Dịch giả: Lê Thùy Dương
Hiệu định: Nguyễn Bá Hưng
CON MÈO HOÀNG GIA ANALOSTAN (tt)
CUỘC ĐỜI THỨ HAI

    
Anh chàng người Nhật Malee là người tinh ranh nhất trong đám dân vùng ngoại ô London, đã từng có dịp buôn bán những con chim yến rẻ tiền ở tầng hầm. Anh ta rất nghèo, và gã da đen sống với anh ta chỉ vì chàng lái buôn London bằng lòng chia sẻ với gã nơi ăn chốn ngủ và nói chung đã đối xử với gã bình đẳng, khác hẳn đại đa số dân Mỹ.
Anh chàng người Nhật tự coi mình là một người chính trực, tuy rằng mọi người đều biết anh ta kiếm tiền bằng cách tàng trữ những con chó và con mèo ăn trộm được. Anh ta sử dụng khoảng nửa tá chim yến chỉ để làm tấm bình phong che đậy công việc kia mà thôi. Nhưng anh chàng người Nhật không buồn phiền. "Rồi cậu xem, Sammy ạ, tớ sẽ đi chu du bốn phương trên chiếc xe ngựa riêng của mình cho mà xem!" - anh ta ưa thích nhắc lại như thế sau những công việc mà anh ta cho là thành công. Anh ta cũng háo danh theo cách riêng của mình, và muốn người ta coi mình là người hiểu biết rành rẽ công việc. Thậm chí đã có lần anh ta đánh bạo đem mèo đến dự một cuộc triển lãm thượng lưu về mèo và những vật nuôi được ưa chuộng do hội Knickerbocker tổ chức. Anh ta hành động với ba mục đích khá là mơ hồ: một là việc đó thỏa mãn tính tự ái của anh ta, hai là làm như thế anh ta có thể dự triển lãm không phải trả tiền, và ba là, "cậu có biết không cần phải nghiên cứu những con mèo quý nếu như đã quan tâm đến vấn đề mèo". Nhưng cuộc triển lãm là của giới thượng lưu, người ta chỉ nhận mèo của những người có tên tuổi, và con mèo Angora nửa thuần chủng thảm hại đã bị gửi trả về với một sự khinh thị.
Những cột báo duy nhất được anh chàng người Nhật chú ý là những cột đăng tin thất lạc và tìm kiếm chó và mèo, nhưng dù sao thì anh ta cũng đã cắt lấy và cất giữ một mẩu tin về "nuôi mèo để lấy lông". Mẩu tin đó được dán trên tường của gian hàng, và nó đã bắt buộc anh chàng người Nhật phải tiến hành một cuộc thí nghiệm nghiêm túc trên con mèo hoang. Trước hết anh ta chải lên bộ lông bẩn của con mèo một thứ thuốc đặc biệt để diệt bọ. Sau đó anh ta tắm cho nó thật cẩn thận trong nước ấm có xà bông, bất kể con mèo kêu gào, cào cắn thế nào. Con mèo rất tức giận. Nhưng sau đó cái lồng mèo được đem đặt lại gần lò sưởi và con mèo thấy dễ chịu ngay, còn bộ lông của nó lại bông lên và trở thành sạch sẽ, mềm mại một cách lạ thường. Anh chàng người Nhật và gã giúp việc rất hài lòng. Nhưng đó chỉ mới là bước thứ nhất, còn phải tiếp tục thí nghiệm nữa. "Muốn nâng cao chất lượng bộ lông, phương tiện có kết quả nhất là cho ăn thức ăn nhiều chất dầu và thường xuyên tắm không khí lạnh.", - mẩu tin trong báo nói vậy.
