II/9C.- ĐOẠN SỬ BI ĐÁT CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI VIỆT THƯỜNG NƯỚC LÂM ẤP Sách Cương Mục Tiền biên chép: “Khoảng giữa niên hiệu Trinh Quan (627-649) nhà Đường, vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết, con là Trấn Long bị giết, người trong nước lập con bà cô của Đầu Lê là Gia Cát Địa lên làm vua. Gia Cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương và thường cho quân sang xâm lấn An Nam. Hoàn Vương do đó bị quan đô hộ An Nam là Trương Chu đánh phá phải bỏ Lâm Ấp dời đến đất Chiêm, gọi là nước Chiêm Thành… Bấy giờ thành Phật Thệ ở Phủ Thừa Thiên, Thành Chà Bàn ở tỉnh Bình Định đều là di tích cố đô của Chiêm Thành thời đó. Sách Việt Sử Toàn Thư thì chép: Chư Cát Địa đổi quốc hiệu ra Hoàn Vương quốc nhưng nước này vẫn quen thói quấy nhiểu Giao Châu. Đã có phen họ chiếm được châu Hoan, châu Ái (tức là hai tỉnh Thanh, Nghệ của ta) – Hai thế kỷ sau vào năm Mậu Tý (808), Đô hộ Trương Chu lại đem quân đánh Hoàn Vương quốc rất tai hại khiến họ phải lui xuống phía Nam (hai vùng Nam, Ngãi bây giờ). Lại một lần nữa, quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm Thành cho tới ngày nay. Cách hành văn của 2 đoạn sử trên, cùng trình bày giai đoạn cuối cùng của lịch sử nước Lâm Ấp nhưng có nhiều điểm không giống nhau (thời gian và danh xưng thành Phật Thệ…). Chúng tôi xin thử bình giải: Thời vua Trinh Quan nhà Đường (627 – 649), nước Lâm Ấp, vua Đầu Lê chết, thái tử là Trấn Long vừa lên ngôi thì bị giết, triều đình tôn Gia Cát Địa là con bà cô của vua Đầu Lê lên ngôi. Gia Cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, kinh đô Khu Túc thì đổi tên là Phật Thệ và tiếp tục đường lối của tổ tiên, tiến hành những cuộc liên minh quân sự với Lạc Việt đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi bờ cõi. Trong gần 200 năm (từ khoảng 627 – 808) họ tổ chức nhiều cuộc nổi dậy có lúc họ chiếm được Cửu Chân và Nhật Nam. Năm 808, triều đình Trung Hoa sai tướng Đô hộ Trương Chu đem đại binh tiêu diệt Hoàn Vương quốc (Lâm Ấp). Lần thứ hai từ sau ngày gạt lệ rời bỏ quê hương Việt Thường bên hồ Phiên Dương năm 221 Tr. CN ; con cháu Việt Thường năm 808 sau CN, kẻ ra đi, người ở lại và hàng vạn người nằm xuống, dưới những nấm mộ tập thể, chôn vùi đây đó trong vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Nước Lâm Ấp hoàn toàn bị tiêu diệt. Khi quân Trương Chu rút đi thì nước Chiêm Thành đã lập quốc từ lâu với kinh đô Chiêm Bà (Quảng Ngãi) sau đó dời về Đồ Bàn (Quảng Nam) liền vượt đèo Hải Vân tiến ra chiếm đất Tượng Lâm (Bình, Trị, Thiên). Người Việt Thường, Lâm Ấp một số lánh nạn lên vùng núi hay ra bờ gần biển, một số khác chạy ra Nghệ An, Thanh Hóa sống chung với dân Lạc Việt một số ở lại trở thành nô lệ Chiêm Thành… Từ đầu thế kỷ thứ 9, lịch sử nước ta không còn nhắc đến tên huyện Tượng Lâm hoặc nước Lâm Ấp nữa. Vùng đất này có tên mới: Châu Ô, Châu Rí (Lý) do Chiêm Thành đặt. Cũng từ năm ấy, sử Việt chép rất kỷ các giai đoạn “chiến tranh và hòa bình” giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Năm 1304, đời nhà Trần, khi vua Chiêm Chế Mân, dâng hai châu Ô, Lý để xin cưới Công chúa Huyền Trân thì con cháu Việt Thường ở lại với Đại Việt trong khi dân Chiêm Thành rút về phía nam đèo Hải Vân. Năm 1697, phần đất cuối cùng của người Chàm bị chúa Nguyễn Phúc Chu nuốt trọn và nước Chiêm Thành hoàn toàn bị xóa tên. II/9D.