Chương XIV

    
ậu không thể đi taxi đến đó được,” Lily nói trong khi tôi vụng về chấm mascara Maybelline Great Lash mới mua lên mi. “Đây là một đại lễ, cậu phải gọi xe đi, trời ạ.” Cô quan sát tôi thêm một phút rồi giật lấy que chuốt dính đầy màu và cẩn thận chuốt lên mi mắt tôi.
“Có lẽ cậu nói đúng.” Tôi thở dài, vẫn điên đầu khi nghĩ đến tối thứ Sáu của tôi đi tong, chỉ để khoác đồ đại lễ chào đón mấy bọn nhà quê giàu xổi từ Georgia và Bắc hay Nam Carolina lên và mỉm cười giả dối với những khuôn mặt đánh phấn vụng về. Sau khi được tin, tôi còn đúng ba tiếng để kiếm áo dài, mua son phấn, mặc đồ lên người và tung hê mọi kế hoạch cho cuối tuần, kết quả là trong khi cuống quýt vội vã đã quên hẳn chuyện xe cộ.
May mắn thay, đi làm cho một trong những tạp chí thời trang lớn nhất trong nước cũng có lợi thế (một công việc mà hàng triệu cô gái xin chết để được nhận!) Đúng 4 giờ 20 tôi là bà chủ kiêu hãnh ngắn hạn của một chiếc áo dài Oscar de la Renta đen chấm gót, do Jeffy hào hiệp xuất kho cho – ông chủ của kho quần áo và người say mê tất cả những gì thuộc về phái yếu (“Này người đẹp, đã mặc đồ dạ hội thì phải là Oscar, thế thôi. Nào, đừng xấu hổ, tụt quần ra và thử đồ này cho Jeffy xem.” Khi tôi mở khuy, anh rùng mình. Tôi hỏi anh, chẳng lẽ cơ thể bán khỏa thân của tôi làm anh ngán đến thế, anh trở lời, tất nhiên là không; cái làm anh ngán là xi líp của tôi hằn ra ngoài quần). Các trợ lý thời trang đã mang đến một đôi Manolo màu nhũ bạc đúng cỡ chân tôi, và một cô ở phòng phụ kiện đưa chiếc túi màu bạc Judith Leiber quá ư diêm dúa, có quai dài bằng xích mỗi khi chuyển động lại rung lên xủng xoảng. Tôi rụt rè ngỏ ý xin chiếc ví đầm kẹp nách loại giản dị của Calvin Klein, nhưng cô ta chỉ khịt mũi khinh bỉ và ép tôi dùng túi này. Stef còn lưỡng lự, liệu tôi có nên đeo một dây chuyền ngắn hay dài, còn Allison, vừa được thăng chức biên tập viên thẩm mỹ, bám lấy chiếc điện thoại và gọi cho tôi một nhân viên về móng tay đến tận văn phòng.
“Cô ấy đợi chị lúc 5 giờ kém 15 ở phòng họp,” Allison báo cho tôi qua máy nội bộ. “Chị mặc đồ đen à? Thế thì đòi màu Chanel Ruby Red. Công ty trả tiền.”
Cả văn phòng nhộn nhạo hẳn lên, cốt chỉ để tôi xuất hiện tương đối tử tế tại buổi tiệc tối nay. Một điều chắc chắn: họ bày trò múa rối này hoàn toàn không phải vì thấy tôi đáng yêu và xinh đẹp hoặc không tưởng tượng ra việc gì hay hơn là giúp tôi trong lúc rối ren: mà họ biết chắc rằng ý tưởng kỳ khôi này là của Miranda, vậy nên phải hăng hái chứng minh cho bà biết khả năng của mình về thẩm mỹ và phong cách.
Trước khi rời khỏi nhà, tôi đi lại trong phòng trên đôi Manolo cao mười phân lênh khênh, hôn lên trán Alex. Anh hầu như không ngẩng lên khỏi tờ tạp chí đang đọc.
“Nhất định em sẽ về trước mười một giờ, sau đó mình có thể đi ăn uống ở đâu đó, okay? Rất tiếc có chuyện xen vào, thật đấy. Nếu anh muốn đi chơi với các bạn thì gọi điện cho em, có thể em gặp bọn anh ở đâu đấy, okay?” Như đã hứa, anh rời khỏi trường là đến ngay để tối nay ở cùng tôi, và tỏ ra không phấn khởi lắm khi nghe tin tối nay sẽ được nghỉ ngơi thoải mái, nhưng không có mặt tôi. Lúc này anh ngồi ngoài ban công cạnh phòng tôi, đọc một số Vanity Fair cũ nằm lăn lóc trong phòng, uống một chai bia mà Lily để sẵn trong tủ lạnh cho khách. Tôi chợt nhận ra là anh không ngồi cùng Lily.
