Chương 8

PHẦN IV
CỤC DIỆN THAY ĐỔI
Chương 30
NGƯỜI BẠN

    
òa thượng Thích Trí Bình và những chiến hữu của ông ta càng ngày càng trở nên táo bạo hơn nhất là khi ngày càng có nhiều sinh viên các trường Đại học rồi đến học sinh ở các trường Trung học tham gia vào các cuộc biểu tình do họ tổ chức. (Nhờ có những điều chỉ bảo cần thiết của Lily về giới học sinh, sinh viên tại Sài Gòn mà D. Marnin đã biết được là phần lớn những phần tử cực đoan trong giới sinh viên đến từ khoa Dược của Đại học Sài Gòn) Theo sự chỉ đạo trực tiếp từ Tổng thống John F. Kennedy, trong ba tuần cuối cùng ở Sài Gòn, Đại sứ Gus Corning đã hết sức nỗ lực để thuyết phục Diệm, Nhu và những thành viên chủ chốt trong Chính phủ rằng cuộc khủng hoảng đang ngày một phức tạp hơn nên họ cần nhanh chóng hòa giải với các nhà lãnh đạo Phật giáo. Thế nhưng với tất cả những gì mà D. Marnin được chứng kiến thì mỗi khi hai bên đạt được một thỏa thuận nào đó thì hoặc là các phần tử quá khích trong cánh Phật giáo hoặc từ phía Chính quyền Ngô Đình Diệm lại cố tình phá hỏng nó. Phía các nhà lãnh đạo Phật giáo đã bắt đầu thấy xuất hiện các quan điểm đấu tranh bằng máu, đây là một điều đặc biệt khác thường kể từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra ở Huế. Dường như phía chống đối đã nhận thấy rằng họ không thể tin vào những lời hứa và xu hướng cực đoan độc tài đang ngày một tăng trong chủ trương và đường lối của phía Chính phủ.
Ngày 31 tháng 7, các Phật tử đã đồng loạt tổ chức biểu tình phản đối ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang và Đà Lạt. Trong các cuộc biểu tình phản đối này, lần đầu tiên những nhà lãnh đạo phe chống đối công khai nói đến việc lật đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm. Đến buổi chiều ngày 04 tháng 8, D. Marnin nhận được điện thoại từ ngài Stu Markoff đề nghị anh nhận giúp thông tin nói rằng buổi trưa hôm đó, Đại đức nguyên hương Huỳnh Văn Lễ đã tự thiêu trước dinh tỉnh trưởng Bình Thuận ở thành phố Phan Thiết. Do ông Bilder đang ở nhà để nghiên cứu tình trạng hiện tại ở Sài Gòn thông qua các báo cáo chính tri của ngài Sabo nên sau đó D. Marnin đã phải lái xe đến tận nhà ông ta để thông báo tin này. Ông Bilder đón nhận tin này với vẻ cau có một cách kỳ lạ.
Ngay ngày hôm sau, lại một lỗi chơi chữ ngoài ý muốn nữa gây ra những trận cười châm biếm ở bên trong Đại sứ quán khi mà chẳng hiểu sao trong thông cáo từ phía Bộ Ngoại giao Mỹ gửi đến người ta lại gọi vụ tự thiêu thứ hai này là do hai vợ chồng ông Nhu “khiêu khích nên”. Vậy mà cũng trong bức điện này người ta lại nhắc nhở Đại sứ quán rằng “tất cả những sự kiện này đã cho chúng ta cơ sở để hy vọng rằng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thực sự quan tâm đến việc thực thi các chính sách hòa giải như ông Diệm đã hứa”
Hai ngày sau đó, ngày 7 tháng 8, Cố vấn Ngô Đình Nhu đã gửi tới Đại sứ Pháp, ông Lalouette lời bảo đảm vô điều kiện rằng ông ta hoàn toàn ủng hộ “bằng cả hai tay” những chính sách hòa giải mà ông Diệm đã công bố với phái Phật giáo chống đối. Ông ta nói rằng tình trạng hiện nay rất nguy hại cho tiến trình chính trị ở Nam Việt Nam bởi vì rất nhiều người trong đó có cả những binh sĩ và tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu cảm thấy rằng Chính phủ đang bị rơi vào thế yếu nên họ đã quay sang ủng hộ cho phong trào chống đối, một phong trào đang phá tan mọi nỗ lực giành chiến thắng và hành động đó có thể coi là ngầm giúp đỡ Việt cộng trong cuộc chiến tranh này.
Khi Đại sứ Lalouette chỉ trích bài phát biểu của Trần Lệ Xuân gửi tới Phong trào Phụ nữ liên đới mà trong đó bà ta đã kêu gọi các thành viên của phong trào này không nên quan tâm đến những nhà sư chỉ muốn tự nướng thịt mình, ông Nhu trả lời rằng không một ai biết rằng vợ ông ta chưa từng nhìn mặt ông Diệm trong suốt hai tháng qua và chính ông ta cùng gia đình mình chưa hề ăn một bữa nào cùng ông Diệm trong một thời gian dài ngoại trừ vài dịp đặc biệt, và rằng bà ta cũng chỉ là một công dân bình thường nên bà ta có quyền phát biểu quan điểm cá nhân của mình...
Nhằm đáp lại lòi buộc tội với Chính phủ Việt Nam Cộng hòa từ phía Bộ Ngoại giao Mỹ, ngày 8 tháng 8, tờ “Thời báo” của Nam Việt Nam đã cho đăng tải một bài phản bác của Trần Lệ Xuân trong đó bà ta cáo buộc là “những nhà sư đã tự nướng thịt mình bằng xăng nhập khẩu”. Bà ta nói rằng, các nhà lãnh đạo phong trào Phật giáo phản kháng không phải là những lãnh tụ tôn giáo và cũng không phải là những người đại diện cho nhân dân Việt Nam. Chiến thuật này của họ rõ ràng là đã tạo được hiệu quả nhất định. Nhưng đại đa số người Mỹ không quá ngu để tin vào điều đó.
Ngày hôm sau, ngài Bilder đã lên án hành động này của bà Ngô Đình Nhu thông qua việc gửi một công hàm và kèm theo tựa đề của bài báo đó cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa. Trong thông cáo trả lời của Nhóm hợp tác hai bên gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ được viết như sau: “Trần Lệ Xuân đã vượt quá mọi tầm kiểm soát của tất cả mọi người từ cha đẻ, mẹ đẻ, chồng và cả anh rể nữa. Trong khi ấy, phía Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng đã hoàn toàn ủng hộ quan điểm của ông Diệm cũng như ông Nhu là quyết tâm theo đuổi chính sách hòa giải và công bố kết quả điều tra về tất cả các lời cáo buộc cũng như để ngỏ khả năng tổ chức nhóm điểu tra chung - đây được xem như biện pháp giành lại uy tín của Chính phủ trước người dân”.
