Dịch giả: Lê Thùy Dương
Hiệu định: Nguyễn Bá Hưng
SNAP
(CHUYỆN MỘT CON CHÓ BULL-TERRIER)

    
ôi trông thấy nó lần đầu tiên vào lúc hoàng hôn.
Sáng sớm tôi nhận được một bức điện báo của người bạn học cũ tên là Jack:
"Mình gửi cho cậu một con chó cún xuất sắc. Cậu hãy đối xử lịch sự với nó. Nó cũng chẳng nguy hiểm gì đâu."
Cá tính của Jack kì cục lắm, anh ta có thể gửi đến cho tôi một chiếc máy khủng khiếp hoặc một con chồn điên chứ không phải là một chú cún, vì thế tôi cũng hơi tò mò chờ đợi món đồ gửi tới. Khi món đồ đến nơi thì tôi nhìn thấy trên đó có ghi dòng chữ: "Nguy hiểm". Bên trong có cái gì khe khẽ lục xục kèm theo tiếng gầm gừ cáu kỉnh. Nhưng khi nhìn qua một lỗ hổng bịt lưới sắt thì tôi trông thấy không phải là con hổ con mà chỉ là một con chó Bull- terrier bé nhỏ lông trắng mà thôi. Nó định cắn tôi và lúc nào cũng cứ gầm gừ một cách gai ngạnh. Lũ chó thường gầm gừ theo hai kiểu: khi chúng gầm gừ khe khẽ, giọng ngực thì đó là chúng cảnh cáo một cách lịch sự hoặc là đáp ứng lại một cách hết sức đàng hoàng, còn khi chúng gừ gừ lớn tiếng gần như là rít lên thì đó là chúng sắp sửa nhảy xổ vào để tấn công. Con cún trắng này đúng là đang gừ gừ lớn như vậy.
Tôi là một người thích nuôi chó cho nên nghĩ rằng mình biết cách đối xử với bất cứ con chó nào. Vì vậy sau khi cho người công nhân khuân vác trở về, tôi vô lấy con dao xếp của tôi - một thứ đồ nghề thay thế rất tốt cả cái búa con, cái rìu nhỏ, lẫn hòm đồ nghề và cái móc lò (một thứ nghề chuyên môn của công ty chúng tôi) - và cậy tấm lưới. Con cún gầm gừ lớn hơn mỗi lúc tôi đập vào ván thùng và tôi vừa mới lật nghiêng cái thùng ra một bên là nó đã lao thẳng vào chân tôi. Nếu như chân nó không bị vướng vào mắt lưới thì có lẽ tôi đã gặp rủi ro rồi bởi vì rõ ràng là nó không có ý nô giỡn. Tôi nhảy đại lên bàn, là nơi nó không thể đuổi được tôi và cố dỗ dành nó. Tôi luôn luôn là người ủng hộ việc chuyện trò khuyên bảo các súc vật. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, tuy chúng không hiểu được những từ mà chúng ta nói nhưng chúng vẫn nắm được ý nghĩa chung của ngôn ngữ, cả ý định chúng ta. Nhưng con cún này rõ ràng đã coi tôi là một kẻ giả nhân giả nghĩa và khinh thị mọi sự xun xoe của tôi. Thoạt đầu nó ngồi ở dưới bàn, tỉnh táo nhìn khắp bốn phía để xem tôi có định thò chân xuống hay không. Tôi hoàn toàn tin chắc rằng có thể dùng con mắt nhìn để khiến cho nó phải phục tùng, nhưng tôi chẳng làm thế nào bắt nó nhìn vào mắt mình được cả, vì vậy tôi cứ ở lại trên bàn. Tôi là một con người điềm tĩnh. Bởi vì tôi là người đại diện của một công ty buôn bán đồ sắt, còn chú em trai tôi thì nói chung được đánh giá là một con người bình tĩnh, họa chăng chỉ chịu thua có những ông chủ buôn bán quần áo may sẵn mà thôi.
Tôi bèn móc xì gà ra châm lửa hút và ngồi theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ở trên bàn, trong khi tên chuyên chế bé nhỏ thì ngồi đợi những cái cẳng chân tôi ở bên dưới. Sau đó tôi lôi bức điện ở trong túi áo ra và đọc lại: "Một con chó cún xuất sắc. Hãy đối xử lịch sự với nó. Nó cũng chẳng nguy hiểm gì đâu". Tôi cho rằng sự bình tĩnh trong trường hợp này đã thay thế có kết quả sự lịch sự, bởi vì sau nửa giờ thì chú cún thôi gầm gừ. Sau một giờ thì nó đã không nhảy bổ tới tờ báo mà tôi thận trọng thả rơi từ trên bàn xuống đất cốt để thử xem tình cảm của nó ra sao. Có lẽ sự kích động do bị nhốt trong hòm đã lắng dịu đi chút ít rồi. Và đến khi tôi hút tới điếu xì gà thứ ba thì chú cún đã thủng thẳng bước tới chỗ cái lò sưởi và nằm dài ra ở đó tuy rằng vẫn không quên tôi - tôi cũng chẳng có thể than phiền gì về chuyện này cả. Một con mắt nó lúc nào cũng theo dõi tôi. Còn tôi thì theo dõi bằng cả hai mắt nhưng là theo dõi cái đuôi ngắn cũn cỡn của nó chứ không phải bản thân nó. Nếu như cái đuôi đó vắt sang một bên dù chỉ một lần duy nhất thôi thì cũng có nghĩa là tôi đã thắng lợi. Nhưng cái đuôi bé nhỏ ấy vẫn cứ bất động. Tôi với một quyển sách và tiếp tục ngồi trên bàn cho đến khi tê chồn chân và lửa trong lò sưởi bắt đầu tắt. Đến mười giờ trong phòng đã man mát, còn đến mười một giờ rưỡi thì lửa lò sưởi đã tắt ngấm. Món quà người bạn tặng tôi liền đứng dậy, ngáp dài, duỗi thẳng bốn chân ra rồi tiến về phía tôi đến gần giường ngủ, nơi có một tấm thảm chùi chân bằng lông thú. Tôi cũng nhẹ nhàng từ bàn sang tủ chè rồi lại từ tủ chè bước sang lò sưởi để về giường ngủ và tôi cởi quần áo thật khẽ khàng để khỏi làm kẻ điều khiển mình phải lo lắng, cốt làm dịu sự kích động của nó. Tôi chưa kịp ngủ thì đã nghe có tiếng cào cào khe khẽ và cảm giác thấy có vật gì đó đang đi trên giường và sau đó đi trên cẳng chân mình. Rõ ràng là con Snap thấy rằng ở bên dưới quá lạnh và đã quyết định sử dụng mọi tiện nghi có thể có.
Nó cuộn tròn ở chỗ chân tôi một cách rất bất tiện đối với tôi. Nhưng tôi hoài công vô ích khi định sắp xếp lại cho thoải mái hơn bởi vì tôi chỉ vừa mới thử cựa quậy là nó đã ngoạm ngay lấy chân tôi một cách hung dữ đến nỗi nếu như không nhờ mặc một chiếc quần dày thì có lẽ tôi đã mang thương tích nặng nề rồi. Phải mất cả giờ đồng hồ tôi mới thu xếp được đôi chân bằng cách mỗi lần chỉ dịch đi một sợi tóc thôi để có thể chợp mắt ngủ được. Suốt đêm tôi đã nhiều lần thức giấc vì tiếng gầm gừ giận dữ của chú cún - có lẽ nó gầm gừ vì tôi đã dám động đậy chân mà không được nó đồng ý, hoặc cũng còn vì nó tự cho phép mình thỉnh thoảng được gầm gừ như thế.