“Lily đâu?” Tôi hỏi. “Cô ấy không đi học, và em biết là cả mùa hè này không làm thứ Sáu.”
Alex uống một ngụm bia và nhún vai. “Cửa phòng cô ấy đóng, nhưng lúc nãy anh thấy có thằng cha đi lại ở đây.”
“Một thằng cha? Anh có nhớ vài đặc điểm không? Kiểu người gì?” Kẻ trộm à? Hay tay đồ đệ nhỏ của Freud rốt cuộc đã được mời đến?
“Anh không biết, nhưng trông hắn hơi kỳ dị. Xăm mình, xỏ khuyên, ngổ ngáo, không thiếu thứ gì. Chẳng rõ cô ấy lôi hắn từ đâu về?” Anh lặng lẽ uống thêm một ngụm nữa.
Tôi càng không rõ Lily gặp hắn ở đâu, tối qua lúc mười một giờ đêm tôi còn để cô lại với một người hết sức lịch thiệp tên là William, mà William thì, như tôi đánh giá, không có dáng ngổ ngáo hay xăm trổ đầy mình.
“Alex, anh nói nghiêm túc xem nào! Chẳng lẽ có một thằng lưu manh quanh quẩn trong căn hộ em, bất kể được mời hay không, mà anh không thèm để ý? Buồn cười thật! Mình phải làm gì chứ,” tôi nói, đứng dậy khỏi ghế và ngạc nhiên, như mọi khi, tại sao sự chuyển dịch trọng lực không làm sập cả ban công.
“Bình tĩnh nào, Andy. Lưu manh thì chắn chắn không phải.” Anh giở tiếp một trang. “Có thể một dạng Punk-Grunger [chỉ nhưng người có cách sống bên lề, kỳ quái cũng nên, nhưng không phải lưu manh.”
“Hay, hay thật đấy. Anh dậy đi cùng em xem có chuyện gì, hay định ngồi cả đêm ở đây?”
Anh vẫn tránh ánh mắt tôi, cuối cùng thì tôi cũng hiểu ra là anh phần nào bực mình vì buổi tối nay. Dĩ nhiên, không phải bàn, nhưng chính tôi cũng bực mình vì phải làm việc và cũng không có lựa chọn nào khác. “Nếu cần gì thì em cứ gọi điện cho anh.”
“Thôi được,” tôi nổi xung và chuẩn bị sẵn sàng tấn công vào phòng bên. “Anh chẳng cần bận tâm khi thấy em nằm bét nhè trên sàn nhà tắm. Thật đấy, chuyện vặt mà…”
Tôi đi lại sầm sập trong nhà và tìm kiếm dấu hiệu chứng tỏ có người trong phòng thực sự. Vật duy nhất đập vào mắt tôi là một chai “Ketel One” đã cạn trong bồn rửa tay. Chẳng lẽ Lily từ nửa đêm đến giờ đã kịp mua một chai vodka và tu sạch? Tôi gõ cửa phòng cô. Không ai trả lời. Gõ lần nữa, lâu hơn, một giọng đàn ông nói “có người gõ cửa kìa”. Đợi không thấy ai ra, tôi xoay nắm cửa.
“Có ai trong phòng không?” Tôi định không ngó vào phòng, nhưng chỉ giữ ý định đó được năm giây. Ánh mắt tôi quét qua hai quần bò quăng bừa nằm dưới sàn, một nịt vú treo lủng lẳng ở ghế đẩu, và gạt tàn đầy mẩu thuốc khiến cả phòng hôi xì như sau một buổi liên hoan sinh viên. Rồi tôi nhìn thẳng vào giường, cô bạn thân nhất của tôi nằm nghiêng quay lưng ra, không mảnh che thân. Bên cạnh cô là một tay nom ốm yếu, vệt mồ hôi phía trên môi, tóc tai dính bết. Vô số hình xăm ngoằn ngoèo như chìm lẫn đi trong vải trải giường xanh của Lily. Một vòng khuyên xỏ qua lông mày, tai đeo đầy kim loại lấp lánh, và hai gai kim loại mài đầu chọc ra từ cằm. May mà gã mặc quần soóc lửng, nhưng trông nó bẩn thỉu, cũ và ghê tởm đến nỗi thà tôi thấy gã trần truồng còn hơn – về lý thuyết. Gã khoan khoái rít một hơi thuốc và gật đầu về phía tôi.
