Thư của người nghèo nhất thế giới gửi người giàu nhất thế giới.
- À, tôi nhớ ra rồi,- hắn dụi mắt.- Tôi vừa gửi xong, sao ông có thể từ Mỹ đến đây nhanh thế, mà rồi bằng cách nào ông tìm được tôi ở đây? Hay ông là ma quỷ có phép lạ?
- Không, chúng tôi cũng người trần như ông thôi, nhưng chúng tôi có cái này còn hơn cả các phép lạ ngày xưa trong chuyện cổ tích,- ông kia mỉm cười, móc từ túi áo ra chiếc máy vi tính nhỏ chỉ bằng lòng bàn tay.- Là người đứng đầu tập đoàn phần mềm hùng mạnh nhất thế giới, ông Bill Gates tự cho phép mình được sử dụng một loại computer đặc biệt với những chương trình phần mềm đặc biệt, siêu mạnh, siêu chức năng mà ông sẽ không bao giờ cho sản xuất hàng loạt, và chỉ dùng trong những trường hợp hết sức cần thiết như lần này, khi quyết định cử tôi đến đây gặp ông. Đích thân ông Bill Gates lập trình rồi bấm vào cái nút này,- ông ta chỉ một chấm đỏ trên chiếc máy.- Thế là tôi được gửi đến đây bằng người thật, như ông gửi thư và ảnh khắp thế giới qua loại computer bình thường bày bán ở cửa hàng. Còn bằng cách nào tìm được ông thì là công việc bình thường của những chiếc máy đời thấp. Tôi nghĩ ông đang đói. Trước khi chúng ta bắt đầu nói chuyện, ông nên ăn chút ít và chấn chỉnh lại vẻ ngoài của mình. Ông cho phép tôi được giúp đỡ? Hắn gật đầu. Ông kia bấm bấm gì đấy lên bàn phím chiếc máy tí hon. Mấy phút sau, một chiếc Cadilac dài thuỗn màu đen bóng lộn chở đến chiếc bàn con phủ khăn trắng muốt cùng những món ăn cần thiết, hai chiếc ghế bọc da thật, một bộ com-lê mới toanh kèm theo sơ mi, cà vạt, đồ lót và một thùng nước nóng để tắm rửa. Tất cả đều mang nhãn hiệu Khách sạn Hilton. Hai nhân viên phục vụ đi theo ô tô, một tây một ta, đều đeo phù hiệu Hilton trên ngực và cổ thắt nơ màu đỏ.
- Ông chủ tôi rất cảm kích trước bức thư của ông,- ông trợ lí cao cấp của Bill Gates nói khi hắn tắm rửa, thay quần áo xong và hai người cùng ngồi ăn ngay trên chỗ hắn vừa nằm sau khi được các nhân viên khách sạn Hilton dọn dẹp và trải thảm.- Ông ấy thích làm bạn và giúp đỡ những người nghèo nhất thế giới, mỗi năm một người, thường thì do hệ thống vi tính toàn cầu của chúng tôi phát hiện. Năm ngoái là một phụ nữ Xu-đăng. Ông Bill Gates tặng bà ấy tiền, khá nhiều, tiếc rằng số tiền đó chẳng làm bà ta giàu hơn hay hạnh phúc hơn. Còn ông là trường hợp đặc biệt, do vậy đích thân tôi đến gặp chứ không phải đại diện Microsoft ở nước sở tại như thường lệ. Tôi biết ông là nhà thơ, có thể là nhà thơ xuất chúng, để tôi cho máy tính kiểm tra lại. Hơn nữa, công bằng mà nói, chính ông đã góp phần không nhỏ giúp ông chủ tôi trở thành người như ngày nay...
Hắn ngừng ăn, nhìn khách vẻ không hiểu.
Ông kia nói tiếp:
- Với sự đồng ý của ông Bill Gates, tôi xin được phép tiết lộ điều này. Những ý tưởng thiên tài của ông trong một bài báo đăng trên tờ tạp chí chuyên ngành Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô khi ông mới là sinh viên năm thứ ba ở Matxcơva đã được ông Bill Gates và bạn ông, lúc ấy cũng sinh viên như ông ở Đại học Havard, phát triển làm cơ sở phát triển chương trình MS-DOS nổi tiếng, tiền thân của các chương trình Windows sau này.
- Nghĩa là ông ấy đã ăn cắp bản quyền của tôi?
- Trên phương diện pháp lý thì không, nhưng về tình cảm, quả ông Bill Gates luôn có cảm giác mắc nợ ông, và đây là cơ hội lý tưởng để ông ấy trả món nợ đó. Tôi được trao toàn quyền thay mặt ông chủ tôi đáp ứng mọi yêu cầu giúp đỡ của ông, nếu có.
Hắn ngồi im hồi lâu không đáp.
- Cho phép tôi được tò mò. Tôi muốn biết vì sao ông quyết định từ bỏ con đường khoa học mà ông đã khởi đầu hết sức tốt đẹp?
- Tôi có một sự nghiệp khác còn tốt đẹp hơn để đeo đuổi, đó là thơ.