Đến sáng tôi muốn trở dậy trước Snap. Các bạn có thấy không tôi đã gọi nó là Snap… Tên gọi đầy đủ của nó là Gingersnap. Một số con chó rất khó đặt tên, một số khác lại không cần phải nghĩ ra tên - cứ như là tự chúng đã có sẵn tên rồi ấy.
Lúc ấy tôi muốn trở dậy lúc bảy giờ. Snap thích hoãn lại tới tám giờ vì thế chúng tôi trở dậy lúc tám giờ. Nó quyết định tôi phải nhóm lò sưởi và cho phép tôi mặc quần áo và không một lần nào đuổi tôi lên ngồi trên bàn cả. Khi bước ra khỏi phòng để đi sửa soạn bữa ăn sáng tôi đã nhận xét:
- Anh bạn Snap ạ, người khác có lẽ sẽ dùng roi gân bò để giáo dục mày, nhưng tao lại nghĩ kế hoạch của tao tốt hơn. Các vị bác sĩ ngày nay khuyên nên dùng hệ thống chữa bệnh gọi là "không cho ăn sáng". Tao sẽ thử áp dụng cách đó với mày xem sao.
Cả ngày không cho nó ăn thì thật là khắc nghiệt nhưng tôi kiên quyết làm. Nó đã cào xước toàn bộ cánh cửa khiến tôi về sau phải cho sơn lại, nhưng đến chiều tối thì nó đã thích thú đồng ý nhận từ tay tôi một chút thức ăn.
Không đến một tuần lễ sau chúng tôi đã trở thành bạn của nhau. Bây giờ nó ngủ trên giường tôi mà không có ý định cắn què chân tôi nữa mỗi khi tôi cử động chân. Hệ thống chữa bệnh gọi là "không cho ăn sáng" đã tạo ra được sự thần kì và ba tháng sau thì chúng tôi đã gắn bó thân thiết với nhau rồi. Anh bạn tôi thật cũng uổng công gọi nó trong bức điện là con cún xuất sắc.
Hình như nó không có cảm xúc sợ hãi. Khi nó gặp một con chó nhỏ nó không thèm để ý mảy may đến gã, nhưng khi nó gặp một con chó to lớn thì nó duỗi thẳng cái đuôi ngắn ngủn ra như một sợi thừng và đi diễu quanh con chó lạ rồi vừa kéo lê đôi chân sau vừa nghênh ngáo nhìn trời nhìn đất hoặc nhìn ra xa chứ chẳng thèm nhìn vào gã chó đó, nhưng vẫn gầm gừ cao giọng để tỏ ra rằng mình biết có mặt gã ta. Nếu gã chó lạ mặt không mau mau bỏ đi thì lập tức nó ra trận chiến. Và sau trận chiến thì thường thường là gã chó lạ đặc biệt sẵn sàng bỏ chạy. Cũng có khi Snap thất trận nhưng chẳng có một kinh nghiệm cay đắng nào có thể gieo nổi cho nó lấy một hạt nhỏ thận trọng nào cả.
Một bữa đang đi trên một chiếc xe ngựa vào thời gian có cuộc triển lãm chó thì Snap trông thấy một con chó săn nòi St. Bernard to lớn như con voi đi dạo chơi dưới đường. Kích thước to lớn của con chó ấy đã làm cho con cún tức điên lên đến nỗi nó nhoài ra khỏi cửa sổ xe ngựa và do đó mà ngã gãy chân.
Nó không biết sợ hãi là gì. Nó chẳng giống bất cứ một con chó nào mà tôi đã biết. Chẳng hạn như nếu một chú bé nào đó lấy đá ném nó thì nó chạy ngay nhưng là chạy xổ lại chỗ chú bé chứ không hề bỏ chạy đi. Và nếu chú bé lại ném đá nữa thì Snap thanh toán ngay lập tức với y chứ chẳng chịu nhịn để lấy tiếng khen của mọi người. Chỉ có tôi và người tùy phái của ban quản trị công ty chúng tôi là biết đánh giá những mặt tốt của nó. Và nó cũng chỉ coi hai người chúng tôi xứng đáng là bạn nó. Đến giữa mùa hè thì cả ba nhà triệu phú Hoa Ký là Carnegie, Vanderbilt và Astor gộp lại cũng không thể chung nhau đủ tiền để mua nổi chú cún nhỏ Snap của tôi.
II
Tuy tôi không phải là người đi chào hàng nhưng công ty mà tôi phục vụ vẫn cứ cử tôi đi du lịch vào mùa thu, và Snap phải ở nhà cùng với bà chủ cho tôi thuê căn phòng. Hai người không hợp tính nhau. Gã chó khinh thị bà chủ phòng, còn bà ta thì sợ nó, và cả hai đều căm ghét lẫn nhau.
Tôi mắc bận tiêu thụ dây thép gai tại các bang ở phía bắc. Tôi nhận được thư mỗi tuần lễ một lần. Trong thư bà chủ phòng của tôi luôn luôn than phiền về Snap.
Khi đến Mendoza, bang Bắc Dakota, tôi tìm được mối tiêu thụ nhiều dây thép gai. Dĩ nhiên tôi giao dịch chủ yếu với những nhà buôn lớn, nhưng tôi cũng có bàn chuyện với những chủ trang trại để tìm hiểu nhu cầu của họ và do đó mà tôi được làm quen với trang trại của anh em Penroof.
Không thể đến được nơi có bãi chăn thả và không thể nghe nói tới những chuyện tàn bạo của một con sói tinh ranh và khát máu nào đó. Thời kì người ta đánh bả độc lũ sói đã qua rồi. Anh em nhà Penroof cũng như tất cả những nhà chăn nuôi gia súc thông minh khác đều khước từ không dùng bả độc và bẫy và bắt tay vào việc dạy chó săn sói với hi vọng không những diệt được kẻ thù của vùng mà còn được có dịp tiêu khiển nữa.
Những con chó săn rượt thì yếu đối với trận giáp chiến quyết định, lũ chó săn nòi Đan Mạch thì quá vụng về, còn những con chó săn chân dài thì lại không thể rượt theo được con mồi vì không nhìn thấy được chúng. Mỗi nòi chó đều có một thiếu sót tai hại nào đó. Bọn chăn ngựa hi vọng dùng một đàn chó hỗn hợp thì sẽ có lợi, và khi người ta mời tôi tham gia cuộc săn thì tôi rất buồn cười về sự đa dạng của lũ chó có mặt trong đàn. Ở đây có không ít con chó tạp giống nhưng cũng có cả những con chó thuần giống, và trong số đó có được vài con chó săn sói nòi chó Nga rõ ràng là rất đắt tiền.
Hilton Penroof, người anh lớn và là "chỉ huy" cuộc săn ở địa phương, tự hào một cách bất bình thường về đàn chó và hi vọng là lũ chó sẽ giành được những chiến công hiển hách.
- Lũ chó săn chân dài quá nhu nhược đối với một cuộc săn sói, lũ chó Đan Mạch thì chạy chậm, nhưng rồi các vị sẽ xem, khi lũ chó săn sói xáp vô là chúng xé tan xác lũ sói ra thôi.