- VỊ TRÍ NƯỚC VIỆT THƯỜNG CỔ Cho đến hôm nay, vị trí nước Việt Thường trên các tài liệu lịch sử Việt Nam vẫn còn là một nghi vấn. 1- Một số sử gia cho rằng Việt Thường là tên nước Việt Nam cổ, tức là toàn miền Bắc Việt Nam ra tới Đèo Ngang. 2- Ông L.Wie1ger, nhà Trung Hoa học thì rời vị trí Việt Thường xa hơn nữa. Ông cho Việt Thường là Cao Mên (Trích dẫn từ VSTB tr. 38). 3- Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược lại nói nước Việt Thường ở phía Nam Giao Chỉ. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38) 4- Sử gia Lê Văn Hòe trong Việt Sử cho rằng nước Việt Thường ở vào vị trí 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38) 5- Ông Lê Chí Thiệp nói rằng, xem bản đồ Trung Hoa thế kỷ 20 Tr. CN còn chia ra nhiều bộ lạc trình độ khác nhau thì không thể tin được Sứ giả Việt Thường vượt đường bộ từ Bắc Việt, hoặc theo hải đạo đến được thành Bình Dương là kinh đô của vua Nghiêu tận tỉnh Sơn Tây, phía Bắc sông Hoàng Hà và dưới đời Chu lại đến thành Tây An ở phía Nam sông Vị, tỉnh Thiểm Tây bấy giờ. Theo lẽ đương nhiên, chỉ có gần gũi nhau, chịu ảnh hưởng của nhau mới có sự giao dịch với nhau. Tóm lại, Việt Thường tất không xa Hán tộc, có lẽ ở phía Nam sông Dương Tử vùng hồ Phiên Dương và sông Dương Tử. Lý luận này theo ý chúng tôi có ý nghĩa hơn cả. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38) 6- Ở trang 39 VSTB ghi “Kinh Thư chép đất Dương có nhiều giống chim lạ, đất Kinh có nhiều rùa lớn thì Việt Thường ở vào khu hồ Phiên Dương và hồ Đông Đình, như vậy ta càng thấy sự đối hợp với việc cống chim Trĩ và Rùa lớn. 7- Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, vùng hồ Phiên Dương có đất Việt Thường, vua Sở Hùng Cừ (887 Tr. CN) phong cho con út là Chấp Tỳ làm vua ở đấy. Việt Thường, Việt Chương có lẽ là hai tên dùng lẫn cho nhau (như Cao Mên, Cao man; Lào, lèo…). Ông Lê Chí Thiệp định vị trí Việt Thường ở ngay chỗ thành Nam Xương…” Chúng tôi rất tán đồng ý kiến của ông Lê Chí Thiệp. Nước Việt Thường chỉ có thể ở vùng gần hai hồ Động Đình và Phiên Dương. Nhưng lý do tại sao vùng Bình, Trị, Thiên lại có tên là Việt Thường thì chúng tôi có câu trả lời như sau: Năm 221 tr. CN, Tần Thủy Hoàng xua quân xâm lăng các nước Việt phương Nam. Nước Việt Thường bị đánh bại, quý tộc Việt Thường ở “kinh đô Lâm Ấp (?)” bèn đưa dòng họ và quân đội theo đường biển chạy về phương Nam và đổ bộ lên vùng đất sau này gọi là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên thuộc nước Âu Lạc của vua Thục An Dương Vương và tị nạn ở đó. Họ thân thương gọi vùng đất mới này là (Tân) Việt Thường, là Lâm Ấp (tổ quốc và kinh đô cũ). Sử ta về sau lẫn lộn vị trí nước Việt Thường là vậy. Xin nhắc lại vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là nơi “Khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối…” là “rú”, tại đây có thể đã có một số bộ lạc Chàm sống rải rác trên các đồng bằng nhỏ hẹp… họ lập tức họ bị người tị nạn Việt Thường khống chế °. Triều đình Chiêm Thành ở bên kia đèo Hải Vân có lẽ đã không quan tâm tới đám dân Chàm không đáng kể này. °Y hệt thổ dân Đài Loan năm 1949 bị đoàn quân bại trận của tổng thống Tưởng Giới Thạch khống chế ngay khi họ đổ bộ lên đảo này. Dân tị nạn Lâm Ấp “vui sống” ở đó, trải từ cuối thời Âu Lạc của Thục An Dương Vương, qua Nam Việt của nhà Triệu, rồi nhà Hán xâm lăng Nam Việt và đặt phủ trị đô hộ… Cho đến khi Mã Viện diệt Hai Bà Trưng vào năm 43 là 264 năm. Mã Viện đem quân đuổi đánh tàn quân Hai Bà vào tận đất Nhật Nam. Người Lâm Ấp một mặt không giúp Hai Bà Trưng, một mặt thất hứa với Mã Viện trong việc tấn công mặt hậu Lĩnh Nam. Bây giờ lại hối lộ Mã Viện rất nhiều vàng bạc châu báu để được yên thân. Nhờ vậy, Mã Viện lập huyện Tượng Lâm trực thuộc quận Nhật Nam và cho người Lâm Ấp tiếp tục cư trú ở đó. Như vậy, Lâm Ấp đã tỏ ra rất khôn ngoan. Họ “ừ! è!…” với Mã Viện nhưng nhất định không tiếp tay cho giặc để đánh đồng chủng. Có lẽ họ dư biết dù liên minh với Lĩnh Nam cũng không chống nổi với Mã Viện. Khi biết Hai Bà Trưng đã hoàn toàn thất bại trước Mã Viện thì họ dâng vàng bạc để được yên thân mài nanh vuốt chờ dịp quật khởi. Quả nhiên, kể từ năm 102 (60 năm sau), khi đã có thực lực, Lâm Ấp tung ra hàng loạt cuộc tấn công vào quân đô hộ Tầu không ngưng nghỉ. Theo sách Cương Mục, năm 192 tức là 408 năm sau khi dân Lâm Ấp định cư ở Tượng Lâm quận Nhật Nam, con cháu người Việt Thường tị nạn chính thức tái lập quốc gia. Chúng tôi không biết ngoài tên nước Lâm Ấp, Chàm, Chiêm Thành mà sử Tầu thường gọi, họ có quốc hiệu nào khác không. Sau khi lập quốc, họ tiếp tục tổ chức kết hợp với dân Việt ở nhiều địa phương Việt Lạc liên tục tấn công các phủ trị đô hộ Tầu các quận Nhật Nam, Cửu Chân có khi vươn tới quạn Giao Chỉ. Triều đình Trung Hoa phải vô cùng chật vật để bảo vệ quyền đô hộ. Cho đến năm 468 nhà Tống đưa đại binh tấn công nước Lâm Ấp, tàn phá 55 thành khiến nước Lâm Ấp yếu đi. II/9E.- VÀI TÀI LIỆU RIÊNG II/9E1.- Bí mật ngôn ngữ Việt Thường: 3 Làng LONG HƯNG, ĐẠI NẠI, MỘ TRẠCH nói tiếng gì? Bí mật về ngôn ngữ của dân hai làng Long Hưng và Đại Nại ở Quảng Trị và làng Mộ Trạch ở Thừa Thiên ngày nay nói tiếng Việt với 60-80% đặc âm địa phương, khó nghe đến độ chính dân Quảng Trị với khoảng 20% đặc âm (dân chúng ở vùng quê không học chữ Quốc ngữ) cũng rất cực khổ để hiểu họ muốn nói gì. Tỉ dụ: Ló: lúa ; rọn: ruộng ; nác: nước ; su: sâu ; khun: khôn ; ngái: ngại: mói: muối ; đùi: cùn ; lọi: gãy ; cái chưng: c&!!!14035_1.htm!!!
Đã xem 10217 lần.
http://eTruyen.com