- Tôi tôn trọng sự lựa chọn của ông mà tôi cho là đúng đắn, vì ông là một người thông minh. À mà nhân tiện, ông có thể vui lòng cho tôi đo chỉ số thông minh IQ của ông được không? Ông Bill Gates nhờ tôi làm việc này, nếu ông không phản đối, tất nhiên. Cảm ơn ông. Xin ông đặt ngón tay trỏ vào nút này. Thế, thế. Trời ơi - 250! Như ông biết, 120 đã được coi là thông minh, thế mà IQ của ông những 250, trong khi của ông Bill Gates là180, tổng thống Bill Clinton - 163 và thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ là gần 200. Xin ông chờ cho một phút để tôi báo tin này với ông chủ. Xong rồi, cảm ơn. Vậy thưa ông, xin vui lòng cho biết tôi có thể làm gì để giúp ông?
Thấy hắn vẫn ngồi im không đáp, ông đại diện Microsoft nói:
- Có lẽ ông cần nghỉ ngơi chút ít chăng?- Rồi ông ta lại bấm vào một nút nào đấy trên chiếc máy vi tính. Năm phút sau một chiếc Cadilac khác xuất hiện. Nó có màu trắng như thuyết, cũng sáu cửa và mới cứng. Trong xe có giường, bồn vệ sinh, bàn làm việc và chiếc bồn tắm mini.
- Tôi đã đặt chỗ vô thời hạn cho ông ở khách sạn Hilton,- ông ta nói khi hai người ngồi trên xe.- Nghe nói đó là khách sạn tốt nhất ở Hà Nội, không hiểu đúng không? Tôi còn mua bao tất cả các chương trình hòa nhạc ở Nhà Hát Lớn cạnh đấy để lúc rỗi ông đến nghe giải trí. Mọi chi phí sinh hoạt ở khách sạn này và ở Việt Nam nói chung, ông chỉ việc kí vào hóa đơn thanh toán. Phần còn lại sẽ có người lo. Còn đây là số tài khoản hãng chúng tôi, trường hợp ông cần tiền chi tiêu ở những nơi, những việc không có hóa đơn thanh toán.
Khi xe đỗ trước cửa khách sạn và một cô nhân viên mặc áo dài màu hồng đẹp như tiên đang định đưa hắn lên phòng nghỉ thì ông kia nói thêm, với vẻ nhún nhường và cung kính cố ý, khiến ngay lập tức hắn trở thành một VIP trong con mắt tất cả mọi người:
- Thưa ông, tôi có mang từ Mỹ sang một chiếc vi tính chuyên dụng hiện để trên phòng ông. Đây là password để ông nói chuyện với tôi qua màn hình. Còn đây là một password khác mà tôi hy vọng chỉ những lúc thật cần thiết ông mới sử dụng, vì nó sẽ bắt tôi ngay lập tức phải xuất hiện trước mặt ông bằng xương bằng thịt, cho dù lúc ấy tôi đang ở đâu và làm gì. Thú thật với ông, tôi chẳng mấy thú vị khi bị gọi theo cách này, hơn nữa nó không phải không gây đôi chút đau đớn. Chúc ông nghỉ ngơi thoải mái và suy nghĩ kỹ về điều tôi hỏi ông lúc nãy. Còn bây giờ, với sự cho phép của ông, tôi xin được đi dạo một chốc quanh phố phường Hà Nội để biết thêm về thủ đô xinh đẹp của nước ông, nhân tiện tìm hiểu xem tình hình vi phạm bản quyền phần mềm Microsoft ở đây như thế nào. Xin hẹn ông tối nay gặp lại.
°
Tám giờ tối, cô áo hồng xinh đẹp bấm chuông, bảo nếu hắn đã sẵn sàng thì xin mời xuống phòng ăn khách sạn để dùng bữa, có người đang đợi. Cô ta cố mỉm cười thật duyên để gây cảm tình với ông khách giàu có, nhưng hắn chẳng thèm chú ý. Bây giờ trông hắn thật ấn tượng. Chừng ấy năm sống ở nước ngoài giúp hắn có được phong thái vừa trang trọng vừa tế nhị. Bộ quần áo đặt mua qua máy vi tính vừa vặn một cách đáng kinh ngạc. Mấy tiếng nghỉ ngơi và bữa ăn đủ chất buổi trưa làm hắn tươi tỉnh trở lại. Hắn nhìn vào gương lần nữa trước khi rời phòng với vẻ hài lòng. Mái tóc chải mượt, râu ria nhẵn nhụi, làn da trơn mịn, phải chú ý lắm mới nhận thấy dấu vết những đợt đói kéo dài trước đó.
Ông trợ lý của Bill Gates vội nhỏm dậy khi thấy hắn ở chân cầu thang, và tiến lên mấy bước để đón hắn. Chính ông ta cũng tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự thay đổi bề ngoài của hắn. Ông ta nói:
- Xin hân hạnh được báo ông biết rằng ông chủ tôi rất hài lòng về cuộc gặp của chúng ta hôm nay, cũng như về những thông tin mới ông ấy có được liên quan đến ông. Ông ấy hy vọng sẽ hân hạnh trực tiếp gặp và nói chuyện với ông vào thời điểm thích hợp. Thế nào, ông nghỉ ngơi thoải mái chứ? Ông có gì phàn nàn về tiện nghi và phục vụ ở khách sạn này không?
- Không, cảm ơn, mọi thứ đều tốt. Tôi cũng nhờ ông chuyển lời cảm ơn của tôi tới ông Bill Gates. Tôi sẽ rất vinh dự được gặp ông ấy khi điều kiện cho phép,- hắn lịch sự đáp.
Người phục vụ mang các món ăn và rượu đến. Hai người vừa ăn vừa thong
thả nói chuyện.