Như vậy là chó săn chân dài sẽ dùng để rượt đuổi, chó Đan Mạch để dự trữ, còn chó săn sói thì dùng cho việc tổng công kích. Ngoài ra trong đàn chó còn có hai ba con chó săn rượt, chúng sẽ phải sử dụng tài nhanh nhẹn của mình bám sát con thú săn nếu như chúng chạy ra ngoài tầm mắt thấy.
Cảnh tượng lúc chúng tôi lên đường giữa vùng đồi núi vào một ngày tháng Mười trong trẻo mới hùng dũng làm sao! Không khí trong sáng, sạch sẽ, và tuy đã về cuối năm mà trời vẫn chưa có tuyết và cũng chưa rét cóng. Lũ ngựa của những người đi săn đã hơi nổi xung và chúng đã hai lần chứng tỏ cho tôi thấy là chúng sẽ thoát khỏi các kị sĩ đang cưỡi chúng như thế nào.
Chúng tôi nhận thấy trên bình nguyên hai ba chấm màu xám mà theo lời Hiiton thì đó là lũ sói hoặc sói đồng cỏ. Đàn chó sủa oang oang. Nhưng chẳng con chó nào bắt được sói cả mặc dầu chúng đuổi cho đến tận chiều. Chỉ có một con chó săn chân dài đuổi kịp sói và bị rớt lại phía sau vì bị một vết thương vào vai.
- Hilton ạ, tôi thấy lũ chó săn sói được tâng bốc tận mây xanh của anh chẳng được tích sự gì cả, - Garvin, người em nói. - Con chó Đan Mạch, đen nhỏ ở đây còn tốt hơn mặc dầu nó chỉ là một con chó tạp giống thôi.
- Chẳng tóm được gì cả! - Hilton làu nhàu. - Thậm chí sói đồng cỏ cũng chưa bao giờ thoát khỏi tay những con chó săn chân dài này chứ đừng nói là sói nữa. Lũ chó săn rượt cũng là những con chó xuất sắc, chúng rượt theo được vết chân để lại từ ba ngày trước. Còn lũ chó Đan Mạch thì có thể chọi được gấu ấy chứ.
- Ba không tranh luận đâu, - người cha nói, - lũ chó của con có thể rượt đuổi, có thể tìm được dấu vết và có thể chọi được gấu, nhưng vấn đề là chúng lại không săn được sói. Cả cái đàn chó đáng ghét này chỉ là một lũ hèn nhát. Có lẽ ba sẽ phải tốn nhiều công sức mới thu hồi được số tiền bỏ ra để mua chúng.
Họ cứ tranh cãi và càu nhàu như thế cho đến khi tôi chia tay họ và tiếp tục đi xa hơn. Rõ ràng là cuộc săn sở dĩ thất bại u hơn nữa nếu phải bay trong sương mù, khi thậm chí mặt trời cũng chẳng trông thấy nữa. Nhưng những lúc cả trí nhớ, thính giác lẫn thị giác đều bất lực thì ở bồ câu vẫn còn cảm giác phương hướng. Chỉ có sự sợ hãi mới có thể diệt mất cảm giác đó mà thôi. Chính vì thế mà ở giữa đôi cánh khỏe mới cần thiết phải có một trái tim dũng cảm.
Arnaux cùng với hai con chim khác được gửi đi trên một chiếc tàu biển vượt đại dương, sang châu Âu. Người ta dự định khi tàu đến giữa biển khơi thì thả chim, nhưng sương mù dày đặc đột ngột đến đã làm phá sản kế hoạch. Con tàu đã mang lũ chim đi xa hơn. Người ta sẽ chuyển chim trở về khi nào gặp con tàu đầu tiên chạy trở về bến. Sau mười tiếng đồng hồ chạy trên biển, máy của tàu bỗng hỏng, sương mù dày đặc thêm và con tàu dường như trở thành một thứ đồ chơi bất lực của gió và sóng nước. Điều duy nhất có thể làm được là kéo còi báo tín hiệu bất an. Nhưng kéo còi cũng chẳng giúp được gì cả. Lúc ấy người ta sực nhớ đến những con bồ câu. Con Starback mang số 2592C được chọn. Người ta viết thư vào một tờ giấy không thấm nước, cuộn tròn lại và buộc vào phía dưới lông đuôi chim. Starback cất cánh bay lên và biến mất. Nửa giờ sau đến lượt con Xám lớn ra đời nơi góc chuồng, mang số 2600C. Nó cũng cất cánh bay lên nhưng gần như quay trở lại ngay lập tức vì sợ. Chẳng có cách nào bắt nó rời khỏi con tàu được cả. Nó sợ hãi đến mức để cho người ta bắt nó dễ dàng và cứ nằm chúi ở trong lồng.
Bây giờ đến lượt con thứ ba - một con bồ câu nhỏ bé chắc nịch. Các thủy thủ không có khái niệm gì về nó cả nhưng nhận ra tên và số hiệu nó trên vòng: Arnaux, 2590C. Đối với họ những điều ghi đó chẳng có nghĩa gì cả. Nhưng người thủy thủ cầm nó trong tay thì có nhận xét rằng nhịp đập của trái tim nó không dồn dập như con chim trước. Người ta tháo bức thư buộc vào chân con Xám lớn để buộc sang cho nó bức thư viết như sau:
10 giờ sáng ngày thứ ba
Máy tàu hỏng ở cách New York 210 dặm. Tàu trôi bất lực trong sương mù. Cho tàu kéo đến càng nhanh càng tốt. cứ sau sáu mươi giây chúng tôi sẽ kéo một tiếng còi dài rồi đến một tiếng còi ngắn.
Thuyền trưởng
Bức thư được cuộn tròn lại, bọc kín bằng giấy không thấm nước, đề gửi cho Hội tàu biển và buộc chặt vào phía dưới lông đuôi con bồ câu.
Con bồ câu vừa được thả ra đã cất cánh bay lượn một vòng phía trên con tàu, rồi lượn tiếp một vòng nữa cao hơn, và lại một vòng thứ ba cao hơn nữa cho đến khi khuất tầm mắt. Nó cứ bay lên cao mãi, cao mãi cho đến khi không còn trông thấy con tàu nữa. Do đã mất hết khả năng sử dụng mọi giác quan ngoại trừ cảm giác phương hướng nên nó hoàn toàn tin theo cảm giác đó. Cả sự sợ hãi cũng không che mờ được cảm giác đó. Giống như chiếc kim la bàn nào cũng trỏ hướng bắc con chim Arnaux luôn luôn bay về đích của nó không chút dao động, không chút nghi ngờ. Chỉ một phút sau khi được thả khỏi lồng nó đã bay thẳng như một tia sáng về hướng cái chuồng chim nuôi nó lớn lên, nơi duy nhất nó thấy dễ chịu.
Ngày hôm đó Billy trực tại chuồng chim. Đột nhiên anh ta nghe thấy tiếng chim vỗ cánh dồn dập rồi một mũi tên xanh lao vụt xuống chuồng và nhảy tới chỗ chậu nước uống. Con bồ câu đang uống lấy uống để từng ngụm nước thì Billy đã nhận ra nó:
- Mày đấy ư, Arnaux, con chim xinh đẹp của ta?