Gần một tuần nay, D. Marnin không được gặp Lily. Tối hôm đó, cô cũng không còn tâm trí đâu để xoa dịu anh khi anh xuất hiện tại nhà cô. Những gì cô nghĩ còn vượt xa mọi ngạc nhiên của anh bởi vì từ trước đến nay cô vẫn không tiếc lời phê phán Trần Lệ Xuân, còn lần này cô lại kịch liệt công kích cách nhìn nhận rất thiển cận của người Mỹ về vấn đề tín ngưỡng khi họ công khai ủng hộ cách đấu tranh của những nhà lãnh đạo phong trào Phật giáo mang tư tưởng quá khích. Theo cô, mục đích của những người này không phải là bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng đơn thuần mà quan trọng hơn là họ muốn lật đổ chế độ của gia đình họ Ngô - một mục đích trùng với mục đích của những chính trị gia, tướng lĩnh bất tài nhưng nhiều tham vọng ở Sài Gòn.
- Người Mỹ các anh thật không thể tin được. Và các anh cũng tồi tệ chẳng kém gì những kẻ quá khích ấy. - cô nói với Marnin.
- Chính bà Nhu mói là người không thể tin được - D. Marnin trả lời.
Lily cũng rất buồn khi thấy D. Marnin thất vọng vì giữa hai người không có cách nhìn nhận giống nhau về những gì đang diễn ra xung quanh họ. D. Marnin phải liên tục nói với cô nên gạt bỏ vấn đề chính trị ra khỏi câu chuyện giữa hai người và cô cũng phải miễn cưỡng chấp nhận bởi vì bản thân cô cũng giống như anh đang rất sốt ruột chờ đợi những gì sẽ đến với họ trên chiếc giường ngủ. Ngay sau đó, giống như tất cả những gì mà cả hai đang mong đợi, họ lao vào vòng tay của nhau và làm tình liên tục như thể chỉ có họ là những người duy nhất biết được những gì mà thần ái tình đã gieo xuống cho cả nhân loại.
Ngày hôm sau, 11 tháng 8, những đồng nghiệp của D. Marnin đều cảm thấy thất vọng khi phát hiện ra rằng tờ New York Times vừa mới cho đăng tải thêm hai bài báo nữa về vấn đề liên quan. Bài thứ nhất là của phóng viên Willis Mandelbrot ở Sài Gòn mang tựa đề: “Bà Nhu tố cáo rằng Hoa Kỳ đang tống tiền Việt Nam”. Còn bài thứ hai là của phóng viên Tad Szulc ở Washington lại đăng tin một vài quan chức cao cấp trong Chính phủ Kennedy lo ngại rằng chỉ trừ khi Ngô Đình Diệm thỏa thuận được các vấn đề mà nhóm Phật giáo chống đối yêu cầu thì ông ta mới có thể sống sót.
Những nhà lãnh đạo Phật giáo ngay lập tức có thêm hành động tạo áp lực nữa. Hai ngày sau, ngày 13 tháng 8 trong một ngôi làng nhỏ ở ngoại ô thành phố Huế, nhà sư thứ ba tiếp tục tự thiêu để phản đối sự đàn áp từ phía Chính quyền Ngô Đình Diệm. Vụ tự thiêu này lại dấy lên một phong trào biểu tình phản đối nữa ở Sài Gòn khi hơn năm nghìn người - trong đó phần đông là các học sinh, sinh viên đã kéo nhau tới bày tỏ lòng tiếc thương với người tử vì đạo tại chùa Xá Lợi. D. Marnin đã đi theo đoàn biểu tình này và thấy rằng những người biểu tình rất hăng hái tham gia giống y như một cuộc tuần hành trước giải bóng lớn của các trường Trung học ở Mỹ. Chỉ có điều không có những người cầm trịch để kích thích sự cổ vũ cho các đội chơi.
Vì quá bối rối mà chẳng ai có thể dự đoán được sự kiện đầu tiên trong chuỗi những sự kiện như vậy, tâm trạng của tất cả mọi người trong Đại sứ quán đều bắt đầu thay đổi ngay cả những người vẫn được cho là ủng hộ Ngô Đình Diệm mạnh mẽ nhất như ngài Sabo cũng không thể làm gì để đối phó với tất cả những hậu quả mà cuộc khủng hoảng đang gây ra ở khắp mọi noi. Tình hình chính trị đang lúc rối ren thì những tin tức tồi tệ về những trận đánh ở vùng tạm chiếm lại được khuấy động trên tất cả các báo chí của Mỹ. Phóng viên Mandelbrot đã mở đầu bằng một bài trên tờ báo Times mang tựa đề “Việt Cộng đang giành lại phần lớn các khu vực chiến lược”. Trong loạt bài này, anh ta đã quả quyết rằng những thất bại liên tiếp vừa xảy ra trong thời gian vừa qua đã làm cho tình hình chiến sự ở vùng Đồng Tháp Mười và quân Chính phủ roi vào tình trạng điêu đứng bất chấp những nỗ lực vô cùng tốn kém mà người Mỹ đang phải bỏ ra ở Nam Việt Nam. Theo các nguồn tin từ lực lượng Quân đội Mỹ, Việt Cộng với nhiều đơn vị thiện chiến với khoảiig từ 600 đến 1.000 quân được trang bị đầy đủ đang mở rộng các cuộc tấn công nhằm vào lực lượng chính quy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên tất cả các chiến trường trọng điểm.