- Tôi có thêm một tin vui nữa để thông báo cho ông. Các máy vi tính siêu thông minh của chúng tôi đã thẩm định tất cả những bài thơ ông sáng tác từ trước đến nay, ngoại trừ những bài ông chưa kịp viết lên giấy. Xin ông đừng hỏi chúng tôi làm việc này bằng cách nào. Đấy là công việc của các chuyên gia bình thường, ông khỏi bận tâm. Kết quả thật đáng ấn tượng. Trong lĩnh vực thơ, thành tựu ông đạt được là không thể phủ nhận, cả vế số lượng lẫn chất lượng. Chúng tôi đã so sánh tác phẩm của ông với tác phẩm các nhà thơ được giải Noben, và nhất trí đi đến kết luận rằng, xét về mọi phương diện - tư tưởng, hình thức, thi pháp,- ông không hề thua kém chút nào, nếu không muốn nói còn vượt trội...
- Cảm ơn ông,- hắn đáp một cách khiêm tốn.
- Xin được hỏi ông một câu, có thể không thật tế nhị lắm. Ông đã cho đăng bao nhiêu bài trong số hơn mười nghìn bài ông sáng tác?
- Tôi mới chỉ được in không quá mười bài.
- Chỉ mười bài trong số mười nghìn bài trong mười năm? Xin lỗi, thế mỗi bài ông nhận được bao nhiêu tiền nhuận bút?
- Quy ra tiền Mỹ khoảng hai đô-la. Ấy là bây giờ, trước kia còn ít hơn.
Ông kia ngồi im một lúc rồi thở dài:
- Bây giờ thì tôi hiểu vì sao một thiên tài như ông lại trở thành người nghèo nhất thế giới. Ở nước chúng tôi cũng chẳng nhiều người sống được nhờ sáng tác thơ, nhưng hai mươi đô-la trong mười năm, lại với một người như ông thì quả ngoài sức tôi tưởng tượng. Sao ông không cho đăng nhiều hơn?
- Thì tôi vừa nói chỉ được in...- hắn cười ngượng ngập.
- Lúc nãy vào hiệu sách, tôi thấy có rất nhiều thơ bày bán. Không lẽ ở Việt Nam còn nhiều nhà thơ khác giỏi hơn ông?
- Cái ấy tôi không biết. Nhưng người ta in được vì họ có tiền. Ở đây ai có tiền cũng in được thơ, in bao nhiêu tùy thích và nghiễm nhiên thành nhà thơ. Còn tôi thì...
- Vâng, vâng, tôi hiểu,- ông kia vội cắt ngang.- Bây giờ ông có tiền, ông sẽ in các tác phẩm thiên tài của ông, đúng thế chứ?
- Vâng, nếu được các ông cho phép.
- Và ông sẽ trở nên nổi tiếng và giàu có?
- Nổi tiếng thì chưa biết, nhưng chắc chắn tôi sẽ lại nghèo đói.- Thấy ông kia có vẻ không hiểu, hắn nói thêm:- Vì ở đây không ai mua thơ. Người ta bỏ tiền in chỉ để chứng tỏ mình là nhà thơ. Tuy nhiên tôi không thuộc loại này.
Họ im lặng, không nói gì thêm về thơ. Hình như cả hai đều muốn chuyển sang đề tài khác.
- Vậy xin cho biết, chúng tôi có thể làm được gì để giúp ông?- ông kia lên tiếng trước.- Để ông tham khảo, tôi mạn phép gợi ý hai điều sau. Xin ông cân nhắc và cho biết ý kiến. Ông Bill Gates có nhã ý muốn mời ông sang Mỹ làm cố vấn kỹ thuật hoặc phụ trách bộ phận nghiên cứu và chế tạo của hãng Microsoft, với chức vụ và lương tương đương phó tổng giám đốc. Còn nếu ông vì lý do nào đấy muốn ở lại Việt Nam, hãng chúng tôi sẽ giúp đỡ cả thiết bị, kỹ thuật lẫn tài chính để biến ông thành "vua phần mềm" ở Việt Nam, cũng có nghĩa là người giàu nhất ở nước ông. Xin ông hãy coi đây như tiền trả món nợ do ông Bill Gates sử dụng ý tưởng của ông ngày nào.
Hắn ngồi im hồi lâu không nói gì. Ông kia kiên nhẫn chờ. Cuối cùng hắn đáp một cách uể oải:
- Cảm ơn các ông. Mặc dù cả hai đề nghị của các ông đều rất cám dỗ, nhưng đó không phải những gì tôi mong muốn đạt được. Nếu không, tôi đã chẳng từ bỏ khoa học.
- Phải thừa nhận ông nói đúng. Vậy lần nữa xin được hỏi: Ông muốn gì?
- Tôi muốn có những sáng tác thơ hay hơn và được mọi người hiểu đúng giá trị của chúng. Tôi muốn một, hai trăm năm nữa người ta vẫn đọc thơ tôi như chúng tôi đang đọc thơ của thi hào Nguyễn Du chẳng hạn.
Đến lượt ông kia ngồi im.