Sau đó anh ta xem đồng hồ với vẻ thành thạo của người luyện chim và ghi thời gian: 2 giờ 40 phút. Đúng lúc đó anh ta nhận ra sợi dây cuộc ở phía đuôi con chim. Billy đóng cửa chuồng chim lại và lấy một tấm lưới nhanh chóng chụp lên đầu Arnaux. Một phút sau anh ta đã cầm trong tay bức thư và hai phút nữa anh đã ba chân bốn cẳng đến văn phòng hội nhận một món tiền thưởng hậu hĩ. Tại đấy anh ta được biết rằng con Arnaux đã bay qua hai trăm mười dặm trên biển trong sương mù mất bốn giờ bốn mươi phút và không đầy một giờ sau một chiếc tàu cấp cứu đã được phái đi cứu con tàu biển bất hạnh.
Hai trăm mười dặm trên biển trong sương mù bay hết bốn giờ bốn mươi phút! Kỉ lục đó thật là vinh quang! Kỉ lục đó được ghi vào sổ thống kê của câu lạc bộ bồ câu đúng như nó xứng đáng được ghi như thế. Người ta giữ con Arnaux trong tay và viên thư kí hội tay đi găng da đã dùng thẻ mực không phai ghi chiến công đó cũng như ngày lập chiến công đó vào một trong những cái lông cánh trắng như tuyết của Arnaux.
Starback, con bồ câu thứ hai không thấy trở về. Chắc là nó chết ngoài biển cả.
Con Xám ra đời ở nơi góc chuồng thì được chiếc tàu kéo mang về.
III
Đó là chiến công đầu tiên của Arnaux, và chẳng bao lâu lại đến những chiến công tiếp theo làm cho nơi chuồng chim trở thành nơi diễn xuất nhiều màn mà Arnaux là kẻ thủ vai chínhlà vì lũ chó tuy có khỏe và chạy nhanh thật nhưng khi trông thấy sói thì chúng đã sợ hãi. Chúng không dám đọ sức với sói, và tự dưng tôi nghĩ ngay đến con cún không biết sợ là gì từng chia sẻ giường ngủ với tôi suốt một năm vừa qua. Tôi mong muốn nó có mặt nơi đây với tôi biết bao! Những con chó khổng lồ vụng về có lẽ sẽ có một con đầu đàn chưa bao giờ biết sợ.
Tới nơi dừng chân tiếp theo của tôi, tại Baroka, tôi nhận được một đống thư trong đó có hai bức do bà chủ cho thuê phòng gửi đến: bức thư thứ nhất tuyên bố rằng "cái con chó ti tiện ấy làm điều bậy bạ trong căn phòng của tôi", còn bức thư thứ hai thì sôi nổi hơn nữa, đòi tôi phải mau mau đem con Snap đi khỏi nhà bà ta.
"Tại sao ta không viết thư gọi nó tới Mendoza nhỉ? - Tôi nghĩ thầm. - Cả thảy chỉ mất có hai mươi giờ đi đường. Anh em nhà Penroof sẽ vui thích với con Snap của mình. trên đường quay trở lại mình sẽ đón nó."
III
Lần gặp gỡ thứ hai của tôi với con Gingersnap cũng hoàn toàn y hệt như cuộc gặp gỡ thứ nhất, đúng như điều có thể chờ đợi xảy ra. Nó nhảy xô vào tôi, mồm liền tục gầm gừ như tuồng muốn cắn. Nhưng tiếng gầm gừ trầm trầm còn mẩu đuôi ngắn ngủn thì giật giật rất mạnh.
Từ khi tôi đến thăm, anh em nhà Penroof đã tổ chức săn sói nhiều lần, và đã phát bực vì những thất bại liên tiếp. Lũ chó hầu như lần nào cũng bắt gặp sói nhưng chẳng làm thế nào kết liễu được chúng; mà những người đi săn thì chẳng lần nào đến được đủ gần để biết rõ tại sao chúng lại sợ sói.
Ông già Penroof bây giờ hoàn toàn khẳng định rằng, "trong cả đám lũ hèn hạ vô dụng ấy chẳng có được lấy một con chó nào can đảm hơn con thỏ đế cả".
Ngày hôm sau chúng tôi ra đi từ lúc hừng đông. Cũng vẫn những con ngựa xuất sắc, những kị sĩ tài ba, những con chó to lớn màu lông xám, vàng, đốm như cũ. Nhưng ngoài ra cùng đi với chúng tôi còn có một con chó nhỏ màu lông trắng lúc nào cũng bám sát lấy tôi và nhe răng ra làm quen với cả lũ chó lẫn lũ ngựa mỗi khi chúng cả gan đến gần tôi. Dường như Snap bất hòa với bất kì người, chó và ngựa ở bên cạnh nó. Chúng tôi dừng lại trên một đỉnh đồi bằng phẳng. Đột nhiên Hilton nhìn qua ống nhòm quan sát xung quanh bỗng kêu to:
- Thấy nó rồi? Nó đang chạy về phía con suối kia kìa. Skull. Nhất định đó là một con sói đồng cỏ.
Bây giờ phải bắt cả những con chó săn chân dài trông cho rõ con mồi. Đó không phải là một việc dễ dàng, bởi vì chúng không thể nhìn được qua ống nhòm, mà bình nguyên thì đầy những cây ngải cứu cao hơn tầm vóc lũ chó.
Hilton liền gọi: "Lại đây, Dander!" - và đặt một chân lên phía trước. Con Danđer nhảy một bước nhanh nhẹn bay lên yên ngựa và đứng đó lắc lư, trong khi Hỉlton kiên nhẫn trỏ cho nó thấy:
- Nó kia kìa, Dander, nhìn đi nào! Cắn nó đi, cắn nó đi, đó, đó!
Con Dander cố căng mắt nhìn theo cái chấm mà chủ trỏ cho nó, và sau đó nhất định nó đã trông thấy một vật gì đó rồi bởi vì nó đã nhảy phóc xuống đất và chạy lao đi. Những con chó khác cũng chạy theo nó. Chúng tôi cũng vội vã phóng ngựa theo chúng nhưng rớt lại sau nhiều bởi vì bình nguyên đầy những khe trũng, những hang chồn, đá tảng và ngải cứu cao. Phi ngựa quá nhanh có thể sẽ gặp kết thúc đau đớn.
Như thế là chúng tôi vẫn cứ tụt lại sau: riêng tôi là một kẻ không quen cưỡi ngựa thì còn rớt lại sau tất cả mọi người nữa. Chốc chốc lại nghe tiếng lũ chó sủa rộ lên ở phía trước, lúc thì nghe thấy chúng chạy ở bình nguyên, lúc lại thấy chúng bay trong mương xói để xuất hiện nhanh chóng ở sườn khe bên kia. Dẫn đầu là con chó săn chân dài Dander, và khi chúng tôi phi ngựa đến đỉnh ngọn đồi sau thì đã trông thấy được toàn cảnh cuộc săn: một con sói đồng cỏ đang nhảy những bước như bay và lũ chó chạy ở phía sau đến một phần tư dặm nhưng rõ ràng là sẽ đuổi kịp con sói. Khi chúng tôi lại trông thấy chúng một lần nữa thì con sói đồng cỏ đã hết thở rồi và lũ chó thì ngồi tất cả xung quanh nó, trừ hai con chó săn rượt và con Gingersnap.
- Chúng mày chậm chân không được tham gia trận đánh rồi! - Hilton vừa nhận xét vừa nhìn những con chó rượt đuổi chậm. Sau đó anh ta tự hào vỗ vỗ vào con Dander:
- Anh thấy đấy, dù sao cũng không cần đến con cún của anh.