D. Marnin nghi ngờ rằng những thông tin trên của Billy còn có vẻ trung thực hơn nhiều lần so với những gì mà Đại sứ quán hay Tổng lãnh sự quán ở Cần Thơ sẵn sàng thừa nhận bởi vì thông qua Lily anh đã được biết rằng những trận đánh và những cái tên như vậy vẫn thường được các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa kể cho nhau nghe trong những cuộc chè chén say sưa. Lẽ dĩ nhiên Tổng thống Kennedy cũng đã đọc bài báo này và nó đã cung cấp cho ông ta những tư liệu ngược lại hoàn toàn với tất cả những gì mà ông ta vẫn biết qua các báo cáo của Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân về tình hình chiến sự. Khi được Hội đồng An ninh Quốc gia yêu cầu cung cấp các thông tin phản hồi, tướng Donnelly đã báo cáo rằng: “Trong bài báo nói về tình hình chiến sự ở khu vực Đồng Tháp Mười, phóng viên đã đưa ra sự việc một cách thiếu hiểu biết về toàn bộ chiến lược của chúng ta cũng như cục diện chiến sự ở đây. Ngay từ đầu, chúng ta đã thực hiện rất hoàn hảo kế hoạch giành thế chủ động và loại bỏ lực lượng đối phương từ phía Bắc xuống phía Nam, đẩy quân Việt cộng ra khỏi những địa bàn chiến lược của họ, ép họ phải rút về những khu vực xa xôi nhất ở khu vực cực Nam của bán đảo. Chiến lược này đang rất thành công. Quân đoàn I hoàn toàn trong sạch, Quân đoàn II cũng không kém hơn thế; Quân đoàn III còn hoạt động mạnh hơn nhiều; Quân đoàn IV vẫn đảm bảo khả năng tác chiến ở mức độ cao nhất. Như tướng Cao, Tư lệnh Quân đoàn IV tuyên bố hồi tháng 6 “Chúng tôi muốn tận mắt chứng kiến tất cả du kích quân Việt cộng phải co cụm lại ở bán đảo Cà Mau và rồi chúng tôi sẽ để cho chúng mục nát và tan rã ở vùng đất ấy”. Nếu như Mandelbrot hiểu được chiến lược này, anh ta đã có thể không viết ra một bài báo thiếu trung thực đến như vậy...” Thế nhưng những điều tồi tệ cho tướng Donnelly và toàn bộ lực lượng quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam vẫn tiếp tục diễn ra và cánh báo chí cũng không bỏ sót một dịp nào để công khai chúng cho người dân Mỹ. D. Marnin vẫn phải làm việc hơn 15 giờ mỗi ngày tại Đại sứ quán hòng nỗ lực theo sát và báo cáo kịp thời về Washington tất cả những gì đang diễn ra xung quanh cuộc khủng hoảng Phật giáo. Tuy nhiên, anh không thể biết hay cũng không thể dự báo được rằng vào ngày 15 tháng 8, ni cô Diệu Quang tự thiêu trước chùa Ninh Phước tại thị trấn Ninh Hòa ở Nha Trang. Ngay hôm sau, 16 tháng 8, vị Hòa thượng đứng đầu các vị sư đang nghiên cứu về vấn đề Phật học ở Nhật Bản xác nhận rằng một vụ tự thiêu nữa để phản đối Chính quyền Diệm sẽ được thực hiện ở chùa Từ Đàm, Huế. Sự kiện này đã được cảnh báo trước nên lực lượng cảnh sát đã được điều động tới đó, nhưng họ cũng chỉ còn cách đứng nhìn vị Hòa thượng già đổ hết một can xăng lên người từ đầu xuống chân rồi tự châm lửa thiêu sống bản thân mình. Rõ ràng tình hình chính trị đã không còn kiểm soát được nữa. Ba hôm sau vào ngày Chủ Nhật 18 tháng 8, có khoảng 15 đến hơn 20 ngàn người tập trung ở chùa Xá Lợi cũng như ở những đường phố xung quanh đấy để nghe các lãnh đạo phong trào Phật giáo diễn thuyết kêu gọi chống lại Chính phủ. Những khẩu hiệu rất lớn có nội dung kêu gọi lật đổ Chính quyền phát-xít của Ngô Đình Diệm đã được căng lên. Trong bài phát biểu của mình, lần đầu tiên Hòa thượng Thích Trí Bình đã nói bóng gió tới giải pháp chính trị tối ưu nhất vào lúc này là trung lập hóa Chính phủ hiện thời. Theo những điều luật của Việt Nam Cộng hòa, việc ủng hộ quan điểm trung dung cũng được xem như một sự nổi loạn. Xem ra các vị Hòa thượng đã có đủ can đảm để thách thức Chính quyền Ngô Đình Diệm hoặc là phải có những hành động mạnh tay hơn với họ hoặc là phải chấp nhận mọi điều kiện của họ.
Với tư cách là chuyên gia đặc trách các vấn đề liên quan đến cuộc khủng hoảng Phật giáo thuộc Phòng chính trị của Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, D. Marnin bị kẹt giữa vô vàn những công việc - một nhiệm vụ vẫn được con là hết sức khó khăn cho những nhân viên trẻ tuổi như anh. Những gì đang diễn ra ở Việt Nam luôn là đề tài lấn lướt tất cả các sự việc khác không chỉ trên diễn đàn báo chí mà còn ngay cả trên bàn làm việc mỗi ngày của Tổng thống Hoa Kỳ. Con số các phóng viên Mỹ được cử tới Sài Gòn đã nhiều gấp năm lần so với lúc đầu tiên. Có tới hơn một trăm phóng viên đã đăng ký tại Cơ quan thông tin Mỹ tại Sài Gòn. Đa số bọn họ đặt chân đến đây mà không hề biết tì gì về việc Phật giáo đã được truyền bá và đã phát triển ở Việt Nam như thế nào. Chính vì thế, họ muốn D. Marnin bổ sung cho họ những hiểu biết đơn giản nhất (Đúng như ngạn ngữ có câu “Thằng chột làm vua xứ mù”) và kể cho họ về toàn bộ diễn biến cuộc khủng hoảng - kể từ vụ nổ ở trước Đài phát thanh ở Huế cho đến lúc gần như không thể đung hòa quan điểm giữa các Hòa thượng với Chính quyền Ngô Đình Diệm mà ai cũng hiểu là sắp có một chuyện động trời nữa chuẩn bị diễn ra.
Trong Đại sứ quán Mỹ, việc D. Marnin đảm nhận cương vị “chuyên viên đặc trách các vấn đề Phật giáo” đã giúp cho công việc ở đây được thuận lợi hơn rất nhiều. Đại sứ quán lớn thứ hai ở Sài Gòn chính là Đại sứ quán Pháp, nhưng họ cũng chỉ có số nhân viên bằng một phần năm so với Đại sứ quán Mỹ và không có cơ quan phụ trách các hoạt động quân sự với một lực lượng khoảng hơn mười sáu ngàn cố vấn quân sự như của Mỹ (trên thực tế, Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ thừa nhận là có hơn hai ngàn cố vấn Mỹ ở đây mà thôi). Chính vì vậy, D. Marnin đã trở thành một người chủ đạo trong vấn đề Phật giáo của Phái bộ Mỹ với ngót nghét gần hai mươi nghìn người mà phân nửa trong số đó mỗi ngày đều phải có trách nhiệm viết ít nhất một báo cáo về mối quan hệ giữa họ với các đối tác người bản địa để gửi về Đại sứ quán Mỹ.