Mùa đông đã sắp tới rồi. Anh chàng người Nhật đem đặt cái lồng mèo ra ngoài sân và chỉ che mưa, gió mà thôi, sau đó cho kẻ tù nhân của mình ăn thật nhiều khô dầu và đầu cá
Chỉ sau một tuần lễ đã thấy khác hẳn. Con mèo mỗi ngày một béo tốt và mượt mà hơn; nó chẳng làm việc gì khác ngoài việc tích trữ mỡ và chăm chút bộ lông mà thôi. Chiếc lồng được giữ sạch sẽ, và thiên nhiên đã hưởng ứng thời tiết lạnh và thức ăn nhiều chất dầu cho nên bộ lông con mèo cứ mỗi ngày một thêm bông xốp và sáng nước hơn, và đến giữa mùa đông thì con mèo hoang đã biến thành một con mèo đẹp đẽ hiếm có, với bộ lông mềm mại diệu kì điểm những vệt đen mĩ lệ. Anh chàng người Nhật rất hài lòng với kết quả thí nghiệm và liền mơ tưởng đến sự vinh quang chưa từng có. Tại sao lại không gửi con mèo đến dự cuộc triển lãm sắp tổ chức nhỉ? Nhưng sau lần thất bại năm ngoái anh chàng đã chín chắn hơn.
- Cậu thấy không, Sammy, - anh ta nói với gã da đen, - không thể giới thiệu nó như một con mèo hoang được. Mà chúng ta phải chiều ý hội Knickerbocker chứ. Trước hết cần có một cái tên hay. Tự cậu cũng hiểu là ở đây cần có một cái gì đó "hoàng gia", - không cái gì tác động đến các hội viên Knickerbocker bằng một cái gì đó "hoàng gia" đâu. Chẳng hạn như Dick Hoàng gia hoặc Sam Hoàng gia thì cậu bảo sao nào? Nhưng gượm đã nào, toàn là tên mèo đực cả. Sammy, cậu nói đi, hòn đảo quê hương của cậu gọi là gì nhỉ?
- Quê tôi ở hòn đảo Analostan, thưa ngài.
- Hay quá? Con mèo Hoàng gia Analostan, mẹ kiếp! Con hoàng gia Analostan duy nhất có phổ hệ tại toàn cuộc triển lãm. Thật quả là khôi hài!
Và cả hai người đều phá lên cười.
Chỉ còn phải lập một bản phổ hệ con mèo nữa là xong. Và hai người bạn bắt tay ngay vào lập cho con mèo một bản phổ hệ ngụy tạo chi tiết.
Thế rồi một hôm vào lúc chiều tà, Sam diện một chiếc mũ lễ đi thuê và mang con mèo cùng với bản phổ hệ của nó đến giao cho người chủ trì triển lãm. Gã da đen đã thực hiện xuất sắc những điều dự tính. Gã đã từng có thời làm nghề cắt tóc kiêm lang băm ở Đại lộ Sáu và khéo biết giữ vẻ đàng hoàng, trang trọng hơn cả Malee. Có thể đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho con mèo Hoàng gia Analostan được đón nhận một cách tôn kính tại cuộc triển lãm mèo.
Anh chàng người Nhật rất tự hào về việc con mèo của y được tham dự triển lãm: y cho rằng đó là biểu hiện sự tôn kính của giới thượng lưu đối với một người bán hàng gốc London. Hôm khai mạc triển lãm y đến cổng và sung sướng đến nghẹn thở khi trông thấy cả một biển xe ngựa và mũ lễ ở nơi đây. Người gác cửa đưa mắt nhìn y với vẻ soi mói nhưng khi thấy tấm vé thì để cho y đi qua vì có lẽ nghĩ rằng y là người giám mã của một vị quý tộc nào đó có mèo tham dự triển lãm.
Trong gian phòng triển lãm, người ta trải những tấm thảm nhung đằng trước những dãy dài lồng mèo. Anh chàng người Nhật thận trọng bước trên lối đi bên cạnh, nhìn ngắm những con mèo thuộc đủ nòi khác nhau, đọc những chữ ghi trên các băng màu xanh màu đỏ để tìm con mèo của mình, nhưng không dám hỏi ai về nó cả và trong lòng cứ lo sợ về cái ý nghĩ rằng, giới thượng lưu sang trọng hội họp ở đây sẽ nói gì nếu như họ biết y đã dám đùa cợt họ như thế nào.