- Thế cơ đấy, dũng cảm làm sao chứ: mười con chó to tướng xông vào đánh một con sói đồng cỏ bé xíu! - Người cha nhận xét một cách giễu cợt. - Cứ đợi đến lúc chúng ta gặp sói xem sao nào!
Đến ngày hôm sau chúng tôi lại đi săn.
Khi lên đến đỉnh đồi chúng tôi trông thấy một chấm màu xám đang di àm bụi tung mù mịt. Billy gạt chúng ra và thấy con bé là Arnaux còn con lớn là con Xám ra đời ở góc chuồng. Arnaux chiến đấu ngoan cường nhưng con Xám thắng thế vì nó nặng gấp đôi con Arnaux.
Ngay lập tức người ta biết rõ nguyên nhân của vụ đánh lộn là một con bồ câu mái bé nhỏ duyên dáng. Con Xám lớn từ lâu đã đem cái thô lỗ của nó ra trêu ngươi Arnaux, nhưng con bồ câu mái bé nhỏ là nguyên cớ thúc đẩy cuối cùng dẫn đến trận đánh nhau một sống một chết. Billy không có quyền vặn cổ con Xám nhưng gã đã làm một việc có thể làm được vì con Arnaux thân thiết của mình.
Billy nhốt con Arnaux cùng với con bồ câu mái bé nhỏ vào một ngăn chuồng riêng biệt trong hai tuần lễ, và để cho chắc ăn hơn gã cũng làm như vậy với con Xám lớn bằng cách gán cho nó một con mái thích hợp.
Mọi việc đã diễn ra đúng như gã dự kiến. Con bồ câu mái bé nhỏ thừa nhận Arnaux là người chủ trái tim của nó, còn con mái thích hợp kia thì công nhận con Xám to lớn. Chúng đi xây tổ uyên ương và ai cũng tưởng là chúng sẽ ăn đời ở kiếp với nhau tốt đẹp. Nhưng con Xám lớn là một con bồ câu rất to lớn và đẹp trai. Nó khéo biết ưỡn diều ra phô cái vòng lông cổ óng ánh dưới ánh mặt trời khiến cho không có con bồ câu mái nào đứng trước nó mà không cầm lòng nổi.
Còn con Arnaux của chúng ta thì tuy có thể chất cương nghị nhưng lại nhỏ con và không đẹp trai cho lắm. Chỉ có đôi mắt của nó là sáng long lanh một cách khác thường. Ngoài ra nó thường phải rời chuồng chim đi làm những công việc quan trọng, trong khi con Xám lớn lại chỉ có mỗi một công việc là vây vo ở bên chuồng chim và khoe khoang đôi cánh thiếu những chữ ghi thành tích của mình.
Các nhà văn thường thích đi tìm ở các loài vật, đặc biệt là ở chim bồ câu nhưng ví dụ về tình yêu lứa đôi và về lòng chung thủy. Những đức tính đó thực ra nói chung là đúng, nhưng than ôi! Cũng vẫn có ngoại lệ.
Vợ của Arnaux ngay từ đầu đã thán phục con Xám lớn, và rốt cuộc một hôm khi chồng nó được mang đi làm công vụ thì đã xảy ra một sự kiện khủng khiếp.
Khi từ Boston quay trở về Arnaux đã trông thấy gã Xám lớn trong lúc vẫn chưa bỏ "vị phu nhân thích hợp" được cưới cheo hợp pháp cho nó nơi góc chuồng thì lại chiếm đoạt cả vợ mình lẫn ngăn tổ của mình. Thế là một trận chiến ác liệt đã nổ ra. Chứng kiến cuộc chiến đó chỉ có một mình con vợ đứng xem một cách hoàn toàn thản nhiên. Arnaux lao vào đánh bằng đôi cánh thần kì của mình, nhưng các dòng chữ ghi các kỉ lục không gia tăng thêm sự nhanh nhẹn của đôi cánh. Mỏ và chân của nó nhỏ bé đúng như ở một con chim đưa thư tốt và trái tim dũng cảm không thể thay thế được chỗ thiếu trọng lượng. Cuộc chiến nhất định sẽ kết thúc bất lợi cho nó. Con vợ đậu thờ ơ ở tổ như chẳng có chuyện gì xảy ra cả, và Arnaux có lẽ đã bị đánh chết nếu như Billy không đến kịp thời. Gã tức giận đến nỗi suýt nữa thì vặn gãy cổ con Xám nếu như tên gây chuyện này không kịp chạy trốn khỏi chuồng.
Billy âu yếm chăm sóc Arnaux trong mấy ngày liền. Sau một tuần lễ con chim này đã hoàn toàn bình phục và qua mười ngày thì nó lại lên đường. Hiển nhiên là nó đã tha thứ cho con vợ bội bạc bởi vì ả đã tiếp tục sống yên ổn trong tổ. Trong tháng này nó đã lập được hai kỉ lục mới: nó mang một bức thư đi xa mười dặm chỉ trong tám phút và bay từ Boston về New York trong bốn giờ. Lúc nào tình yêu nơi chôn rau cắt rốn cũng cuốn hút nó quay trở lại.
Arnaux quay trở về lại gặp chuyện đau lòng bởi vì nó lại bắt gặp con vợ chuyện trò thân thiết với con Xám lớn. Dù nó rất mệt mỏi nhưng trận đánh nhau lại nổ ra và có lẽ Arnaux đã chết nếu như Billy không can thiệp. Gã tách hai kẻ đánh nhau ra, nhốt riêng Xám lớn vào một chỗ và quyết định hễ có dịp là tống cổ tên này đi.
Giữa lúc này sắp có tổ chức một cuộc thi tài lớn của tất cả các lứa chim - bay chín trăm dặm từ Chicago đi New York. Lũ bồ câu được gửi đi Chicago bằng xe lửa. Tại đây chúng sẽ được thả lần lượt từng con một. Con bồ câu nào bay tốt sẽ được thả muộn hơn. Con Arnaux sẽ được thả cuối cùng.
Sau khi rời Chicago một vài con bồ câu đã tụ họp lại thành đàn theo bản năng. Con bồ câu quy hồi sẽ bay theo đường thẳng nếu như cảm giác chung về phương hướng chi phối nó, nhưng khi nó thấy lờ mờ hay là quen thuộc thì nó thường dựa theo những đấu hiệu đã biết mà nó còn nhớ được. Phần lớn lũ chim được luyện theo con đường bay qua Columbus và Buffalo. Arnaux đã biết con đường bay qua Columbus nhưng cũng biết con đường bay qua Detroit. Vì thế khi nó bay ngang qua hồ Michigan thì nó theo đường thẳng bay tới Detroit. Như vậy nó sẽ được lợi vài dặm bay.
Detroit, Buffalo, Rochester với những mái nhà và ống khói quen thuộc cứ liên tiếp nối theo nhau bị bỏ lại phía sau và nó đã bay gần đến Syracuse rồi. Ngày đã ngả về chiều, Arnaux đã bay sáu trăm dặm trong vòng mười hai giờ và chắc chắn sẽ về trước tất cả. Nhưng đột nhiên nó muốn uống nước. Khi bay ngang qua các mái nhà của thành phố nó trông thấy một chuồng chim và thế là nó nhào xuống sau hai ba vòng lượn lớn rồi xáp vào với đồng loại và uống lấy uống để nước ở cóng. Trước đấy nó chưa bao giờ làm như thế cả. Bất cứ người chơi chim bồ câu nào cũng đều luôn luôn ao ước lũ chim đưa thư sử dụng lòng mến khách của mình. Người chủ chuồng chim có mặt lúc đó và đã nhận ra con chim lạ. Gã thận trọng đứng yên tại chỗ theo dõi con bồ câu. Một con trong số bồ câu của gã tới gây gổ với kẻ mới tới và Arnaux dang cánh ra tự bảo vệ và do đó đã để lộ ra những chữ ghi các kỉ lục của mình. Người chủ chuồng chim liền kéo dây sập cửa chuồng lại và ít phút sau Arnaux đã trở thành tù nhân của gã.