- Điều thứ nhất, chúng tôi có thể giúp ông được,- ông kia lên tiếng khi thấy tiếp tục giữ im lặng là bất tiện.- Với tài năng sẵn có của ông, cộng công nghệ siêu việt của chúng tôi, ông sẽ sáng tác được những bài thơ bất hủ đáng lưu danh muôn đời. Ngay chốc nữa, tôi sẽ yêu cầu các chuyên gia của chúng tôi giải mã thi pháp nhà thơ Nguyễn Du ông vừa nói, rồi lập riêng một chương trình phần mềm đặc biệt để ông sử dụng khi sáng tác. Tôi xin cam đoan trước rằng thơ ông sẽ không thua kém thơ Nguyễn Du. Còn điều thứ hai, tức là việc giúp ông trở thành nổi tiếng và có thơ được đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học hàng trăm năm sau thì thú thật, với trình độ tin học hiện nay, rất tiếc chúng tôi chưa làm nổi, vì đây là vấn đề xã hội phức tạp với các đặc trưng truyền thống, chính trị, tâm lí cũng phức tạp không kém. Chúng tôi quả chưa hiểu mấy về văn hóa, tập quán và cách nghĩ của người Việt Nam, nên khó có thể lập được một chương trình phù hợp với ông trong vấn đề này. Nếu ông là người Mỹ, sống ở Mỹ, mọi việc sẽ đơn giản hơn nhiều.
Ông kia ngừng lời, rót sâm banh và họ lại chạm cốc.
- Vậy coi như chúng ta đã thỏa thuận,- ông ta nói.- Ông sẽ ở khách sạn Hilton này hoặc bất kì khách sạn nào khác ông muốn, bao lâu tùy thích. Đừng ngần ngại chi tiền cho việc in thơ và những khoản chi tiêu khác. Ngay tuần tới ông sẽ có chương trình phần mềm sáng tác thơ đạt chất lượng hay bằng hoặc hơn Nguyễn Du. Tôi tin ông sẽ thành công trong sự nghiệp này của mình, mặc dù trong thâm tâm, tôi lấy làm tiếc ông đã không chấp nhận một trong hai đề nghị thiết thực và rất khả thi trên của chúng tôi. Tôi đã thu xếp mọi chuyện với khách sạn, chỉ phiền ông mỗi tháng một lần kí vào các biên lai thanh toán. Tiền mặt ông sẽ rút ở chi nhánh ngân hàng Citibank phố bên. Tôi đã dặn họ không được hạn chế số tiền ông rút mỗi lần, đặc biệt không bao giờ được hỏi rút nhằm mục đích gì. Bất kỳ lúc nào ông cũng có thể gặp tôi bằng cách sử dụng password đầu, tức là qua màn hình vi tính. Chỉ lưu ý ông trường hợp tối cần thiết mới sử dụng password thứ hai. Ông biết đấy, tôi chẳng còn trẻ, và nếu có bị xé nhỏ thành hàng tỉ phân tử để trong nháy mắt vượt hàng vạn cây số đến với ông, thì đương nhiên phải là vì những lý do xác đáng. Đấy, đấy, xin lỗi ông, ông Bill Gates biết chúng ta xong việc, đang gọi tôi về gấp để dự một cuộc họp quan trọng. Chào ông. Chúc ông thành công!...
"Chúc ông thành công. Hẹn... gặp... lại..."- tiếng nói của ông đại diện Microsoft nhỏ dần, nhỏ dần. Bản thân ông ta cũng đang teo lại, trở nên trong suốt và từ từ biến mất như làn khói mỏng ngay trước mặt hắn.
- Tội nghiệp ông già,- hắn lẩm bẩm, ngồi thêm chốc nữa để uống nốt cốc sâm-banh rồi bỏ lên phòng, không quên để lại tờ giấy bạc một trăm đô-la tiền "boa" cho nhân viên phục vụ.
°
Suốt cả năm sau đó hắn sống một cuộc sống đế vương thực sự. Cuối mỗi tháng người ta đưa hắn ký các hóa đơn thanh toán, gồm mười bốn nghìn đô tiền phòng (hắn ở phòng kiểu căn hộ ba buồng - buồng ngủ, buồng khách và buồng làm việc), năm nghìn đô tiền ăn và khoảng ngần ấy tiền thuê ô tô, giặt là, báo chí, điện thoại và Internet. Cũng mỗi tháng một lần hắn đến Citibank rút mười lăm, hai mươi nghìn đô để in thơ và tiêu vặt. Lúc đầu hắn cũng ngại tiêu quá nhiều tiền của người khác, nhưng khốn nỗi, ông đại diện kia cứ thỉnh thoảng bật máy nói chuyện với hắn, hỏi thăm cái này cái nọ và lần nào cũng phàn nàn hắn chi tiền quá khiêm tốn. Có hôm rỗi rãi, ông còn tán chuyện hồi lâu với hắn. Ông cho biết Bill Gates, người giàu nhất hành tinh mà chẳng cảm thấy hạnh phúc hơn những người nghèo; tháng trước vợ chồng ông ta cãi nhau to suýt đâm đơn li dị chỉ vì một con chó nhỏ nào đấy, vân vân... "Ông biết không,- ông ta nói,- ông chủ tôi đã viết di chúc cho đăng trên báo, rằng sau khi chết ông sẽ hiến 95% tổng số tài sản của mình cho các hoạt động từ thiện. Thành ra ông đừng quá bận tâm về các khoản tiền ông chi. Cứ coi như ứng trước số tiền 95% kia, vì thực sự công việc ông đang làm cũng đầy tính nhân văn cao cả".