Y đã trông thấy nhiều con vật được tặng giải thưởng, nhưng không thể nào tìm thấy con mèo hoang của mình. Y len lỏi qua đám đông đứng dày trên con đường trung tâm nhưng vẫn không thấy con mèo. Anh chàng người Nhật quyết đoán rằng đã có chuyện lầm lẫn xảy ra: có lẽ ban giám khảo cuối cùng đã gạt không nhận con mèo. Cũng chẳng cần: y đã được nhận một tấm vé vào cửa và bây giờ đã biết có thể đến đâu tìm kiếm những con mèo quý giá nòi Ba Tư và Angora.
Ở lối đi trung tâm người ta trưng bày những con mèo loại ưu tú. Rất nhiều người tụ tập xung quanh chúng. Dọc theo lối đi người ta chăng dây và có hai cảnh sát viên đứng giữ trật tự. Anh chàng người Nhật len vào chính giữa đám đông xô đẩy chen chúc. Người y quá thấp bé nên không thể nhìn qua vai người khác được, và tuy rằng đám công chúng ăn mặc sang trọng giãn ra để tránh bộ cánh tồi tàn của y nhưng y vẫn không làm sao lách đến gần cái lồng đặt ở trung tâm được. Tuy nhiên qua những lời bình phẩm của các người xung quanh thì y hiểu rằng chính ở đó trưng bày vật nổi bật nhất của cuộc triển lãm.
- Này, tuyệt trần không kìa? - Một người đàn bà cao lớn nói.
- Thật là kiều diễm? - Có người đáp lại.
- Phải qua hàng thế kỉ sống sành sỏi mới tạo ra được cặp mắt biểu hiện sự lờ đờ như thế đấy.
- Có được cái tạo vật tuyệt diệu này thì thú vị biết mấy?
- Đàng hoàng biết bao! Điềm tĩnh biết bao?
- Người ta nói rằng, theo bản phổ hệ được cử liệu xác nhận thì có lẽ nó bắt nguồn từ nòi mèo thời các hoàng đế Ai Cập đấy.
Và anh chàng người Nhật bé nhỏ, bẩn thỉu, nghèo nàn lấy làm ngạc nhiên là mình đã dám cả gan gửi con mèo hoang đến với cái xã hội thanh nhã như thế.
- Xin lỗi, thưa quý ngài! - Viên giám đốc cuộc triển lãm lách qua đám đông tới. - Ở đây có vị họa sĩ của tờ "Tuần báo thể thao", ông ta được đặt vẽ một phác thảo về "viên ngọc bích" của cuộc triển lãm để công bố ngay. Xin đề nghị quý ngài giãn ra một chú, được không ạ?... Thế thế, xin cảm ơn.
- Ôi, ngài giám đốc, ngài có thể thuyết phục người ta bán con vật tuyệt mĩ này chăng?
- Hừm, tôi không rõ có làm được không nữa, - viên giám đốc trả lời. - Tôi được biết chủ nhân con mèo này là một người giàu có lớn và rất cô độc; rất khó tiếp xúc. Nhưng dù sao, thưa ngài, tôi cũng sẽ thử thuyết phục. Người quản gia của ông ta nói với tôi rằng khó lòng mà ông ta chịu đồng ý nhường lại của báu của mình… Này ông bạn, ông chen đi đâu vậy? - Viên giám đốc càu nhàu nói với một người ăn mặc tồi tàn đang có vẻ sốt ruột xô đẩy người họa sĩ đến gần con vật quý phái.
Nhưng cái con người ăn mặc tồi tàn thì lại muốn biết bằng bất cứ giá nào nơi trưng bày những con mèo quý giá. Anh ta liếc mắt nhìn cái lồng và đọc tờ giấy dán ở đó tuyên cáo rằng, dải băng xanh và huy chương vàng của cuộc triển lãm của Hội Knickerbocker được trao tặng cho con mèo Hoàng gia Analostan thuần chủng, do nhà nuôi mèo nghiệp dư nổi tiếng N. Malee gửi tới tham dự triển lãm. (Không bán). Anh chàng người Nhật sung sướng đến nghẹn thở và nhìn kĩ lại. Đúng, rõ ràng là thế: con mèo hoang của y nằm đó trong một chiếc lồng thếp vàng đặt trên một cái đệm nhung phủ lên một bục cao, xung quanh có bốn cảnh sát viên đứng canh gác, con mèo ấy đang lim dim cặp mắt màu xanh, bình thản khoe bộ lông xám nhạt điểm những vệt đen tuyền. Con mèo rất lãnh đạm. Nó chẳng coi cái dư luận ồn ào xung quanh nó đáng giá một chút nào cả.
VII
Anh chàng người Nhật Malee đứng ỳ hàng giờ ở gần bên cái lồng, lắng nghe những lời tán tụng con mèo hoang của mình và say mê với niềm vinh quang mà ngay nằm mơ y cũng không thể thấy được. Tuy nhiên y hiểu rằng, thông minh hơn là phải giấu kín mình và trao quyền hành động cho người "quản gia" của mình. Cuộc triển lãm đã mang ơn con mèo hoang nhờ ở toàn bộ kết quả công việc của gã "quản gia" đó. Giá trị con mèo cứ tăng hằng ngày trước con mắt người chủ của nó. Y không có khái niệm về chuyện người ta đôi khi trả những món tiền như thế nào cho những con mèo và nghĩ rằng đã nói thách quá đáng khi "viên quản gia" của y báo cho vị giám đốc triển lãm biết quyết định bán con Analostan với giá một trăm đôla.
Và thế là con mèo hoang được dịp di chuyển từ cuộc triển lãm về một biệt thự ở Đại lộ Năm. Ngay lập tức nó biểu lộ cái tính hoang dã khó hiểu. Nhưng sự ghét vuốt ve của nó lại được lí giải như là tính ghê tởm sự suồng sã của giới thượng lưu. Cái thói chạy vào giữa bàn ăn khi trông thấy chó trong phòng thì được giải thích là ý muốn tránh sự tiếp xúc có tính chất xúc phạm, mặc dầu là một ý muốn khó biện hộ. Việc đánh chén những con chim yến nuôi thì được giải thích là thái độ chuyên chế từng nổi tiếng ở quê hương phương Đông của con mèo. Nhưng thói quen quý phái mở nắp thùng đựng sữa của nó lại làm cho mọi người thán phục nó. Thói không thích ngủ trong cái giỏ lót lụa và cứ thường xuyên húc đầu vào kính cửa sổ chỉ chứng tỏ rằng cái giỏ chưa đủ đẹp và cửa kính không được thông dụng ở cung điện quê hương nó. Việc thường xuyên vồ bắt nhưng thất bại những con chim sẻ bay lượn trong cái sân sau có tường cao bao quanh được coi là một bằng chứng quá đủ về tính chất thiếu thực tế của cách giáo dục chốn cung đình, còn việc đến thăm thùng đựng rác thì chỉ là sự lẩn thẩn có thể tha thứ được của nòi giống cao quý.
Người ta khoản đãi và vuốt ve con mèo nhưng nó không thấy hạnh phúc. Con mèo buồn nhớ quê hương. Nó giật lắc cái băng xanh buộc cổ cho đến khi băng tuột ra; nó húc đầu vào kính cửa sổ vì ngỡ đó là đường ra phố, nó tránh người và chó bởi vì người và chó là kẻ thù cũ của nó. Nó ngồi rất lâu bên cửa sổ, buồn rầu nhìn những mái nhà và những cái sân sau. Nó muốn quay trở về cái sân sau của nó biết bao! Nhưng người ta theo dõi nó chặt chẽ và không bao giờ để cho nó ra phố. Tuy vậy vào một buổi tối tháng Ba con Hoàng gia Analostan chộp được thời cơ người ta mang những cái thùng rác ra ngoài sân, nó liền lách qua cái cửa lớn và biến mất.