“Chào,” gã nói và vẫy điếu thuốc. “Đóng cửa lại được không, cô bạn?”
Gì cơ? Cô bạn à? Thằng cha người Úc nhếch nhác này đinh láo toét với tôi?
“Mày hút crack?” Việc gì phải giả vờ lịch sự nữa. Tôi đâu có sợ. Gã nhỏ hơn tôi, chưa đến sáu mươi cân. Xét tình cảnh hiện tại thì chuyện tệ nhất có thể xảy ra là hắn đụng vào tôi. Tường tượng ra cảnh hắn chạm vào Lily khiến tôi rùng mình, nhưng cô bạn thân nhất của tôi vẫn bình yên thiêm thiếp trong vòng tay che chở của gã. “Mày tưởng mày là ai ở đây? Đây là nhà tao, mày biến khỏi đây đi, ngay lập tức!” Tôi cao giọng, được thúc đẩy bởi áp lực thời gian: tôi còn đúng một tiếng để chuẩn bị trang phục cho buổi tối căng thẳng nhất từ trước đến nay trong sự nghiệp, và việc tống cổ một thằng nghiện ra khỏi nhà không hề nằm trong kế hoạch.
“Kìa cô nàng, từ từ đã nào,” gã thở ra và rít hơi nữa. “Không có vẻ cô bạn cô muốn tôi ra khỏi đây…”
“Cô ấy sẽ muốn mày ra khỏi đây, nếu Ở TRẠNG THÁI TỈNH TÁO, ĐỒ KHỐN NẠN!” Tôi hét lên, rợn tóc gáy khi nghĩ Lily – rất có thể - đã làm tình với thằng này. “Tao cam đoan với mày là tao nhân danh cả hai để TỐNG CỔ MÀY RA KHỎI NHÀ NÀY!”
Một bàn tay đặt lên vai tôi, tôi quay phắt lại và thấy khuôn mặt Alex lo lắng đánh giá tình thế. “Andy, em đi tắm đi, để anh lo chuyện này, okay?” Alex không thể được gọi là vạm vỡ, nhưng so với thằng cha lẻo khoẻo có bộ mặt dính đầy kim loại đang áp vào lưng cô bạn thân nhất của tôi thì trông anh như một đô vật chuyên nghiệp.
“EM. MUỐN,” – tôi chỉ thẳng, không để hiểu nhầm – “THẰNG. KIA. RA. KHỎI. NHÀ. NÀY.”
“Anh biết em muốn gì. Và anh biết anh ấy cũng muốn đi khỏi đây rồi, đúng không anh bạn?” Alex hỏi với giọng êm dịu mà người ta vẫn khuyên dùng khi gặp chó dại.
“Anh bạn, đừng có lắm chuyện. Vui vẻ với Lily một chút thôi mà. Tối qua ở Au Bar cô ấy cứ sán vào tôi, hỏi mọi người ai cũng biết. Cô ấy chỉ muốn tôi về cùng.”
“Tôi không nghi ngờ chuyện đó,” Alex nói dịu dàng. “Lily là m; Andrea, sếp nói gì?”
“ À, bà ấy muốn khẳng định chắc chắn lịch hẹn thợ làm tóc và trang điểm hôm thứ Năm, vì chắn chắn 99% vẫn chưa đủ để yên tâm. Còn chuyện phỏng vấn gì đó với cô trông trẻ mới thì phải, chắc là tôi hiểu nhầm chăng? Ba mươi giây nữa sếp sẽ gọi lại.”
Emily hít một hơi thật sâu và cố lấy hết nghị lực để chịu đựng sự ngu xuẩn của tôi. Quả không dễ dàng cho cô. “ Không, chị không hiểu nhầm chút nào cả. Sau khi Cara không làm ở chỗ Miranda lâu nữa, tất nhiên là bà cần một cô trông trẻ mới.”