Phải nói rằng hắn không hề có ý khoe khoang sự giàu có của mình. Hắn ít ra ngoài, mà có đi đâu, bao giờ cũng bắt lái xe kéo hết rèm che cửa. Cần mua bán hay giao dịch việc gì, hắn đều nhờ nhân viên khách sạn, những người luôn hăm hở giúp hắn vì lần nào cũng được "boa" một vài chục đô. Trong khách sạn, hắn trở thành nhân vật nổi tiếng và bí ẩn. Thấy hắn từ xa, ít nhất luôn có ba nam nhân viên chạy đến tranh nhau mở cửa hoặc kéo ghế mời ngồi, mười cô xinh đẹp cùng một lúc mỉm cười thật duyên và cúi chào thật thấp. Còn ông chủ khách sạn thì cứ sau mỗi câu nói với hắn lại thêm chữ "thưa ngài" rất cung kính. Nhưng nhiệt tình nhất và cũng có lẽ xấn xổ nhất vẫn là cô gái mặc áo dài màu hồng đẹp như tiên hắn gặp hôm mới tới khách sạn. Rõ ràng nàng luôn tìm cách "tấn công" hắn, đôi khi hơi lộ liễu. Nhiều hôm nàng tự nhiên gõ cửa phòng hắn, giả vờ hỏi có cần gì không rồi nấn ná ở lại rất lâu, khéo léo phô bày những bộ phận khêu gợi nhất của cơ thể mình. Nhưng hắn không màng tới nàng hay bất kỳ một người đàn bà nào khác, chỉ suốt ngày hí húi làm thơ. Thấy để khách ngồi mãi không được tiếp cũng bất tiện, hắn đứng dậy khỏi bàn làm việc, khen nàng xinh và như thể vô tình, nhét vào túi nàng tờ mười đô-la. Nàng chào hắn rồi đi ngay. Từ đấy thành lệ, mỗi ngày nàng đến chào hắn ba lần, và để tống nàng đi, lần nào hắn cũng chi mười đô. "Đồ xin đểu"- hắn lẩm bẩm khi chỉ còn lại một mình. "Xin đểu" là từ hắn học được ở chợ Đồng Xuân thuở hàn vi.
Trong vòng một năm ấy, hắn in tổng cộng đúng năm mươi tập thơ, mỗi tập không dưới năm trăm trang. Toàn loại giấy tốt, bìa đẹp. Hắn luôn chi gấp đôi số tiền nhà xuất bản yêu cầu nên chẳng hề gặp khó khăn trong việc biên tập và xin giấy phép. Không ai thêm bớt của hắn một chữ. Cũng chẳng nhà xuất bản nào tìm hiểu hắn là ai, chỉ đơn giản "làm việc" với đại diện của hắn.
Lúc in những tập đầu, hắn hồi hộp lắm. Hồi hộp chờ đợi các báo đăng bài giới thiệu thơ hắn, có thể ca ngợi hắn như một "hiện tượng". Nhưng hắn chờ mãi, chờ mãi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Hắn loáng thoáng biết rằng bây giờ muốn được người khác viết bài về mình thì hoặc phải nhờ thân quen, hoặc chi tiền thuê viết, phần lớn dưới dạng quà cáp, ăn nhậu. Chi tiền thì hắn không ngại, nhưng là người tự trọng, hắn không cho phép mình làm việc này. Hắn vẫn tin thơ hắn hay. Thông minh, lại chịu khó đọc thơ người khác, nên khi so sánh, hắn dễ dàng nhận ra điều đó. Vả lại, công bằng mà nói, thơ hắn không dở, hay nữa là khác, dù có thể chưa đến mức thiên tài như hắn tưởng. Ấy là nói "có thể" chứ biết đâu hắn thực sự đã là thiên tài hoặc sau này sẽ thành thiên tài. Chưa ai dám chắc điều đó. Vậy vì sao người ta im lặng, cứ như không hề có việc hắn đã in năm mươi tập thơ dày bày bán khắp nơi. Hắn gửi e-mail nhờ ông bạn ở Microsoft giải thích. Hai ngày sau hắn nhận được thư trả lời.
"Thưa ông,
Các cộng sự của tôi đã tiến hành điều tra vấn đề ông yêu cầu. Xin được
trung thực báo ông biết những ý kiến sơ bộ của chúng tôi như sau:
Như đã hân hạnh có dịp bày tỏ ý kiến của mình về ông, tôi xin khẳng định lần nữa rằng thơ ông đã đạt đến trình độ siêu việt, nghĩa là ông hoàn toàn không có lỗi trong việc người ta không đọc hoặc nói về chúng. Lý do nằm ở những khía cạnh hoàn toàn khác, không liên quan đến văn học. Theo chỗ chúng tôi biết, thị trường thơ nước ông hiện nay rất không bình thường. Một trong những lý do dẫn tới hiện tượng này chính là điều ông đã nói, rằng bây giờ hễ ai có tiền đều có thể in thơ và mặc nhiên trở thành nhà thơ. Sự buông lỏng giám sát chất lượng ấy đã làm người đọc mất phương hướng, cuối cùng thờ ơ với thơ, ý tôi muốn nói thơ dở, tất nhiên. Và nạn nhân của cả núi thơ hổ lốn, nhảm nhí ấy là những người như ông với những tác phẩm có giá trị thực sự. Xin ông đừng trách người đọc nếu họ không chịu bỏ ra mấy ngày bới lục cả đống thơ đang bày bán để tìm mua một tập thơ đích thực như thơ ông. Họ đã bị lừa nhiều lần, nên phản ứng tẩy chay của họ hiện nay đối với thơ là dễ hiểu. Từng làm công tác tiếp thị mấy chục năm, tôi biết rõ tâm lý người tiêu dùng.