Chẳng nói làm gì về nỗi kinh hoàng đã xảy ra xung quanh chuyện con mèo đi mất. Nhưng con mèo không biết và cũng không muốn biết những chuyện đó. Nó chỉ nghĩ đến mỗi một việc làm thế nào mau chóng trở về tới nhà. Sau nhiều cuộc phiêu lưu không đáng kể nó đã tới gần Đồi Gramercy Grange. Nhưng rồi sau đó thì thế nào? Nó không về được nhà mà mặt khác lại mất nơi nuôi nấng chắc chắn. Cái đói đã nhắc nhở nó nhưng bất chấp tất cả mọi chuyện, nó vẫn thấy cực kì sung sướng.
Nó chờ đợi một thời gian, lẩn tránh trong một cái sân nhỏ ở phía trước một ngôi nhà. Rồi một cơn gió dông dữ dội nổi lên, mang tin tức thân thiết đến cho nó. Con người thì gọi cái tin tức đó là mùi tởm lợm đưa từ bến cảng đến, nhưng đối với con mèo của chúng ta thì đó lại là tin tức hằng mong đợi của quê hương. Nó phi nước đại theo con phố dài về hướng đông, cố bám theo các hàng rào của các ngôi nhà, thỉnh thoảng lại đứng lịm tại chỗ như một pho tượng và cuối cùng đã đến được bến cảng và bờ sông. Nhưng nó thấy nơi này lạ hoắc. Có thể rẽ về hướng nam mà cũng có thể quặt lên hướng bắc. Một cái gì đó buộc nó quanh về hướng nam, và sau hai giờ đi len lỏi qua lũ chó, những chiếc xe ngựa và lũ mèo, qua những lối đi vòng vèo của vụng sông và những hàng rào sắt, nó đã có mặt ở giữa những mùi quen thuộc. Mặt trời vẫn còn chưa lặn khi mà con mèo mệt nhoài và tập tễnh trườn qua đúng cái khe hở cũ ở hàng giậu của gian hàng chim - để chui vào đúng cái thùng bánh cũ, nơi nó đã mở mắt chào đời. Ôi, giá mà cái gia đình quý phái ở Đại lộ Năm có thể trông thấy nó, hoàn cảnh "quê hương phương Đông" của nó! Sau khi nghỉ đã đời nó lần đến cái thang dẫn xuống tầng hầm nhốt chim tìm kiếm thức ăn. Cửa mở toang, và gã da đen xuất hiện trước ngưỡng cửa. Gã ta kêu toáng lên với người chủ hàng bán chim:
- Lại đây, ông chủ ơi! Con Hoàng gia Analostan trở về nhà đây này.
Khi anh chàng người Nhật bước ra cửa thì con mèo nhảy phóc qua hàng giậu. Cả hai người đều cất giọng âu yếm gọi thật to: "Meo - meo! Mèo tội nghiệp ơi! Lại đây nào, mèo ơi!". Nhưng con mèo chẳng ưa gì họ và nó chạy về nơi trú ngụ cũ của mình.
Con mèo Hoàng gia Analostan đã từng một lần là cả một kho của đối với anh chàng Nhật Bản. Với một trăm đôla nhờ con mèo mà có y đã mua được không ít những con vật nhốt trong lồng và mọi vật cần thiết khác. Vì vậy việc tóm bắt "nương nương" mèo là một việc quan trọng đối với y. Y đã dùng một miếng thịt bò thiu và nhiều miếng mồi rất cám dỗ khác để dụ con mèo, và cuối cùng do quá đói nó đã bị một cái đầu cá to đặt trong một cái thùng có bẫy lôi cuốn. Gã da đen giật sợi dây đóng sập cái nắp thùng xuống và một phút sau con mèo Hoàng gia Analostan đã lại bị bắt đưa đến ở chung với những kẻ bị nhốt trong căn nhà hầm. Trong lúc đó anh chàng người Nhật chăm chú đọc những bản cáo thị đăng trên báo. Và y đã tìm thấy: "tặng thưởng 5 đôla" v…v… Ngay buổi tối hôm đó, "viên quản gia" của ngài Malee đã có mặt tại tòa biệt thự ở Đại lộ Năm cùng với con mèo thất lạc:
- Xin kính chào nhân danh ngài Malee, thưa quý ngài. Con mèo Hoàng gia Analostan đã quay trở về với chủ cũ của nó, thưa quý ngài. Ngài Malee rất sung sướng được trao trả ngài con mèo Hoàng gia Analostan, thưa quý ngài.