Gã bắt trộm dang những cánh bồ câu ra đọc những dòng chữ ghi hết kỉ lục này đến kỉ lục khác rồi lại nhìn cái vòng bạc ở chân con chim mà gã coi quý như vàng. Gã đọc tên con bồ câu và kêu thốt lên:
- Arnaux! Arnaux! Ôi, ta đã nghe nói về mi, anh bạn ạ, và ta thật sung sướng đã bắt được mi!
Gã tháo tờ giấy buộc vào chân con chim và đọc:
- Arnaux rời khỏi Chicago hôm nay lúc 4 giờ sáng. Nó tham gia cuộc bay thi lớn giữa các lứa chim trên hành trình Chicago - New York.
- Sáu trăm dặm trong mười hai giờ! Mi đã phá tất cả các kỉ lục.
Và tên ăn trộm bồ câu thả con chim đang giãy giụa vào trong lồng một cách âu yếm gần như tôn sùng.
- Này, anh bạn, - gã nói thêm, - ta biết mi sẽ chẳng bằng lòng ở lại đây đâu nhưng ta có thể để cho mi tìm được những kẻ thừa kế và nhân giống nòi chim tốt của mi.
Thế là Arnaux bị nhốt trong một ngăn thuận tiện cùng với một số tù nhân khác. Người chủ chuồng chim tuy là một gã kẻ trộm nhưng là một người chơi chim nghiệp dư thành thật. Gã không tiếc kẻ cầm tù của mình một điều gì cả.
Ba tháng ròng rã cứ thế trôi qua. Lúc đầu Arnaux chỉ làm mỗi một việc là đi đi lại lại suốt ngày trong lồng, nhìn quanh trên dưới xem có chỗ nào có thể chui ra được hay không, nhưng sang tháng thứ tư thì nó từ bỏ ý định chạy trốn, và tên cai ngục chu đáo bắt tay vào thực hiện phần thứ hai của chương trình. Gã đem đến cho Arnaux một con bồ câu mái trẻ hay thẹn thò. Nhưng chẳng ăn thua gì cả: Arnaux thậm chí không thèm để mắt tới ả nữa. Gã cai ngục chờ đợi ít hôm rồi mang con bồ câu mái đi, và Arnaux lại bị nhốt riêng một mình cả tháng ròng. Sau đó gã lại đưa đến một con mái mới nhưng cũng chẳng hòa hợp được, và sự việc cứ thế diễn ra suốt cả năm. Arnaux hoặc là hung dữ mổ người đẹp hoặc là tỏ thái độ lãnh đạm khinh thị, và thỉnh thoảng lại thấy nó biểu lộ ý muốn quay trở về nhà một cách mạnh mẽ hơn trước: nó húc vào nan lồng hoặc là bồn chồn đi tới đi lui. Đến mùa kết đôi hằng năm của bồ câu gã cai ngục cẩn thận thu nhặt làm kỉ niệm từng cái lông quý báu rụng ở cánh con Arnaux ra, và khi những cái lông mới mọc lên thì gã lại khéo léo ghi lại lên đó những chiến công hiển hách của Arnaux.
Hai năm trời chậm chạp trôi qua. Gã cai ngục chuyển Arnaux sang một chuồng chim mới và đem cho nó một con mái mới. Tình cờ con này rất giống con vợ thay lòng đổi dạ của nó ở nhà và Arnaux đã chú ý tới ả. Một lần gã coi ngục trông thấy kẻ tù nhân nổi tiếng của mình ve vãn người đẹp, và - đúng thế không cò nghi ngờ gì nữa! - ả đã bắt đầu làm ổ. Sau khi kết luận được qua đó rằng hai con chim đã ăn ở với nhau, gã cai ngục liền mở cửa chuồng lần đầu tiên, và Arnaux đã được tự do. Liệu nó có lần lữa không? Nó có bối rối không? Hoàn toàn không. Không trung vừa được mở rộng trước mắt nó một cái là nó đã hành động theo ý chí, dang rộng đôi cánh có những dòng chữ ghi kì lạ và lao ra khỏi cái ngục tù đáng ghê tởm và bay đi mỗi lúc một xa.
V
Chưa bao giờ có một người nào yêu căn nhà của mình như Arnaux đã yêu cái chuồng chim của nó.
Trở về nhà, trở về nhà, về ngôi nhà thân thiết? Mọi thử thách đau khổ mà nó từng chịu đựng ở nơi chuồng chim quê hương đều được lãng quên hết. Cả những năm tháng ngục tù, cả tình yêu muộn màng, lẫn nỗi sợ hãi cái chết đều không thể lấn át nổi tình yêu quê hương, và giá như Arnaux biết hát thì chắc chắn nó sẽ tất tiếng hát một bài ca hào hùng. Nó bay lên không trung theo những vòng tròn hướng lên trên theo sự chi phối của một ý muốn duy nhất có khả năng khắc phục đôi cánh vinh quang ấy, đó là ý muốn bay coacute; của họ còn thiếu loại chó nào. Những con chó chuyên rượt đuổi có những cái mũi đánh hơi giỏi, những con chó săn chân dài có chân chạy nhanh, lũ chó săn sói và chó nòi Đan Mạch có sức mạnh, nhưng cả lũ chúng đều không đáng giá chút nào vì chỉ có chó Bull-terrier mới có lòng dũng cảm tuyệt đối. Ngày hôm đó các nhà chăn nuôi gia súc đã giải quyết xong xuôi vấn đề săn sói, và điều này các bạn có thể tin chắc một cách dễ dàng nếu các bạn đến thăm Mendoza, bởi vì trong đàn chó săn nào của vùng này bây giờ cũng đều có một con chó Bull-terrier thường thường là nòi chó có dòng máu của giống chó Snap ở Mendoza.
IV
Hôm sau là ngày kỉ niệm ngày Snap đến với tôi. Thời tiết khá trong sáng, có nắng. Tuyết vẫn chưa có. Chúng tôi lại tổ chức đi săn sói. Mọi người đều lấy làm buồn khi thấy Snap không được khỏe. Nó vẫn ngủ như thường lệ ở dưới chân tôi, và đã để dây vết máu ở trên chiếc mền. Dĩ nhiên nó không tham gia vào cuộc vây bắt được. Mọi người đã quyết định ra đi không có nó. Người ta nhốt nó vào kho chứa thóc. Sau đó chúng tôi lên đường, nhưng tôi linh cảm thấy sẽ xảy ra một điều gì đó không hay. Tôi biết rằng không có con chó của tôi thì chắc sẽ thất bại nhưng cũng chưa hình dung được thất bại sẽ to tát như thế nào.