Theo thống kê ban đầu (có thể chưa đầy đủ) của chúng tôi, tổng cộng đến nay, mặc dù đã xuất bản hơn mười tháng, trong số 43.000 bản của 43 tập thơ ông viết, ngoài hơn chục cuốn bị hư hỏng khi vận chuyển, mới chỉ bán được 21 bản, mặc dù giá thơ ông chỉ bằng 50% thơ người khác. Riêng ngày hôm qua cụ thể bán được hai cuốn. Một cuốn do cô thủ thư mua cho thư viện huyện, sau đó yêu cầu người bán hàng chữa giá thành gấp đôi. Số tiền thừa, cô ta đem mua năm quyển vở cho con. Cuốn khác được một cô sinh viên khoa văn mua, phần vì giá rẻ, sách đẹp, phần vì cô còn giữ được tâm hồn mơ mộng đáng quý như phu nhân trước đây của ông. Cũng hôm qua, tại một cửa hàng sách bên bờ hồ Hoàn Kiếm, các nhân viên của tôi đã tận mắt nhìn thấy một vị quan chức đáng kính thuộc ngành văn hóa sau khi cầm mấy tập thơ của ông lên tay, ngó nghiêng một chốc rồi khinh khỉnh ném xuống, buông một câu không văn hóa chút nào: "Một thằng ngu lắm tiền rửng mỡ!". Riêng các nhà phê bình và các nhà thơ (cả thật lẫn rổm), tôi xin khẳng định chắc chắn chưa một người nào đọc thơ ông, thậm chí cả khi được tặng không chứ chưa nói đến việc bỏ tiền mua. Vậy rốt cục, người đã đọc thơ ông chỉ có ông, các nhân viên của tôi, vợ cũ của ông và một số rất ít các biên tập viên có lương tâm ở những nhà xuất bản ông in sách.
Sự thật thường phũ phàng, nhưng đó là những điều bổn phận bắt tôi phải thông báo ông biết. Còn quyết định tiếp theo thế nào hoàn toàn tùy ông.
Chúc ông thành công.
Kính thư.
J.F.C."
Bức thư làm hắn buồn. Đó là sự thật cay đắng mà muốn hay không, hắn vẫn phải thừa nhận. Tuy nhiên, với nghị lực và sự bướng bỉnh đặc trưng của các thiên tài, hắn không hề nản chí. Số phận bảy tập còn lại đang in không còn làm hắn quan tâm. Hắn quyết định sẽ tiếp tục viết, viết thật hay, hay đến mức người ta không thể không chú ý. Hắn tự an ủi mình rằng sau này, năm mươi năm hay một trăm năm nữa, hắn sẽ được "phát hiện" và nổi tiếng hệt như trường hợp nhạc sĩ thiên tài Đức Sêbastian Bach và nữ thi sĩ người Mỹ Emily Dickinson.
Thế là, với chương trình phần mềm sáng tác thơ đặc biệt được Microsoft lập riêng cho hắn, hắn lại ngày đêm cắm cúi bên chiếc máy vi tính và viết ra những vần thơ lai láng.
Chương trình này quả là điều kỳ diệu của ngành tin học, đến mức chính hắn cũng phải ngạc nhiên thán phục. Nó giúp hắn dễ dàng tìm vần, tìm ý, bố cục, kích thích cảm hứng, chữa lỗi chính tả và nhắc hắn lúc nào nên nghỉ ngơi chút ít để lấy lại sự tỉnh táo cho trí óc.
Trong vòng chưa đầy một tuần, hắn viết xong bản trường ca dài 600 trang, về cuộc đời chìm nổi của một phụ nữ xinh đẹp, có tài có đức nhưng bị cuộc đời vùi dập. Nàng ngoan cường cưỡng lại số phận và cuối cùng đã giành được hạnh phúc cho mình. Một trường ca có hậu, trong đó cái ác thắng cái thiện, có giá trị tố cáo và phản ánh hiện thực của cả thời đại. Một tác phẩm hoàn hảo về mặt nghệ thuật, độc đáo về bút pháp, sâu lắng về nội dung. Hắn rất hài lòng, đến mức tối hôm ấy hắn cho phép mình chuyện gẫu mấy câu với cô gái áo hồng trước khi tống nàng đi bằng cách cho tiền, không phải mười mà một trăm đô-la.
Tuy nhiên, sáng hôm sau đọc lại, hắn thấy hình như có điều gì không ổn. Đọc lại lần nữa, hắn đã hiểu. Cái tác phẩm tuyệt vời này của hắn chẳng qua chỉ là sự mô phỏng Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du. Nó là kết quả của chương trình sáng tác thơ mà hãng Microsoft cam đoan sẽ giúp hắn đạt ngang tầm cụ Nguyễn. "Không, không thể tiếp tục thế này được!- hắn nghĩ.- Đây là một dạng đạo văn không hơn không kém. Một thiên tài không thể ăn cắp thơ của một thiên tài khác. Không, không đời nào!" Hắn bấm nút xóa sạch không thương tiếc cả 600 trang bản trường ca mới viết. Rồi buồn bã tắt máy tính, hắn nằm vật xuống đi-văng.