“ Sao cơ? Không làm ở chỗ Miranda nữa nghĩa là gì? Không ở chỗ Miranda nữa thì ở đâu cơ chứ?” Tôi khó tin là Cara không kể với tôi là cô đột ngột cắt việc.
“ Miranda cho là Cara thích làm ở một nơi khác hơn,” Emily nói – nhất định là một cách nói ngoại giao hơn từ miệng Miranda. Cứ như Miranda có chút đồng cảm nào với số phận của người khác!
“ Emily, tôi xin chị, nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.”
“ Tôi hiểu theo lời Caroline là mới đây Cara đã bắt bọn trẻ lên phòng vì chúng cãi lại cô ấy. Miranda thấy Cara tự ra quyết định kiểu ấy là không thích đáng. Tôi hoàn toàn đồng ý với bà trong chuyện này. Nói cho đúng thì Cara không phải là mẹ bọn trẻ, phải không nào?”
Nghĩa là Cara bị sa thải vì cô bắt hai đứa trẻ ngồi phòng sau khi chúng cãi cô? “ Vâng, tôi hiểu ý chị. Rõ ràng nghĩ chuyện tương lai của bọn trẻ không phải là nhiệm vụ của người trông trẻ, “ tôi gật gù đầy vẻ nghiêm trọng. Cara đã đi quá giới hạn của mình.”
Emily không bập vào ý mỉa mai rõ rệt của tôi đã đành, cô còn có vẻ không hề nghi ngờ gì. “ Chính xác. Thêm vào đó là Miranda luôn luôn bất bình chuyện Cara không biết tiếng Pháp, làm thế nào bọn trẻ con học nói không bị pha cách phát âm Mỹ được?”
Tôi cũng không biết làm thế nào đây. Bọn trẻ vẫn đi học ở trường tư thục, học phí mỗi năm 18.000 dollar và cả ba giáo viên tiếng Pháp đều nói tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ mà? Mẹ chúng cũng sống nhiều năm ở Pháp, mỗi năm mấy lần qua đó, nói và viết tiếng Pháp hoàn hảo, phát âm cực du dương mà? “ Chị nói đúng. Không biết tiếng Pháp không trông trẻ được. Tôi hiểu rồi.”
“ Ừ, thế nào thì thế, bây giờ chị chịu trách nhiệm tìm một cô trông trẻ mới. Đây là số điện của dịch vụ
mối người vẫn cộng tác với mình,” cô nói và gửi qua email sang chỗ tôi. “ Họ biết Miranda kỹ tính sao rồi – hàon toàn có lý, tất nhiên – và thường rất cố gắng trong tuyển chọn.”
Tôi cảnh giác nhìn cô, không hiểu cuộc đời cô ra sao trước khi biết Miranda Priestly? Tôi mở mắt ngủ một lát, cho đến khi lại có chuông điện thoại. May thay, Emily bắt máy.
“ A lô Miranda. Vâng, vâng, tôi nghe rõ. Không. Tuyệt đối không có vấn đề. Thợ làm tóc và trang điểm hôm thứ Năm đã chắc chắn. Và Andrea đã lấy các thông tin đầu tiên về cô trông trẻ. Khi nào về, bà sẽ có ba ứng cử viên tử tế đợi phỏng vấn tuyển chọn.” Cô nghiêng đầu, để bút trượt trên môi. “ À, vâng. Vâng, khẳng định chắc chắn. Không, không phải 99 phần trăm, 100. Nhất định. Vâng, Miranda. Vâng, chính tay tôi làm việc đó mà, và tôi tin chắc. Mọi người đều hồi hộp đợi. Okay. Chúc bà một chuyến bay tốt đẹp. Vâng, khẳng định rồi. Tôi gửi fax ngay. Okay. Good-bye.” Cô đặt máy và toàn thân run lên vì giận dữ.
“ Tại sao bà ấy không hiểu ra nhỉ? Tôi nói là lịch hẹn thứ Năm đã được khẳng định. Nhắc lại lần nữa. Tại sao phải nhai đi nhai lại năm mươi lần? Chị có biết bà ấy nói gì không?”
Tôi lắc đầu.