Dĩ nhiên không thể nói đến việc tặng thưởng ngài Malee, nhưng "viên quản gia" đã làm cho người ta hiểu rằng y vui lòng nhận món tiền thưởng đã hứa để "uống trà".
Sau chuyện đó con mèo bị tăng cường giám sát. Nhưng đáng lẽ thất vọng với cuộc sống đói khát trước đây và vui sướng với cái góc đầy đủ tiện nghi mới thì nó lại trở nên càng ngày càng hoang dã hơn và dễ nổi nóng hơn.
VIII
Mùa xuân đã lao động hết sức trong phạm vi có thể làm được ở thành phố New York. Lũ chim sẻ bẩn thỉu đánh lộn và vùng vẫy tắm bên các ống máng xối ở các mái nhà. Lũ mèo đêm đêm kêu gào trên các mái nhà, và cái gia đình ở Đại lộ Năm đã nghĩ đến chuyện đi về tòa biệt thự của họ ở ngoại ô. Họ thu xếp công việc, khóa cửa nhà lại và đi khỏi New York năm mươi dặm, mang theo con mèo đựng trong một cái giỏ.
- Đúng là cần phải làm như thế với nó, sự thay đổi không khí và hoàn cảnh sẽ làm cho nó quên sự chia li với chủ cũ, và nó sẽ có hạnh phúc.
Chiếc giỏ được đặt trong xe chở hành lí. Các âm thanh và mùi vị thoáng qua lọt tới cái giỏ biến mất ngay lập tức. Chiếc xe ngựa đã rẽ ngoặt. Rồi sau lại nghe thấy nhiều tiếng chân bước về cái giỏ lại lắc lư. Một lúc dừng xe ngắn ngủi, một chỗ rẽ nữa, rồi lại tiếng quất roi, tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng huýt gió kéo dài, tiếng chuông leng keng, có mùi ngột ngạt, ghê tởm, mùi hôi thối, độc địa, chết người. Tiếng ồn ào át cả tiếng kêu la của con mèo khốn khổ - nó ngạt thở vì thiếu không khí. Và đột nhiên nó trông thấy ánh sáng chói chang, và được thở hít không khí thỏa thuê. Sau đó nghe thấy tiếng người kêu to: "Dỡ hành lí!". Dĩ nhiên đối với con mèo đó chỉ là tiếng quát tháo vô nghĩa của con người. Tiếng ồn ào dần dần im bặt.
Chẳng bao lâu lại thấy lúc lắc. Lại vô số những âm thanh và va xóc nhưng không phải ngửi mùi hôi thối độc địa. Tiếng gầm gào điếc tai gia tăng. Và đây là cái mùi dễ chịu của bến cảng. Lại xô đẩy, quát tháo, tiếng ken két, rồi lại những chỗ dừng chân, lại tiếng roi quất, tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng la mắng, những cái lúc lắc. Rồi lại những mùi mới, lại xô đẩy mạnh và yếu, lại mùi khí, mùi khói, những cái lắc lư, tiếng chuông, tiếng la mắng, quát tháo, ầm ầm. Và lại những mùi mới, tiếng lốp cốp mới, những cái lúc lắc mới, tiếng ồn ào mới. Lại những mùi khác. Lại một chỗ dừng chân. Có những tia sáng rọi qua cái nắp giỏ. Con mèo Hoàng gia lại được đặt vào xe ngựa chở hành lí. Thêm một chỗ rẽ nữa, và bánh xe lại lăn lọc cọc trên đường. Có thêm một âm thanh ghê sợ - tiếng chó sủa, rất gần, như sát bên tai. Người ta mở chiếc nắp giỏ ra và con mèo hoang đã ở tòa biệt thự ngoại ô rồi.