Thế nhưng anh lại càng thất vọng hơn bởi lẽ dẫu cho anh có nỗ lực đến bao nhiêu để diễn giải toàn bộ cái nguyên nhân sâu xa của phong trào chống đối của những Phật tử ở đây cho Chính phủ Mỹ thì dường như có một áp lực nào đó lớn hơn nhiều lần xuất phát từ chính Washington khiến cho những báo cáo của anh chẳng thể tạo nên một sự biến đổi nào. Kể cả những tư tưởng dân tộc của người Việt cũng như phong trào tự thiêu của các sư sãi cũng vậy. Trong suốt hai nghìn năm qua, tư tưởng Khổng giáo đã hình thành và để lại trong mỗi con người ở đây kể cả cá nhân Ngô Đình Diệm những ảnh hưởng sâu sắc khó có thể gột rửa đi được trong một sớm một chiều. Điều này cũng đã được các nhà nhân loại học ở Mỹ phát hiện ra từ rất lâu rồi giống như ảnh hưởng của người Trung Quốc hay các nhân tố ngoại lai khác (trong trường hợp này thì đạo Thiên Chúa có thể coi như một nhân tô ngoại lai). Thế nhưng cũng theo các kết quả nghiên cứu ấy thì Phật giáo (mặc dù được du nhập vào Việt Nam theo hai đường từ Trung Quốc và từ Ấn Độ vẫn mang đậm màu sắc của Khổng giáo) đã bị biến đổi rất nhiều theo phong tục của người Việt bản địa. Sau này, những chính sách của Mỹ đều được hình thành từ thực tế là Chính phủ Mỹ cần phải cạo sạch những gì là ngoại lai trong ý thức hệ và tư tưởng như của Ngô Đình Diệm, những thứ đã được cho là bị vấy bẩn từ trong quá khứ và ủng hộ mạnh mẽ cho những tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc của người Việt - một trào lưu mới trong tương lai.
Trong lúc ấy, cả ông Diệm và ông Nhu đều đang rất lo lắng đến mức tuyệt vọng về cái trào lưu tư tưởng mới này, bởi lẽ không sớm thì muộn nó sẽ nhận được sự bù đắp cần thiết qua việc điều chỉnh chính sách của Washington. Tất cả những người Mỹ mà anh em nhà Ngô Đình nghĩ rằng có thể tạo ấn tượng được thì họ không bao giờ bỏ qua trong đó có cả Marnin. Lần này họ để cho Đinh Triệu Dã thực hiện cái mục tiêu ấy. Dĩ nhiên là D. Marnin đã biết về Dã trong những chuyến viếng thăm của Đại sứ Corning khi trước. Anh ta là một người có trí nhớ tuyệt vời, một thư ký ghi biên bản ngồi ở bên kia bàn nhưng chẳng bao giờ phải cầm bút viết lấy một chữ nào hết.
Thời gian đầu, D. Marnin nghi ngờ rằng trong căn phòng của ông Diệm có gắn những máy ghi âm vì thế Dã có thể nghe lại những cuộc nói chuyện ấy và dùng nó để ghi vào biên bản. Thế nhưng về sau khi có dịp thảo luận với Dã về những cuộc nói chuyện giữa ngài Corning và ông Diệm, anh mới thật sự tin rằng Dã có thể nhắc lại một cách chính xác những gì mà ông Diệm hay ngài Corning đã nói trong bất kỳ cuộc gặp gỡ nào giữa hai người. Là một thành viên ưu tú nhất trong thế hệ kế tiếp của gia đình, ngay khi vừa nhận được học bổng nghiên cứu sinh cho bằng tiến sĩ của mình, Đinh Triệu Dã đã được gọi về Sài Gòn để giúp đỡ Tổng thống (ông Diệm là bác hai của Dã còn người bác cả là Ngô Đình Khôi đã bị xử tử vì tội theo quân Pháp đàn áp người Việt). Điều này đã khiến cho anh ta phải từ bỏ niềm đam mê nghiên cứu về vật lý lý thuyết tại trường Đại học CalTech. Anh không thể từ chối mệnh lệnh của người đứng đầu dòng họ (ông Ngô Đình Thục chứ không phải là ông Diệm đã gọi anh về). Gia tộc dòng họ anh đã có sáu thế hệ kế tiếp nhau phục vụ cho Triều đình và bây giờ đến lượt anh phải làm việc đó.
Dã sống rất ẩn dật trên tầng thượng của một ngôi nhà nằm trên đường Tự Do cùng với bà mẹ già nua ốm yếu và người chị gái không có chồng tên là Minh làm nhân viên lưu trữ ở Thư viện Sài Gòn. Khi anh ta bất ngờ mời D. Marnin tới ăn cơm với gia đình vào buổi sáng thứ Bảy, D. Marnin hiểu rằng có một điều gì đó bất thường đang xảy ra. Kể từ hôm ngài Corning tới chia tay ông Diệm cho tới nay đã được gần một tháng hai người không hề gặp nhau lần nào.
Chiều hôm ấy, khi D. Marnin đến nơi thì thư ký Dã đang đứng ở đầu cầu thang đợi anh. Trong sân có hai cây đại rất to và mùi hương hoa đại sực nức khắp mọi nơi.
- Lối vào hơi tối đấy - Dã nói với anh - anh có thể sẽ không nhìn thấy bậc cầu thang đâu nên cẩn thận một chút nhé.
Khi dẫn D. Marnin đi theo cái cầu thang tối om, Dã nói tiếp:
- Như anh thấy đấy, nhà tôi cũng chỉ có thế này thôi. Đáng lẽ ra tôi phải mời anh tới một nhà hàng nào đấy, nhưng quả thật ở đấy ồn ào và không tiện lắm.
- Tôi cũng thích được cùng ăn ở đây với anh và gia đình. - D. Marnin trả lời rất thành thật.