“ Chị biết bà ấy nói gì không? Trong khi bà ấy bù đầu vì công việc thì tôi phải viết lại kế hoạch làm việc là lịch hẹn cho thợ làm tóc và trang điểm đã được khẳng định và fax sang khách sạn Ritz để lúc đến nơi là bà ấy có bản kế hoạch đã sửa đúng. Tôi làm tất cả cho bà ấy, hiến cả cuộc đời cho bà ấy, vậy mà phải chịu những lời lẽ như thế?” Trông cô nước mắt lưng tròng. Dù có hồi hộp theo dõi Emily trong cơn giận dữ hi hữu chống lại Miranda, tôi vẫn phải tiếp tục cẩn trọng vì bất cứ lúc nào cũng có thể diễn ra cú thụt vòi kiểu Runway. Bây giờ phải nói đúng giọng: thông cảm, nhưng không hùa vào bè.
“ Emily, không phải lỗi chị, hoàn toàn không phải. Miranda biết chị làm việc vất vả ra sao và chị là một trợ lý cừ. Nếu bà ấy không cho rằng chị làm việc tốt thì đã tống chị đi từ lâu rồi. Bình thường ra bà ấy đâu có ngại chuyện đó.”
Emily đã chặn xong nước mắt và chuyển sang giai đoạn thách thức, nghĩa là trong thâm tâm cô nhận là tôi đúng, nhưng sẽ bảo vệ Miranda ngay nếu tôi đi quá trớn. Trong môn tâm lý học tôi có nghe giảng về hội chứng Stockholm, khi nạn nhân hòa đồng với thủ phạm, nhưng không bao giờ hiểu rõ thực tế ra sao. Có lẽ khi nào có dịp tôi nên quay video một trong những tiểu cảnh với Emily và tôi rồi gửi cho giáo sư làm tài liệu trực quan dạy sinh viên năm thứ nhất. Tiếp tục cẩn trọng nữa thì quá mệt, tôi lấy hơi và liều bước tiếp.
“ Bà ấy điên mà, Emily,” tôi nói khẽ và chậm, đợi cô thuận ý mình. “ Không phải lỗi chị, mà là lỗi bà ấy. Bà ấy là người rỗng tuếch, nông cạn và cay đắng, có hàng núi quần áo lộng lẫy và cũng chỉ có thế mà thôi.”
Vẻ mặt Emily căng lên trông thấy, da má và cổ căng ra như sắp rách và tay cô không còn run nữa. Tôi biết cô sắp nghiền nát tôi bất cứ lúc nào, nhưng không dừng được nữa.
“ Chị đã bao giờ thấy bà ấy có bạn bè nào không? Tất nhiên, suốt ngày những nhân vật trọng yếu nhất gọi điện đến, nhưng không phải để nói chuyện với bà về con cái, gia đình hay bố mẹ. Họ gọi vì họ muốn gì đó ở bà. Nhìn từ bên ngoài thì dĩ nhiên cực kì ấn tượng, nhưng chị tưởng tượng xem, mọi người đều gọi điện cho chị vì họ …”
“ Chấm dứt!” Cô hét lên, và nước mắt lại tràn xuống mặt. “ Câm ngay mồm đi! Chị bước vào văn phòng này và tưởng mình hiểu hết mọi chuyện. Nàng công chúa chuyên mỉa mai và đứng cao hơn tất cả! Nghe đây, chị không hiểu gì cả, không hiểu tí gì cả!”
“ Emily!”
“ Không Emily gì cả, Andy, để tôi nói hết. Tôi biết Miranda là người khó tính. Tôi biết đôi khi bà ấy như mất trí. Tôi biết tình trạng không bao giờ được ngủ và luôn sợ bà ấy có thể gọi điện, và không ai trong đám bạn bè mình thông cảm. Tôi biết hết! Nhưng nếu chị thấy thế là đáng ghét, nếu chị không làm gì khác ngoài kêu ca suốt ngày về công việc, về Miranda, và về tất cả mọi người, sao chị không biến đi? Vấn đề thực sự ở đây là quan điểm của chị. Nếu chị bảo Miranda điên, được, còn tôi cho là nhiều người, rất nhiều người nghĩ rằng Miranda có tài và năng khiếu, và bảo chính chị mới là điên vì không bỏ hết sức phụng sự cho người đàn bà kiệt xuất này. Bởi vì bà ấy là người kiệt xuất, Andy, thực sự kiệt xuất.”