Những người xung quanh đều tốt đến mức làm rầy con mèo. Ai cũng muốn làm vừa lòng nó, nhưng không hiểu sao chẳng có ai thành công cả, trừ bà làm bếp to béo mà con mèo làm quen ở nhà bếp. Người đàn bà ấy có cái mùi gợi nhớ đến sự nghèo nàn, và con Hoàng gia Analostan tỏ thái độ thiện cảm ngay với bà ta. Bà nấu bếp biết bà chủ sợ con mèo bỏ trốn nên đã hứa sẽ luyện cho nó quen. Bà ta nhanh nhẹn tóm lấy vị thần linh không ai tới gần được ấy vào trong chiếc tạp dề và làm một việc xúc phạm khủng khiếp là dùng mỡ lợn xoa vào chân nó. Dĩ nhiên là con mèo nổi giận. Nhưng khi bà ta thả nó ra thì nó bắt đầu liếm chân, mỡ lợn rất hợp khẩu vị nó. Nó liếm chân trong suốt cả giờ đồng hồ, và bà nấu bếp đắc thắng tuyên bố rằng, "bây giờ chắc chắn nó sẽ ở lại". Đúng là con mèo đã ở lại, nhưng người ta đã phát hiện ra là nó có một sự ham mê khó hiểu và bỉ ổi gần gũi căn bếp, bà nấu bếp và cái xô đựng rác.
Mặc dầu bà chủ buồn phiền về những sự gàn dở quý phái đó, song bà cũng vui mừng khi trông thấy con mèo Hoàng gia Analostan hài lòng và tỏ ra ngoan ngoãn hơn. Sau một vài tuần lễ con mèo được thả lỏng nhiều hơn. Người ta bảo vệ nó khỏi mọi điều khó chịu nhỏ nhặt nhất. Lũ chó được dạy cách kính trọng nó. Không một người lớn, một đứa trẻ nào ở vùng xung quanh dám ném đá vào con mèo nổi tiếng có phổ hệ. Nó được cung cấp thức ăn thỏa thích nhưng nó vẫn không thấy hạnh phúc. Nó mơ hồ ước muốn nhiều điều; tự bản thân nó cũng không biết đó là những điều gì. Nó đã có tất cả mọi thứ, nhưng nó lại muốn những điều khác. Nó được ăn uống nhiều nhưng sữa lại không có cái vị như thứ sữa mà nó có thể uống và tợp bao nhiêu cũng được ở những cái thùng đựng sữa. Cần phải lấy trộm được sữa ở cái thùng sắt tây khi bụng đói và khát, còn ở đây thì sữa không có cái vị ngon như thế - không phải là thứ sữa đó, thế thôi.
Thực ra ở ngôi nhà này cũng có một cái sân sau rộng lớn nhưng cái sân lại bị những cây hoa hồng đầu độc bầu không khí. Thậm chí những con ngựa và con chó cũng bốc mùi chẳng ra đầu ra đũa gì cả. Cả khu vực này cứ như một vùng hoang mạc, gồm toàn những vườn cây và đồng cỏ kinh tởm, chẳng có một khu phố chung chỉ gồm những căn lều cỏ nát, chẳng có một cái ống khói nhà máy chung. Tất cả những cái đó đối với nó mới đáng căm ghét làm sao! Trong toàn bộ cái dinh cơ đáng sợ này chỉ có mỗi một bụi cây nhỏ ngát hương nằm khuất nẻo ở một xó xỉnh. Con mèo vui thích bứt những cái lá cây ở đó và nằm lăn lộn trên đám lá. Đó là nơi duy nhất dễ chịu trong dinh cơ này, bởi vì từ lúc nó ra đi đến giờ nó chưa hề trông thấy một cái đầu cá thối, một cái thùng rác nào.
Nơi nghỉ mát đối với nó là một vùng đê tiện, quái gở. Chắc hắn nó muốn chuồn ngay buổi tối đầu tiên nếu như nó được làm theo ý nó. Nhưng mãi sau nhiều tuần lễ nó mới được thực hiện ý mình còn bây giờ thì nó kết bạn với bà nấu bếp. Rồi đến cuối hè đã có một loạt sự kiện lại kích thích những bản năng cũ trỗi dậy trong con mèo hoang.