Mặc dù đã được giới thiệu trước nhưng chính D. Marnin cũng rất bàng hoàng sửng sốt trước vẻ khiêm nhường của căn nhà mà Dã đang sống. Anh bước vào căn phòng khách nhỏ thó có kê một chiếc ghế sô pha, hai chiếc ghế bành, một bức tranh bạc màu có in hình những bông hoa, một chiếc bàn gỗ kiểu cổ để ở góc phòng. Trong nhà mọi thứ đều có mùi ẩm mốc lẫn với mùi khói thuốc lá lâu ngày vẫn còn ám lại. Căn hộ có hai buồng ngủ ở hai đầu nhà. Một bên là buồng ngủ của bà mẹ già mà anh chưa nhìn thấy mặt và người chị gái chỉ ra chào khách với một điếu thuốc lá trên môi khi bữa cơm thân mật giữa hai chàng trai sắp xong.
Cần phòng lớn nhất của căn nhà này là phòng riêng của Dã. Vật trang trí duy nhất trong phòng là một tấm bảng đen hai mặt trên đó ghi bằng phấn vô số những công việc được sắp xếp với rất nhiều dấu bằng kế tiếp nhau. Trong phòng cũng có một buồng tắm nhỏ với một chiếc bồn tắm kiểu đứng và một chỗ để nấu nướng, nơi hầu hết mọi việc chuẩn bị cho bữa ăn đang được diễn ra ở đây. Giống như mấy ông bác mình, Dã là một ngưòi nghiện thuốc lá Gauloises rất nặng và anh ta đã đề nghị D. Marnin hút một điếu.
- Nếu anh nhìn quanh đây - anh ta nói - tôi nghĩ là anh sẽ phát hiện thấy những bằng chứng xác nhận rằng không phải tất cả những lời cáo buộc về sự tham nhũng của gia đình họ Ngô mà báo New York Times vẫn đăng là có cơ sở.
- Tất cả những ai không biết gì về đất nước này đều có thể coi những lời cáo buộc ấy là hết sức nghiêm trọng.
- Thật thế sao? Chúng tôi lại cho rằng những tờ báo ấy không chỉ khiến cho ngưòi ta đánh giá vấn đề quá trầm trọng mà giờ đây nó còn tạo ra sự thay đổi hoàn toàn trong chính sách đối ngoại của các ông đối với đất nước này. Trong nhiều tháng qua chúng tôi đã từng nghe thấy tay phóng viên này của tờ New York times khoe khoang với bạn bè (anh ta dừng lại rồi đưa mắt nhìn thẳng về phía Marnin) ở khắp thành phố này rằng anh ta sẽ “vô hiệu hóa ngài Corning”. Các anh đã từng có một Đại sứ rất phù hợp với đất nước này còn bây giờ các anh đã triệu hồi ông ấy về nước.
- Điều đó không có nghĩa là sẽ có sự thay đổi trong chính sách đâu. Như anh thấy đấy, chúng tôi đã nhận được một bức điện từ ngài Ngoại trưởng phản đối bất cứ một sự thay đổi nào trong chính sách của chúng tôi trong tương lai.
- Viết những bức điện như thế thật đơn giản. Không ai trong chúng tôi nghi ngờ về thiện chí của ngài Corning. Thế nhưng trong Phái bộ Mỹ vẫn có những người khác luôn hành xử theo cách khiến cho họ trở nên nổi trội hơn những người như ngài Corning. Những hành động như vậy sẽ luôn thích hợp với những kẻ chống đối. Và khi những kẻ phản loạn ấy thông báo cho họ về những kế hoạch thâm hiểm cùa họ thì những người này sẽ vội vàng vồ ngay lấy cây bút ghi chính xác lấy từng từ, từng chữ - điều này đương nhiên sẽ trở thành niềm khích lệ với những kẻ phản loạn.
- Tôi không chắc là tôi hiểu được ý của anh đâu. -D. Marnin thắc mắc.
- Khi ông Markoff được hỏi nó là cái gì mà ông ta nghĩ những công dân Mỹ ấy lại làm như vậy, ông ta chỉ biết trả lời rằng họ có quyền tiếp cận với tất cả mọi vấn đề bởi vì nước Mỹ đang đầu tư vào Việt Nam hàng trăm triệu đô-la chính vì thế người dân Mỹ phải được biết tường tận những gì đang xảy ra.
- Vậy là... có cái gì không đúng ở đó sao?
- Có thể, có thể là có đấy. Ngay cả khi người Mỹ các anh hỏi một tướng lĩnh cao cấp trong quân đội là liệu anh ta có tiếp tục ủng hộ Chính phủ mà anh ta đã thề là sẽ trung thành ấy nữa không, thì điều đó cũng khiến cho anh ta nghĩ rằng nếu như anh ta thay đổi quan điểm của mình thì Chính phủ Mỹ sẽ đứng về phía anh ta ngay lập tức. Thậm chí còn tồi tệ hơn nữa nếu có một viên Đại tá nào đó tuyên bố rằng ông Diệm phải ra đi, ông Nhu phải ra đi và rằng ông ta đang tập hợp lực lượng chuẩn bị cho một cuộc đảo chính quân sự mà người Mỹ các anh lại thi nhau ghi chép thật nhanh những tuyên bố ấy rồi tiếp tục tiếp xúc thân mật hơn với anh ta trong các buổi dạ tiệc thì điều đó có nghĩa là các anh đã tạo cho viên Đại tá ấy ấn tượng rằng các anh tán thành hành động ấy của anh ta. Và còn tồi tệ hơn nữa khi các anh vẫn tiếp tục hỏi vị tướng cao cấp thứ ba trong Quân đội là nước Mỹ cần phải làm những gì để cho toàn bộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa chạy theo việc chống lại một Chính phủ đồng minh hợp hiến. Đừng nói là người Mỹ các anh không tiến hành thu thập các tin tức tình báo về các hoạt động chống đối Chính phủ đấy chứ? Và các anh cũng không để ý đến việc Chính phủ của chúng tôi điều hành các lực lượng vũ trang của mình như thế nào. Hay nói khác đi là thật sự thì các anh không khuyến khích những binh lính của chúng tôi chống lại Chính phủ phải không nào? Tôi chỉ có thể kết luận là tất cả điều đó không chỉ là sự suy đoán mang tính lô-jích thông thường đâu. Tất cả ba cuộc tiếp xúc này đều đã được chúng tôi ghi lại vào đúng lúc chúng diễn ra hồi tuần trước.
Một người phục vụ từ trong bếp bước ra và thông báo cho Dã biết rằng bữa cơm đã sẵn sàng. D. Marnin nhận ngay ra người này chính là một trong những người phục vụ đã từng mang đồ uống đến trong các buổi gặp mặt trước đó giữa Đại sứ Corning và Ngô Đình Diệm. Rõ ràng là cuộc gặp gỡ này đã được bên Phủ Tổng thống Ngụy chuẩn bị rất chu đáo.