Chúng tôi đã đi một quãng xa, và đang khi len lỏi qua những quả đồi thì đột nhiên thấy một quả bóng trắng nhỏ chạy đuổi theo chúng tôi qua những bụi ngải cứu. Một phút sau thì Snap chạy đến kịp con ngựa của tôi, rồi vừa sủa vừa ve vẩy cái đuôi ngắn ngủn. Tôi không thể bắt nó quay trở về bởi vì nó sẽ chẳng chịu nghe lời. Vết thương của nó có vẻ tồi tệ. Tôi bèn gọi nó và chìa cái roi ngựa ra cho nó cắn để đưa nó lên yên. "Mày sẽ ở nguyên tại đây cho đến lúc quay về nhà." - tôi nghĩ thầm. Nhưng tình hình đã không diễn ra như thế. Hiiton kêu to "atu, atu!" để báo tin cho chúng tôi biết đã trông thấy sói. Dander và Riley, con chó đối thủ của nó, cả hai đều lao lên trước nhưng đã va vào nhau và ngã sóng soài. Trong lúc đó con Snap chăm chú nhìn và đã tinh mắt nhìn thấy con sói, và tôi chưa kịp ngoảnh nhìn thì loáng một cái nó đã nhảy phóc từ trên yên ngựa xuống rồi chạy theo đường zíc-zắc, lúc nhô lên, lúc tụt xuống, qua đám ngải cứu, thẳng về phía kẻ thù. Vài phút sau nó đã dẫn cả đàn chó chạy theo sau nó rồi. Dĩ nhiên là nó dẫn đầu không lâu. Những con chó săn chân dài to lớn đã trông thấy cái chấm di động, và một chuỗi dài những con chó lập tức trải ra trên bình nguyên. Cuộc vây bắt hi vọng sẽ lí thú bởi vì con sói chẳng còn xa lắm và đàn chó thì đang dốc hết sức đuổi.
- Chúng vòng về kho Gấu kìa! - Garvin kêu to. - Theo tôi! Chúng ta có thể đón đầu nó!
Và chúng tôi cũng vòng ngựa lại phóng nhanh theo sườn đồi phía bắc trong lúc cuộc rượt đuổi rõ ràng là đang diễn ra trên sườn đồi phía nam.
Chúng tôi đã lên đến đỉnh đồi và sắp sửa phóng xuống thì Hilton kêu to:
- Nó đây rồi! Ta đã chặn đúng đầu nó.
Hilton nhảy xuống khỏi ngựa, quẳng dây cương và chạy thẳng lên phía trước. Tôi cũng làm theo anh. Một con sói lớn vừa chạy vừa quay nhìn về phía sau đang lao thẳng đến chỗ chúng tôi. Đầu nó cúi thấp, đuôi duỗi thẳng, và ở đằng sau cách nó năm chục bước là con chó Dander đang chạy với vận tốc lớn gấp đôi con sói. Một phút sau con chó săn chân dài đã đuổi kịp con sói và nhe răng ra, nhưng khi con sói vừa quay đầu lại một cái là con chó lùi ngay lại. Lúc này chúng nó ở ngay gần sát chúng tôi, không quá năm chục foot. Garvin rút khẩu súng lục ra nhưng tiếc thay Hilton đã ngăn lại:
- Đừng, đừng! Để xem sao đã.
Khoảnh khắc sau một con chó săn chân dài thứ hai, rồi lần lượt cả lũ chó đều đuổi tới. Con nào cũng phóng như bay, hừng hực sự hung dữ và khát máu, sẵn sàng xé tan xác con thú xám thành từng mảnh. Nhưng con nào cũng lần lượt lùi lại và đứng cách một quãng an toàn mà sủa. Hai phút sau lũ chó săn sói cũng đến kịp, chúng là những con chó khả ái, đẹp đẽ. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi chúng sắp tới gần là muốn lao thẳng vào con sói già. Nhưng cái vẻ không chút sợ sệt của con sói cùng với bộ ngực nở nang và hàm răng khốc liệt của nó đã khiến cho chúng khiếp sợ từ trước khi gặp nó lâu rồi, và chúng cũng xúm lại với đám chó đứng bao quanh, trong khi tên tướng cướp xám thì cứ lúc quay sang phía này lúc lại quay sang phía khác trong tư thế sẵn sàng đánh nhau với từng con chó hoặc với cả đàn chó một lúc cũng được.
Đến lượt những con sao mãi, cao mãi, cuốn hút bởi tình yêu quê hương, tình yêu ngôi nhà tin cậy duy nhất của nó và người bạn đời thay lòng đổi dạ của nó. Nhắm mắt lại như người ta thường nói, bịt tai lại như người ta thường khẳng định, và chẳng đòi hỏi gì nữa như chúng ta thường nghĩ, nó cứ bay trên bầu trời xanh và hoàn toàn tuân theo kẻ điều khiển bí mật của mình là cảm giác phương hướng.
Arnaux bay nhanh như tên về hướng đông nam. Arnaux từ giã tên ăn cướp chim ở Syracuse vĩnh viễn.
Phía dưới kia, một con tàu tốc hành đang lao nhanh trên bình nguyên. Con tàu chạy khá xa ở đằng trước nhưng Arnaux đã đuổi kịp và vượt nó, chẳng khác gì một con ngỗng trời vào mùa hè bay vượt một con chuột xạ. Nó bay cao hơn những ngọn đồi, thấp hơn dãy núi Chenango, nơi có những cây thông đang rì rào với gió, và cứ thế bay đi mỗi lúc một xa.
Một con diều hâu vừa rời khỏi tổ trên một cây sồi đã trông thấy con bồ câu và nhằm nó định bắt làm mồi ăn. Arnaux không hề rẽ phải hoặc rẽ trái, cũng không dâng lên cao hay hạ xuống thấp mà cứ hạ cánh đều đều. Con diều hâu chờ đợi. Nhưng Arnaux đã bay ngang qua như một con hươu đang hồi sung sức chạy thoát khỏi ổ phục kích của con gấu vậy! Trở về nhà, trở về nhà!
Phần phật, phần phật! Đôi cánh lấp lóa thấp thoáng trên con đường bây giờ đã quen thuộc. Một giờ sau nó đã trông thấy những ngọn đồi quen cũ. Hồi đó đã bay trên những ngọn đồi ấy. Những nơi chốn thân thiết đang lướt nhanh ngược lại gặp nó đã tiếp thêm cho nó sức mạnh mới. Về nhà, về nhà! Con tim nó chẳng cất lên lời ca nào khác. Đôi mắt cực sáng của nó nhìn đăm đăm một cách hi vọng vào làn khói xa xăm của đảo Manhattan chẳng khác nào một khách bộ hành sắp chết khát nhìn thấy những ngọn cây cọ thấp thoáng phía xa xa.
Một con chim ưng chuyên bắt bồ câu bay từ sườn núi ra. Là con chim nhanh nhất trong số các ác điểu, kiêu hãnh về sức mạnh, về đôi cánh, nó sung sướng thấy con mồi xứng đáng. Đã có không ít bồ câu sa vào tổ nó, và giờ đây nó đang hướng theo gió, lượn lờ và giữ sức chờ đợi thời cơ thích hợp. Ôi nó lựa chọn thời cơ ấy mới chính xác làm sao! Nó lao xuống phía dưới như một mũi tên. Không một con diều hâu, một con ngỗng trời có thể thoát khỏi tay nó vì nó là một gã chim ưng.
Hãy bay ngược trở lại đi, bồ câu! Ôi, bồ câu, hãy chạy trốn đi, hãy lánh xa những ngọn đồi nguy hiểm đi!