Tôi cân nhắc một lát và phải công nhận cô nói đúng. Trong tầm đánh giá của tôi, Miranda là một chủ bút thượng hạng. Mỗi bài đưa vào tạp chí đều được bà biên tập từng chữ, và bà không ngần ngại đạp đổ tất cả để bắt đầu lại lần nữa, kệ cho hậu quả ra sao đối với mọi người. Tuy từng biên tập viên thời trang tự quyết định phục trang đem chụp ảnh, nhưng duy nhất Miranda chọn ra toàn bộ quần áo và từng người mẫu. Cả những cộng tác viên phụ trách hình ảnh thật ra cũng chỉ thi hành chính xác và cụ thể yêu cầu của Miranda. Bà nói lời cuối cùng – thường cũng cả lời đầu tiên và lời quyết định – trong mỗi số báo, từ vòng tay, túi xách, giày, phục trang và đầu tóc cho đến bài viết, phỏng vấn, ảnh, người mẫu, cả đến địa điểm chụp hình và thợ nhiếp ảnh. Không nghi ngờ gì, bà đứng ở vị trí tiên phong bảo đảm cho thành công đáng kinh ngạc của Runway, tháng này qua tháng khác. Thiếu Miaranda thì Runway không còn là Runway, không là gì cả, điều đó tôi cũng rõ như mọi người khác. Mặc dù vậy tôi vẫn chưa chấp nhận, tại sao bà có quyền đối xử thô bạo với mọi người như vậy. Bà có đủ tài năng khiến một cô người mẫu châu Á chân dài mắt gườm gườm mang áo dài Balmain trong một ngõ nhỏ ở San Sebastian mà vẫn được kính cẩn tôn sùng, song tại sao năng khiếu ấy cho phép bà không phải chịu trách nhiệm về cách hành xử của mình? Đó là chuyện tôi chưa hiểu nổi, nhưng tôi biết rồi, tôi chỉ là một đứa ngu xuẩn, trái hẳn với Emily.
“ Emily, tôi chỉ muốn nói rằng chị là một trợ lý xuất sắc của Miranda, và bà ấy may mắn có được một người làm việc gian khổ và tận tụy như chị. Chị chỉ nên hiểu rằng chị không có lỗi khi bà ấy có gì không hài lòng. Bản chất bà ấy là không hài lòng. Chị đã làm tất cả những gì có thể.”
“ Tôi biết, tôi biết chứ. Nhưng chị không tôn trọng Miranda đủ mức, Andy. Hãy suy nghĩ lại đi. Bà ấy đã được rất nhiều và đã phải hy sinh rất nhiều, nhưng mọi nhân vật siêu thành công ở mỗi lĩnh vực đều thế cả. Hãy chỉ cho tôi một giám đốc, một đối tác kinh doanh hay một đạo diễn phim nào mà đôi khi không phải tỏ ra khắc nghiệt? Đó là một phần của công việc thôi.”
Về chuyện này, có thể nói là chúng tôi sẽ không dung hòa được quan điểm. Rõ ràng là Emily đã hiến mình cho Miranda và Runway và mọi thứ trong đó, còn tôi thì đơn giản không hiểu nổi lý do tại sao. Cô hòan toàn không khác gì hàng trăm trợ lý riêng và trợ lý biên tập và trợ lý phó tổng biên tập và phó tổng biên tập và tổng biên tập khác của tạp chí thời trang. Nhưng dù vậy tôi vẫn chưa hiểu vì sao. Như tôi đã từng trải nghiệm, mỗi người trong số họ đều bị lãnh đạo trực tiếp của mình hạ nhục, đàn áp và hành hạ đủ điều – để rồi lại áp dụng chính những biện pháp đó với những người dưới quyền mình sau khi được thăng chức. Để đến cuối bậc thang dài lê thê và gian khổ họ có thể nói là, ta đã ngồi hàng đầu ở show thời trang của Yves Saint-Laurent và thỉng thoảng vớ được chiếc túi Prada miễn phí?
Đã đến lúc dàn hòa. “ Tôi biết,” tôi thở dài đầu hàng trước sự cứng đầu của cô. “ Tôi hy vọng chị hiểu ra rằng chị làm bà ấy hài lòng khi ôm mấy việc chết tiệt ấy, chứ không phải ngược lại.”
Tôi đợi cú phản công tức thì, nhưng Emily chỉ cười. “ Chị biết đấy, tôi đã nói với bà ấy cả trăm lần là lịch hẹn hôm thứ Năm đã được khẳng định rồi.”
Tôi gật đầu. Trông cô vui vẻ đáng ngờ.