Họ bước tới bên bàn ăn và ngồi xuống đối diện nhau. Đấy là một bữa ăn rất Việt Nam với những đồ thủy tinh và đồ sứ mượn từ bên dinh Tổng thống. Họ dùng những chiếc đũa bằng ngà voi có trạm chổ tinh vi và khảm hình những con rồng bằng vàng. Trên bàn có bày đủ sáu đĩa thức ăn mà món nào cũng rất tuyệt hảo, một chai rượu Algerian màu trắng. Dã dường như rất hài lòng vì D. Marnin đã biết hết tên của các món ăn đều được cho là đạt tiêu chuẩn cao nhất này. Không những thế, anh cùng còn biết cách làm tăng thêm hương vị cho món ăn bằng cách chấm vào một bát nước mắn có rắc hạt tiêu đặt ở giữa bàn, một điều vẫn được coi là hơi kỳ lạ đối với những thực khách người nước ngoài. Thực ra, chính Lily là người đã chỉ bảo cho anh tất cả những bí quyết về các món ăn của người Việt. Và đặc biệt là cô cũng đã giới thiệu rất tỉ mỉ những món ăn mà anh thích nhất. Trong khi ấy, anh chàng Dã chỉ quan tâm mỗi việc hút hết điếu thuốc Gauloise này đến điếu khác và chẳng quan tâm mấy đến những món ăn có trên bàn.
- Ngoại giao không phải là sở thích của tôi - Dã thú nhận - Vật lý lý thuyết mới đúng là cái mà tôi cần. Chính vì thế tôi hy vọng là anh sẽ bỏ quá cho nếu như tôi có tỏ ra hơi xuẩn ngốc một chút nào đấy.
- Là chỗ bạn bè cả, chúng mình nên chân thật với nhau thì tốt hơn phải không nào?
- Đó cũng là một quan điểm mà chúng ta cần phải thống nhất với nhau. Các anh muốn chúng tôi chân thành với các anh, nhưng các anh lại tỏ ra sợ hãi khi chúng tôi chỉ cho các anh thấy rằng sự chân thành ấy chỉ xuất phát từ một phía. Chẳng hạn như người Mỹ các anh vẫn thường xuyên tán gẫu với nhau về lực lượng cảnh sát chìm của cậu Nhu luôn có mặt ở tất cả mọi nơi, trong khi đó các anh cũng cài cắm khắp đất nước này những mạng lưới điệp viên CIA và có quá nửa quan chức Chính phủ của chúng tôi có mặt trong danh sách những người được trả lương bí mật của các anh.
- Tôi cũng vừa có chuyến công cán với Đại sứ Corning đi đến khắp nơi trên mảnh đất này, tiếp chuyện với hầu hết các quan chức địa phương ở đây. Bức thông điệp của ông ấy gửi tới cho mọi người vẫn giống như từ trước đến giờ - Washington và Sài Gòn là bạn, là đồng minh và chúng ta đang cùng có chung nhiều mục đích và mục tiêu cần phải đạt được.
- Điều khiến cho chúng tôi cảm thấy lo ngại đó là cái cách mà các anh đối xử với bạn bè và đồng minh. Việc các anh luôn cao ngạo lên mặt phán xét chúng tôi về cái cách chúng tôi ứng xử không phù hợp với một thiểu số các phật tử đã khiến chúng tôi phát ốm lên được. Tôi đã từng sống ở Mỹ bảy năm liền. Tôi đã từng tới những nơi mà người Mỹ gốc Phi không được phép vào đái ở trong cùng một nhà vệ sinh với người da trắng. Chính vì thế sự khiếp sợ giả tạo của cách anh trước cách đối xử của gia đình tôi với đám Phật tử phản loạn đã khiến cho tôi cảm thấy nực cười. Liệu anh có thể lấy bất cứ một ví dụ nào về bất cứ ai trên vùng đất này mà không thừa nhận liên quan gì nhân quyền chỉ vì anh ta là người theo đạo Phật không nào?
- Không, tôi không thể làm được. Trên thực tế, tôi vô cùng thất vọng bởi vì người dân Mỹ dường như đã bị lẫn lộn giữa cách ứng xử của Chính quyền Nam Phi với người da màu và những gì đang diễn ra ở đây. Vậy nhưng, chính những bức ảnh của phóng viên Klaus Buechner chụp vụ tự thiêu của vị sư già đã làm rấy lên mối lo ngại không chỉ ở riêng nước Mỹ mà còn ở trên toàn thế giới. Và việc bà Nhu thêm thắt vào câu chuyện này khi nói rằng nhà sư tự nướng thịt mình bằng xăng của người Mỹ đã thật sự gây nên một thảm kịch. Tất cả các anh đều nói rằng bà ta nói theo quan điểm cá nhân mình vì bà ta có quyền đưa ra chính kiến cá nhân mình. Thế nhưng, bà ấy là Đệ nhất phu nhân của đất nước này, vì Chúa bà ta còn là người trợ lý đặc biệt của ngài Tổng thống nữa đấy chứ.
- Cho đến nay, bà Nhu chưa bao giờ là người họ hàng chứ chưa nói gì đến một người bình thường nhất mà tôi ưa cả. - Dã nói - bà ta thuộc lớp người nói trước rồi suy nghĩ sau. Thế nhưng cũng vì tất cả điều đó, bà ấy lại là người duy nhất trên thế giới này nói cho ngài Tổng thống biết chính xác cái gì mà bà ấy có thể nghĩ đến. Cậu Nhu không bao giờ làm thế và cả bác Thục, cậu Cẩn cũng vậy. Và dĩ nhiên là cả tôi cũng thế. Thực tế là bác ấy vẫn luôn chặn họng chúng tôi trong tất cả những lần mà chúng tôi định nói cho bác ấy nghe những gì mà chúng tôi đang nghĩ. Thế nhưng bác ấy không thể làm được như vậy với bà Nhu. Đó chính là giá trị của bà ấy đối với bác Diệm và đó cũng chính là lý do vì sao bác ấy không muốn ép buộc bà ta phải đi ra nước ngoài.
- Các anh đã có cơ hội để đạt được sự thỏa hiệp đối với những Phật tử và có thể loại bỏ ông bà Nhu ra khỏi vụ việc này. Điều đó rất đơn giản.