°
Suốt mấy ngày liền hắn không viết câu nào. Một hiện tượng lạ trong đời hắn. Nhưng rồi ý chí vươn lên mạnh mẽ cũng thắng. Hắn bắt đầu viết trở lại, tất nhiên không còn dùng cái chương trình mà hắn gọi là "khốn nạn" kia nữa. Thậm chí hắn tránh xa cả chiếc máy vi tính. Hắn bò lổm ngổm trên sàn nhà với tập giấy trắng và cây bút chì. Hắn muốn được viết trong trạng thái thật tự nhiên, "như cụ Nguyễn Du ngày xưa từng viết", mặc dù cụ thể ngày ấy cụ viết thế nào, hắn không biết. Hắn chỉ biết lúc này hắn viết rất khổ sở.
Lần đầu tiên hắn vắt óc nghĩ suốt nửa ngày mà chẳng lóe ra được ý thơ nào. Hắn cảm thấy bị gò bó, mặc dù hoàn toàn được tự do, không thiếu thốn cái gì, không bị ai quấy rầy. Vô cớ, hắn cảm thấy khó chịu với căn hộ khách sạn sang trọng hắn đang ở, với bộ com-lê hắn đang mặc, thậm chí với cả tập đô-la dày cộp trong túi. Hắn nằm ngửa, mắt trân trân nhìn lên trần nhà và nhớ lại những ngày lang thang trên phố, bụng rỗng nhưng đầu luôn đầy ắp những ý thơ tuyệt diệu. "Sao dạo ấy mình vô tư, thanh thản và làm thơ dễ thế, nhanh thế!"- hắn chép miệng. Còn bây giờ...
Đúng lúc ấy, cô áo hồng xinh đẹp mà hắn gọi là "đồ xin đểu" xuất hiện với nụ cười thường trực như mọi ngày.
- Ồ, anh không làm việc sao mà nằm thế, lại nằm trên sàn nhà,- nàng dịu dàng nói với vẻ trách móc âu yếm.
- Anh, anh cái con c... Cút đi! Đồ xin đểu!- hắn giận dữ quát to, thầm ngạc nhiên sao mình có thể thô lỗ đến thế. Còn nàng kia thì trợn tròn mắt, lấy tay che miệng và vội vã chạy ra khỏi phòng.
Sự xuất hiện không đúng lúc của cô gái càng làm hắn thêm khó chịu, và từ khó chịu, hắn chuyển sang tức giận thực sự, dù chẳng rõ nguyên cớ gì.
Bỗng hắn đứng bật dậy, mở máy vi tính và gõ mạnh lên bàn phím password thứ hai mà vị đại diện cao cấp của tỉ phú Bill Gates dặn chỉ sử dụng trong những trường hợp tối cần thiết. "Cho lão chết!"- hắn lẩm bẩm.
Một phút sau, ông già tội nghiệp kia xuất hiện, mặt bơ phờ, hoảng sợ. Ông ta ngồi phịch xuống ghế, vừa lau mồ hôi trán vừa hổn hển thở.
- Ông có nghĩ rằng ông thật sự cần thiết phải gọi tôi theo cách này không, thưa ông?- ông ta hỏi, vẫn với vẻ lịch sự nghề nghiệp cố hữu.
- Có,- hắn đáp cộc lốc.
- Vậy tôi có thể làm được gì cho ông, thưa ông?
- Tôi không cần ông làm gì cả. Hôm nay vừa tròn một năm kể từ ngày tôi gặp ông lần trước. Tôi cảm ơn ông và ông Bill Gates đã giúp đỡ tôi suốt thời gian ấy. Ông nói ông chủ ông mỗi năm giúp một người nghèo nhất thế giới, vậy bây giờ tôi xin nhường cho người khác...
- Nhưng thưa ông,- ông kia vội ngắt lời hắn,- ông là trường hợp ngoại lệ. Ông Bill Gates nợ ông...
- Hãy nói với ông ấy rằng nếu quả có nợ tôi thì coi như đã trả xong sòng phẳng. Đây, xin giao lại ông chìa khóa phòng khách sạn, máy vi tính cùng cái chương trình chết tiệt kia của ông, cả đồ đạc, cả tiền đây nữa. Tất cả. Tôi không giữ lại bất kì cái gì.
- Xin ông hãy bình tĩnh. Nếu chúng tôi không thể giúp ông đạt được điều mong muốn trong lĩnh vực văn thơ, thì tôi tin chắc chúng ta sẽ thành công nếu ông chấp nhận một trong hai đề nghị đầu tiên của tôi. Điều này có lợi cho ông và cho cả hãng chúng tôi. Xin ông cân nhắc thật cẩn thận.
- Không. Cảm ơn. Tôi muốn được trở lại là người như tôi vốn có trước khi gặp ông,- hắn nói một cách dứt khoát, rồi làm một động tác ra hiệu đến đây câu chuyện chấm dứt.
- Nếu thế thì thực tình chúng tôi rất lấy làm tiếc. Dẫu sao...
- Ông có thể giúp tôi một việc nhỏ được không?- hắn cắt ngang.
- Xin sẵn sàng,- ông kia vội đáp.
- Vậy thì nhờ ông, bằng cái máy vạn năng kia của ông, hãy kiếm lại cho tôi bộ quần áo cũ trước đây tôi vẫn mặc.
Ông kia thở dài, miễn cưỡng bấm bấm vào chiếc computer bé xíu. Còn hắn thì lặng lẽ đứng nhìn, nét mặt thản nhiên pha chút đắc thắng.
Một chốc sau, hắn bước ra khỏi khách sạn Hilton sang trọng trong bộ quần áo rách sờn của một tay bụi đời chính hiệu. Cả khách sạn trố mắt ngạc nhiên nhìn theo, nhưng hắn không thèm để ý.