Con bồ câu liệu có quay trở lại hay không? Không, bởi vì đó là Arnaux. Trở về nhà, trở về nhà, về nhà! Nó không hề nghĩ đến điều nào khác nữa. Để thoát khỏi con chim ưng nó chỉ bay nhanh hơn lên mà thôi. Gã chim ưng lao vút xuống - nó lao vào cái chấm đang lấp lóa đó - và đã quay trở lại chẳng bắt được gì. Trong khi đó Arnaux đã xé gió bên trên ngọn đồi vút đi như một viên đá bay ra khỏi chiếc máy bắn đá cổ xưa; thoạt đầu còn trông rõ là một con chim trắng, rồi sau là một vệt nhỏ lấp loáng và tiếp theo đó chỉ còn là một chấm mất hút trong bầu trời… Xa xa, dọc theo ngọn đồi thân thương của Hudson đã là con đường lớn quen thuộc với nó rồi… Đã hai năm rồi đó mới lại trông thấy con đường lớn đó. Bây giờ nó đã bay xuống thấp hơn. Một cơn gió nhẹ thổi từ hướng bắc về làm mặt nước của con sông phía bên dưới nó lăn tăn gợn sóng. Về nhà, về nhà, về nhà! Cần phải bay thấp bởi vì gió đã nổi lên rồi.
Bay thấp! Than ôi, nó đã bay quá thấp! Con quỷ dữ nào đã xui khiến một gã đi săn vào hồi tháng sáu nấp ở đỉnh ngọn đồi ấy thế? Vì lẽ gì mà ma quỷ lại chỉ cho gã ta cái chấm trắng đang chấp chới trên nền trời xanh ngược về hướng bắc? Ôi, Arnaux, Arnaux, xin đừng có quên cây súng săn khi mày bay thấp đến thế. Mày đã bay quá thấp, quá thấp nơi ngọn đồi ấy. Quá thấp.
Ánh lửa lóe lên, một tiếng nổ đoàng! - Và một viên đạn chết người đã bắn trúng Arnaux; bắn trúng, làm bị thương nhưng không bắn rơi được nó. Từ đôi cánh chấp chới những chiếc lông có ghi chữ rụng xuống, rớt từ từ xuống mặt đất. "Con số không" của cái kỉ lục trên biển khơi của nó bị mất. Bây giờ kỉ lục đó không phải là 210 mà chỉ còn là 21 dặm mà thôi. Ôi, thật là một vụ ăn cướp nhơ nhuốc! Lồng ngực bị một vết thương đỏ lòm nhưng Arnaux không chịu lui bước. Về nhà, về nhà! Mối nguy hiểm đã lùi lại phía sau. Về nhà, chỉ trở về nhà thôi, vẫn cứ bay chẳng đường như lúc trước.
Nhưng vận tốc kì diệu bây giờ đã giảm sút rồi: một phút nó chỉ bay được có không đến một dặm đường và gió lại dâng lên những tiếng ồn ào không quen thuộc trong đôi cánh bị thương. Vết thương ở lồng ngực khiến cho sức lực suy sụp, nhưng Arnaux vẫn cứ bay về phía trước. Căn nhà, nó đã trông thấy căn nhà từ xa và quên cả c
  • Chương III
  • Chương IV
  • Chương V
  • Chương VI
  • Chương VII
  • PHẦN II: CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH
    Chương VIII
  • PHẦN III -THỬ THÁCH VÀ THẮNG LỢI
  • I -CON NGỰA HOANG
  • THEO VẾT CHÂN HƯƠU
  • BINGO
  • LOBO
  • WULLY
  • CHẤM BẠC
  • CỔ ĐỎ
  • CUỘC ĐỜI CON GẤU XÁM
  • CUỘC ĐỜI CON GẤU XÁM (3)
  • CUỘC ĐỜI CON GẤU XÁM (4)
  • CON SÓI WINNIPEG
  • CON MÈO HOÀNG GIA ANALOSTAN
  • CON MÈO HOÀNG GIA ANALOSTAN (tt)
  • CUỘC ĐỜI THỨ BA
  • CUỘC ĐỜI THỨ TƯ
  • CHÚ BÉ VÀ CON MÈO RỪNG
  • SNAP
    (CHUYỆN MỘT CON CHÓ BULL-TERRIER)
  • NGỰA CHIẾN NHỎ JACK
    (Truyện một con thỏ)
  • n đau nơi lồng ngực. Những cái tháp chuông cao của thành phố đã hiện rõ trước cặp mắt nhìn được xa của nó trong khi nó xẹt qua gần ghềnh đá Jersey. Tiến lên, tiến lên! Cánh có thể yếu đi và mắt có thể mờ đi nhưng tình yêu quê hương thì cứ mỗi lúc một tăng.
    Nó đã bay dọc theo những ngọn đồi cao, tránh được hướng gió thổi, bay phía trên làn nước lấp loáng, trên những ngọn cây và bên dưới tổ con chim ưng chuyên bắt bồ câu, cái dinh luỹ kẻ cướp xây trên một mỏm đá, nơi có những con ác điểu hung dữ đang đậu. Chúng dõi nhìn một cách tinh tường như những tên kẻ cướp bị bịt mặt nạ đen và đã nhận ra con bồ câu đang bay lại gần, Arnaux đã biết rõ chúng từ lâu. Nhiều bức thư không gửi được tới nơi đã đến trú ngụ tại cái tổ chim ưng này, nhiều chiếc lông chim có ghi các kỉ lục đã run rẩy rơi từ tổ này xuống đất. Nhưng Arnaux đã từng nhiều lần tranh đua với chúng và bây giờ nó cứ tiếp tục bay theo đường của mình - tiến về phía trước, về phía trước thật nhanh, nhưng dù sao cũng không thể nhanh như trước đây được nữa. Khẩu súng giết người đã làm hao tổn sức lực của nó, đã làm giảm vận tốc của nó. Tiến lên, tiến lên! Lũ chim ưng chứ đúng thời cơ đã lao ra như hai mũi tên. Chúng đã vồ được con bồ câu sức tàn lực kiệt bé nhỏ.
    Mô tả lại cuộc săn đuổi làm gì kia chứ? Phác họa lại nỗi thất vọng của một trái tim nhỏ nhoi dũng cảm làm gì kia chứ? Nó đã nhìn thấy căn nhà của nó rồi mà… Trong phút chốc mọi cái đều kết thúc. Lũ ác điểu bắt bồ câu cất tiếng kêu khàn khàn đắc thắng và đậu trên mỏm đá của chúng, giữ chặt cái xác bồ câu trong móng sắc của chúng - đó là tất cả những gì còn lại của con Arnaux bé nhỏ gan dạ.
    Tại đó, nơi mỏm đá, mỏ và móng vuốt của những tên kẻ cướp đã nhuốm đầy máu vị anh hùng. Đôi cánh không gì so sánh nổi đã bị nhổ thành một đám lông, và những hàng chữ ghi trên cánh bị rải tung trên đá. Chúng cứ nằm phơi nắng tại đó cho đến lúc những tên giết người bị hạ sát và dinh lũy của chúng bị san bằng.
    Và số phận của con chim không gì sánh nổi có lẽ sẽ vẫn biệt vô âm tín nếu như người ta không ngẫu nhiên tìm thấy trong đống đồ thải bỏ và rác rưởi của cái tổ cướp đó một chiếc vòng bạc - tấm huy chương thiêng liêng của con bồ câu đưa thư hạng nhất, trên đó nổi bật hàng chữ mang nhiều ý nghĩa:
    ARNAUX, 2590C.