- Nó không đơn giản đến vậy đâu. Yêu cầu bác Diệm loại bỏ cậu Nhu thì chẳng khác nào yêu cầu bác ấy tự chặt bỏ cánh tay phải của mình. Nó cũng giống như ai đó yêu cầu Tổng thống Jack Kennedy loại bỏ em trai Bobby của ông ấy, phản ứng của Tổng thống Kennedy sẽ như thế nào chứ? Nếu như cậu Nhu phải ra đi thì chỉ cần sáu tháng sau toàn bộ chương trình ấp chiến lược sẽ tan thành mây khói. Cậu ấy luôn là người chỉ đạo chương trình này một cách hiệu quả nhất. Hơn thế nữa, cậu Nhu còn giống như đại diện ngôn luận của Tổng thống. Bác Diệm là người khởi động mọi thứ từ khi còn là ý định cho đến lúc bác ấy nói ra, còn cậu Nhu lại thêm thắt những chi tiết còn thiếu và là người biến nó thành hiện thực. Không còn ai có thể làm được điều đó cả.
- Cậu có thể làm được.
- Không, tôi không thể. Cả bác Diệm và cậu Nhu - Dã mỉm cười và nói tiếp - đều nghĩ rằng tôi còn quá trẻ, quá ngờ nghệch, thiếu thực tế, dễ bị lừa gạt. Những lực lượng hùng hậu trong xã hội này đã nỗ lực hết mình để xây dựng nên cơ cấu quyền lực của dòng họ Ngô Đình trong suốt tám năm qua. Chúng tôi đã giữ được mọi thứ ở trạng thái cân bằng. Thế nhưng những chuyện vớ vẩn với đám Phật tử đã làm cho mọi chuyện bị rối tung lên. Kẻ thù của chúng tôi chính là những kẻ đục nước béo cò. Và nếu như mặt nước này không còn cậu Nhu, người mà bọn họ vẫn coi như một con cá mập thì họ sẽ rất dễ có những hành động chống lại chúng tôi.
- Các anh sẽ không thể giải quyết được kẻ thù của mình nếu ông Nhu phải ra đi sao?
- Đó cũng chính là câu hỏi mà tất cả người Mỹ các anh đã hỏi chúng tôi vào lúc này. Đó đúng là một câu hỏi hết sức ngớ ngẩn. Câu hỏi thật sự không phải nằm ở dinh Gia Long mà nằm ở Nhà Trắng kia. Chúng tôi vẫn cho là nếu như Chính phủ Mỹ hiểu hết tình hình thì họ sẽ thấy rằng Tổng thống Diệm có nhiều lợi thế hơn nhiều so với lực lượng chống đối. Nếu như lực lượng chống đối bị cô lập hoàn toàn thì ông ấy có thể quét sạch họ như quyét một đàn kiến. Thế nhưng liệu họ có bị cô lập không? Điểu tôi cần phải biết chính là tại sao người Mỹ các anh lại sẵn sàng xé nát cái chính quyền này ra thành nghìn mảnh. Còn ai mà các anh có thể nghĩ là có đủ khả năng lãnh đạo đất nước này tốt hơn Tổng thống Ngô Đình Diệm? Thật ra thì thế lực nào đang xui khiến các anh hành động như vậy chứ?
- Tất cả điều này thật không đơn giản chút nào. Nhưng theo quan điểm cá nhân tôi thì mọi chuyện đều bắt đầu từ cái cách mà Chính quyền các anh ứng phó không phù hợp với cuộc khủng hoảng Phật giáo. Nếu như các anh có thể giải quyết được nó một cách ổn thỏa, nếu các anh có thể làm sao đó để củng cố được quyền lực.
- Anh nói như thể là anh đang nhại lại một cách miễn cưỡng những luận điểm của Đại sứ quán vậy. - Dã trả lời một cách nóng nảy. Khuôn mặt anh ta đỏ dần lên đến mức một vết tràm màu trắng bất ngờ hiện lên giữa trán anh ta. Thông thường anh ta là một người khá ôn hòa.
- Chúng tôi biết rằng anh vẫn thường ăn trưa với tay Thích Trí Bình. Thậm trí chúng tôi còn biết chính xác tất cả những gì mà ông ta đã nói với anh. Vậy theo anh thì làm sao chúng tôi có thể hòa giải với những người như vậy chứ?
- Không, tôi không biết. Thế nhưng có lẽ anh hiểu là trong lực lượng Phật giáo vẫn còn có những Hòa thượng khác có uy tín và quyền hạn lớn hem so với ông Bình chứ.
- Chúng tôi không còn muốn tiếp xúc trực tiếp với họ nữa. Họ liên tục đưa ra những lời chỉ trích đối với gia đình và Chính phủ của chúng tôi. Trong quan điểm của họ và chúng tôi hình như không có điểm chung nào liên quan đến hòa hoãn. Đã năm sáu lần chúng tôi đàm phán với họ nhưng càng đàm phán thì quan điểm của họ lại càng trở nên khó chịu hơn. Từ nhiều đời nay xã hội Việt Nam vẫn tồn tại trên cơ sở là các mối quan hệ như cha con giữa những người cai trị và những người bị trị. Để cho một ai đó phỉ báng vào mặt những người cai trị mà người cầm quyền lại không làm gì cả luôn được người ta coi như đó là sự buông lỏng kỷ cương của quyền lực. Cho tới thời gian qua, những phần tử chống đối càng ngày càng lấn lướt chúng tôi chính là vì những người Mỹ các anh. Nếu như chúng tôi mạnh tay hơn với những Hòa thượng như Thích Trí Bình thì rồi ở Washington sẽ có rất nhiều người ép buộc Chính quyền cắt bỏ những khoản viện trợ vô cùng cần thiết với chúng tôi vào lúc này. Thế là chúng tôi đều bị gạt sang một bên. Thế nhưng nếu chúng tôi vẫn tiếp tục để mặc cho những kẻ chống đối ấy muốn gì cũng được thì chắc chắn chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ bị lật đổ bởi những phần tử cơ hội luôn muốn lợi dụng vấn đề Phật giáo như một cơ hội có một không hai.
- Nhưng các anh sẽ không thể giải quyết tất cả cuộc khủng hoảng này bằng vũ lực được. Các anh không có khả năng làm như thế.
- Điều này thì anh có vẻ đúng. Chúng tôi có quyền lực thật sự. Chúng tôi có quân đội và chúng tôi có những lý do riêng của mình. Mấy vị hòa thượng, nói như kiểu của Mao Trạch Đông chỉ là những con hổ giấy. Chỉ cần chúng tôi nhấn tay mạnh một cái là cả đám bọn họ sẽ tan rã hết ngay.