°
Từ đấy hắn lại tiếp tục sống cuộc đời vô gia cư lang thang nay chỗ này mai chỗ nọ, ngủ vật vạ lúc bến xe, lúc bãi chợ. Tuy nhiên nơi người ta hay nhìn thấy hắn nhất vẫn là chân cầu Long Biên. Những lúc không phải lo kiếm cái ăn, hắn thường ngồi hàng giờ hí hoáy dùng bút chì viết gì đấy trên những tờ giấy người ta bỏ đi còn trắng một mặt mà hắn nhặt được.
Cũng chính ở đây, một buổi chiều nọ, tỉnh dậy sau giấc ngủ dài bên chân đê, hắn chợt nhớ lại những ngày đế vương ở khách sạn Hilton với những bữa ăn thừa mứa, những tập đô-la dày, những chiếc ô tô bóng loáng, và tất nhiên cả cô áo hồng mà hắn đã đối xử có phần không lịch sự lắm. Ngẫm cảnh lúc này, khi hắn chưa có gì cho vào bụng suốt từ sáng đến giờ, hắn bỗng thấy tiêng tiếc. "Sao lúc ấy mình không mang theo mấy nghìn đô-la nhỉ? - hắn nghĩ. - Ừ, sao lại thế nhỉ? Mình đâu có phải thằng ngốc. Hay tất cả rốt cục chỉ là một giấc mơ? Không, không thể mơ được. Mình còn nhớ rõ ràng mọi chuyện. Nhớ lão đại diện Microsoft, cô ả "xin đểu”, năm mươi tập thơ dày giấy tốt và cả những tờ đô-la mình "boa" cho mọi người. Không, không thể mơ được.- Hắn lẩm bẩm thành tiếng.- Nhưng nếu không phải mơ thì những tập thơ kia bây giờ ở đâu? Ở hiệu sách chứ còn đâu nữa! Cả cô nàng kia cũng đang ở khách sạn. Không tin, cứ tới những nơi đó mà kiểm tra."
Thế là, bán tín bán nghi, hắn lững thững đi về phía khách sạn Hilton. Ở đấy, từ ngoài nhìn vào, hắn thấy một cô gái mặc áo dài màu hồng đứng bên quầy lễ tân. Hắn "Ê” một tiếng và khẽ hất đầu. Cô kia nhìn ra, thấy hắn nhưng không tỏ dấu hiệu đã từng quen biết. "Đồ đĩ! (hắn mới học thêm cái từ tục tĩu này ở bọn du côn bãi Phúc Xá). Bây giờ biết người ta không tiền thì lờ đi hả?" Rồi hắn bỏ đi ra cửa hàng sách Tràng Tiền. Hắn nói tên mấy tập thơ hắn đã in nhưng cô bán hàng bảo không biết, không thấy.
- Có thể trước đây có nhưng bây giờ bán hết rồi.
- Những năm mươi tập cơ mà?- hắn nói.
- Năm mươi tập cũng bán hết chứ sao? Anh là tác giả à?
- Vâng.
- Thế thì chắc chắn bán hết rồi. Thơ của anh hay lắm. Người ta tranh nhau mua hết veo cả năm mươi tập ngay sau khi bày lên giá sách,- cô bán hàng cố lấy vẻ nghiêm túc, nhưng cuối cùng vẫn phải phì cười.
"Đồ lợn cái vú xệ!"- hắn thầm rủa. Không hiểu câu chửi đầy màu sắc này hắn nghe được đâu đó hay chính hắn do giận quá mà nghĩ ra.
Sau khi đưa mắt rà khắp lượt các quầy không thấy gì, hắn bỏ đi, không cần biết đi đâu. Tới chỗ bà bán nước, hắn thấy một tờ giấy in thơ được xé ra để gói bánh rán ai đấy ăn xong vứt xuống đường. Hắn nhặt lên xem. Tờ giấy loại tốt, in đẹp, nhưng hắn đọc hồi lâu mà không nhớ nổi có phải thơ mình không. Thế là rốt cuộc, hắn chẳng biết chính xác cái quãng thời gian đế vương kia là chuyện có thật hay chỉ một giấc mơ đẹp.
°
Bẵng đi một thời gian, không ai thấy bóng hắn đâu cả. Có người nói hắn được đưa vào nhà thương điên Châu Quỳ. Có người nói hắn đã chết. Cũng có người cam đoan vừa thấy hắn hôm kia ở ga Giáp Bát, lưng đeo một bì vải nhựa rất to nhưng có vẻ không nặng lắm,.
Bản thân tôi, người kể câu chuyện này, cũng từng viết và in ngót nghìn trang thơ nhưng không ai thèm đọc. Một hôm tình cờ gặp hắn, cám cảnh, tôi định đến bắt chuyện rồi mời hắn một bữa cơm bụi, nhưng không hiểu sao, thấy có người lại gần, hắn liền bỏ chạy như ma đuổi.
Có nhiều khả năng hắn, con người thông minh nhường ấy, thậm chí có thể một thiên tài, đã chết thật, và cả bao tải thơ thiên tài ấy cùng chết theo hắn. Ít hy vọng năm mươi năm hoặc một trăm năm sau có bà đồng nát nào đó khi bới tìm trong các đống giấy lộn bỗng phát hiện thấy di cảo của hắn và trả lại cho hắn cái danh tiếng hắn xứng đáng được hưởng.
Hà Nội, 12.1.2001
Thái Bá Tân