Người ta mang từ bến cảng về ngôi biệt thự ở vùng quê một kiện hàng lớn. Kiện hàng sặc sụa mùi hương mê hồn của bến cảng và của những túp lều nghèo nàn, và cái quá khứ của con mèo lại hiện ra trước mắt nó một cách vô cùng quyến rũ. Thế mà đến ngày hôm sau bà nấu bếp lại bị sa thải do những sự hiểu lầm nào đó liên quan đến chính kiện hàng kia. Sau khi bà ta đi rồi con mèo hoàn toàn cô độc. Đúng tối hôm đó đứa con trai bé của bà chủ, một đứa trẻ Hoa Kỳ tồi tệ chẳng chút tôn trọng dòng máu hoàng gia đã nghĩ ra cái trò buộc một chiếc hộp sắt tây vào đuôi con mèo quý tộc - chắc chắn rằng đây là một trong những ý định hay ho, tốt đẹp nhất của thằng bé. Nhưng con mèo đã đáp lại sự suồng sã đó bằng một cái vả tay được vũ trang năm móng sắc như năm chiếc lưỡi câu. Tiếng kêu rống lên của nước Hoa Kỳ bị xúc phạm làm cho bà mẹ Hoa Kỳ nổi trận lôi đình. Con mèo chẳng biết nhờ sự thần kì nào mà tránh được quyển sách do bàn tay khéo léo hoàn toàn đàn bà ném vào nó và lập tức bỏ chạy. Dĩ nhiên là nó chạy lên phía trên. Con chuột khi chạy trốn thì rúc xuống phía dưới, con chó thì chạy thẳng còn mèo thì chạy lên phía trên.
Nó nấp ở tầng sát mái nhà để tránh truy nã và chờ đêm xuống. Thế rồi nó mò theo cầu thang xuống dưới nhà, dò dẫm hết cái cửa này đến cái cửa khác cho tới khi tìm được một cánh cửa khép hờ thì lách ra ngoài và lao vào bóng đêm đen của tháng Tám. Màu đen kịt như mực đối với mắt người thì chỉ là màu xám đối với mắt nó. Kẻ trốn chạy len lỏi qua những bụi cây và bồn hoa gớm ghiếc, vặt những cây cỏ khả ái trong vườn trước lúc chia tay và dũng cảm đi ngược trở lại con đường người ta đã mang nó đi hồi mua xuân.
Nhưng làm sao tìm ra con đường mà nó chưa từng bao giờ trông thấy? Mọi sinh vật đều được trang bị một thứ cảm xúc phương hướng. Cảm xúc này ở con người rất yếu ớt và ở con ngựa thì rất mạnh. Ở mèo cảm xúc này cũng mạnh mẽ, và kẻ đưa đường bí mật đó đã hướng dẫn kẻ trốn chạy đi về hướng tây. Sau một giờ nó đã chạy được hai dặm và đến bờ sông Hudson. Khứu giác đã nhiều lần giúp nó khẳng định rằng đã chọn đúng đường. Nó nhớ lại hết mùi nọ đến mùi kia, chẳng khác gì một người khi đi qua một đường phố lạ rồi quên ngay mất nó nhưng đến lúc thấy lại nó lần thứ hai thì bỗng nhiên nhớ lại một điều gì đó và tự nhủ rằng: "Chà, có lần mình đã ở đây rồi mà!". Như vậy người chỉ huy chủ yếu của con mèo là cảm giác phương hướng. Cái mũi lúc nào cũng động viên nó: "Đúng rồi, bây giờ thì đúng là mùa xuân năm ngoái chúng ta đã có đi qua đây".
Dọc theo bờ sông có con đường sắt. Con mèo phải lựa chọn đi lên hướng bắc hoặc đi xuống hướng nam. Cảm xúc phương hướng đã thầm bảo nó một cách rành rọt: "Đi về hướng nam", và con mèo bèn chạy theo con đường nằm giữa dường xe lửa và dãy hàng rào.