- Nhưng ít nhất các anh cũng phải gạt được bà Nhu ra khỏi chuyện này đã chứ.
- Được việc đó sẽ được thôi. Đúng ra là hơi tiếc nhưng nó vẫn phải xảy đến. Ngài Tổng thống đã quyết định lần đầu tiên gửi bà ấy tới tham dự Hội nghị của Hiệp hội liên nghị viện được tổ chức ở Yugoslavia và sau đó sẽ có chuyến thăm viếng tới các nghị viện của các nước đồng minh trên toàn thế giới. Và bà ấy chỉ là một người công dân của đất nước này nói ra những gì gọi là sự thật về Phật giáo Việt Nam. Bà ấy đã đúng khi cho rằng các Phật tử không phải là đại diện của đa số người dân Việt Nam, họ chỉ chiếm từ 05% đến 10% dân số Việt Nam. Bà ấy đã đúng khi cho rằng các nhà sư không thể so sánh được với các linh mục hay các giáo sỹ. Bà ấy cũng đã đúng khi nói rằng họ không hề cầm đầu cho dù là tạm thời những nhóm chống đối vẫn mệnh danh là đấu tranh vì họ được. Như vậy là vì đã nói ra sự thật, người Mỹ các anh đã cố tình ép buộc bà ấy phải ra khỏi đất nước này.
- Thực ra đó không chính xác là những gì mà bà ấy đã nói, nhưng dù sao nó cũng mang một hình thức nào đó mà bà ấy đã nói về nó.
- Như vậy cũng đủ rồi. Thế mà với đám lợi dụng Phật giáo thì tất cả những gì mà họ đã nói ra hay những cách mà họ nói ra đều đã làm cho chúng tôi khó chịu. Anh có biết gì về cuộc biểu tình ngày hôm nay ở chùa Xá Lợi không?
- Tôi đã tham dự vào đấy. - D. Marnin thẳng thắn trả lời.
- Thế anh có nghe những bài diễn văn ấy không?
- Có, vốn tiếng Việt của tôi cũng đã tiến bộ hơn rất nhiều và tôi cũng có một người phiên dịch đi cùng hỗ trợ cho tôi ở một vài đoạn đặc biệt.
- Vậy thì anh đánh giá những bài diễn văn ấy như thế nào?
- Chúng có vẻ cương quyết hơn rất nhiều. Lúc trước chỉ toàn những chuyện tranh luận ầm ĩ nhưng không nghiêm trọng về các quyền lợi của Phật tử. Thế nhưng ngày hôm nay mọi thứ đều đã khác xa rồi. Ngày hôm nay tất cả các diễn giả đều không ngại ngùng kêu gọi lật đổ Ngô Đình Diệm cũng như kêu gọi thực thi một chính sách mới như cái mà họ gọi là “Chính sách hòa hợp quốc gia giữa tất cả các cánh chính trị”
- Điều khiến chúng tôi không hiểu - Dã nói - chính là Washington vẫn khăng khăng chống lại việc trung lập hóa đất nước này. Anh cũng đã nghe yêu sách của những kẻ phản loạn này rồi đúng không nào? Vậy chẳng lẽ chính họ là những người mà Chính phủ Mỹ muốn đưa lên nắm quyền lãnh đạo ở đất nước này hay sao? Và tiếp theo các anh sẽ yêu cầu gì nữa đây?
- Chúng tôi vẫn muốn giải quyết cuộc khủng hoảng này càng nhanh càng tốt để tập trung vào mục tiêu quan trọng nhất của chúng ta là giành chiến thắng trong cuộc chiến với Việt Cộng.
- Vậy nhưng khi mà Quân đội của chúng tôi chứng kiến cái gọi là sự trung lập của người Mỹ các anh trong lúc những kẻ phiến loạn cứ suốt ngày thẳng thừng công khai kế hoạch xúi giục nổi loạn thì cho dù là những người lính cừ khôi nhất cũng vẫn phải ngồi lại đấy chờ đợi xem tình hình chính trị thay đổi như thế nào trước khi họ có được những hành động chống lại quân Cộng Sản.
- Cầu hỏi vào lúc này chính là những người trong gia đình anh sẽ làm gì để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay?
- Anh đã có mặt trong suốt cuộc biểu tình ngày hôm nay với hơn hai mươi nghìn người tham gia. Tuần trước chỉ có khoảng năm nghìn người. Nếu như chúng tôi không làm gì đó thì sang đến tuần sau sẽ là năm mươi nghìn người. Chắc chắn sẽ có bạo lực xảy ra. Và cánh báo chí của các anh sẽ làm những gì nào? Liệu có đến cả trăm nhà báo nước ngoài đang có mặt ở Sài Gòn sẽ đưa tin ra làm sao? Tất cả hai chúng ta đều biết cả rồi phải không?
- Câu trả lời chỉ còn là thực hiện chính sách hòa hợp - D. Marnin đáp lại.
- Thế mà chỉ nửa tiếng trước tôi chẳng đã nói là chúng tôi không thể theo dõi được chính sách hòa hợp và rằng có nhiều kẻ cơ hội muốn đục nước béo cò đấy sao. Bọn chúng không chỉ muốn nắm quyền kiểm soát tất cả cánh Phật giáo mà chúng còn muốn kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam cho dù chính chúng cũng hiểu là chúng không phải là đối thủ của Việt Cộng. Chúng tôi biết hết những người trong bọn chúng, biết cả những lợi ích kinh tế mà chúng muốn đạt được. Chính vì vậy, chúng tôi phải hành động. Đấy là một thực tế, một thực tế chắc chắn phải xảy ra.
- Anh nói vậy là sao?
- Bởi vì từ trước tới nay tôi chưa bao giờ nói dối anh, bây giờ tôi cũng không nói đùa đâu. Quan trọng nhất vào lúc này chính là việc bọn họ đã đẩy mọi thứ vượt quá cái ranh giới cuối cùng. Nếu chúng tôi không thể cô lập được những người này lại, quân đội của chúng tôi sẽ làm được điều đó. Và chắc chắn bọn họ không thể tỉnh táo bằng chúng tôi được. Họ đã làm mọi việc trở nên phức tạp hơn và nếu chúng tôi không cương quyết vào lúc này thì chúng tôi sẽ không thể tồn tại hết năm nay được.