“ Tôi đã nói dối trơn tuột. Tôi chẳng gọi ai hay khẳng định chuyện gì hết!” Cô nói như hát.
“ Emily, chị nói nghiêm chỉnh đấy chứ? Thế bây giờ chị sẽ làm gì? Chị thề sống thề chết là đã tự tay hàon tất vụ này.” Lần đầu tiên từ khi vào làm việc ở Runway tôi muốn ôm chầm lấy cô.
“ Andy, nghĩ cho kỹ xem, chị có thật lòng tin là một người còn đủ trí khôn lại lắc đầu khi Miranda gọi làm tóc và trang điểm? Cả sự nghiệp của hắn có thể thăng thiên,ai điên mà bỏ lỡ dịp này. Tôi tin là hắn đã vào kế hoạch từ lâu, có thể chỉ phải thay đổi kế hoạch đi lại hay gì đó. Tôi không khẳng định lại lịch hẹn, vì tôi biết hắn sẽ làm. Hắn chẳng có sự lựa chọn nào khác, vì đó là Miranda Priestly!”
Giờ đến lượt tôi muốn trào nước mắt, song tôi chỉ nói: “ Tôi cần biết gì khi tuyển cô trông trẻ mới? Có lẽ tôi nên bắt tay vào việc luôn.”
“ Ừ,” cô đồng ý, rõ ràng đang rất hài lòng với nước cờ thông minh của mình. “ Có lẽ là một ý hay đấy.”
Cô gái đầu tiên mà tôi phỏng vấn sửng sốt trông thấy.
“ Trời ơi!” Cô rú lên khi tôi hỏi trong điện thoại, liệu cô có sắp xếp thời gian đến gặp tôi ở văn phòng. “ Trời ơi! Chị có nói thật không? Trời ơi!”
“ Hừm, thế nghĩa là có hay không?”
“ Trời ơi, có, có, có, có! Ở Runway? Trời ơi! Tôi mà kể cho các bạn tôi thì họ lăn ra chết mất. Chết đứ đừ. Chị nói đi, ở đâu và bao giờ.”
“ Chị đã hiểu là Miranda đang đi xa và không trực tiếp gặp chị được?”
“ Vâng, tôi biết rồi.”
“ Và chị cũng biết là chị sẽ trông hai con gái của Miranda? Và công việc này không liên quan gì đến Runway cả?”
Cô thở dài như cam chịu một sự thật buồn thảm, khốn khổ. “ Vâng, tất nhiên. Trông trẻ, tôi rõ rồi.”
Rõ đâu mà rõ. Vì lúc xuất hiện tuy bề ngoài cô ta khá thích hợp với các đòi hỏi ( cao lớn, chải chuốt không chê được, khá đúng mốt, và suy dinh dưỡng nghiêm trọng), nhưng hỏi đi hỏi lại sẽ làm việc ở đâu trong ban biên tập.
Tôi bắn sang một tia mắt chết người, song hình như cô không để ý. “ Hừm, chả ở đâu cả. Chị nhớ là ta đã nói chuyện đó rồi chứ? Tôi chỉ được Miranda ủy nhiệm nói chuyện trước, và bây giờ ta đang ở văn phòng thôi. Còn hai đứa song sinh của bà ấy không sống ở đây, chị hiểu chứ?”
“ Có chứ, có chứ,” cô nói theo, nhưng tôi đã cho cô ra ngoài danh sách.
Ba người tiếp theo của công ty mối người đợi sẵn ngoài khu lễ tân cũng không hơn gì: tuy bề ngoài họ thích ứng với đòi hỏi của Miranda – quả thật công ty biết chính xác nguyện vọng của bà – nhưng không ai trong số họ đủ tin cậy để tôi cho trông giữ đứa cháu tương lai, và đó là tiêu chuẩn mà tôi đặt ra khi chọn người. Một người đã học nuôi dạy trẻ ở Cornell, nhưng khi tôi khéo léo nhắc là việc này hơi khác so với công việc ngày xưa thì cô chỉ trố mắt ra nhìn tôi. Một cô khác từng đi với một cầu thủ bóng rổ nổi tiếng của NBA và qua đó “ quen giới nổi tiếng”. Khi tôi hỏi cô đã va chạm với con cái những người nổi tiếng bao giờ chưa thì cô bất giác chun mũi và nói, con cái người nổi tiếng “ luôn thuộc loại khó tiêu”. Gạch tên. Ứng viên thứ barave;nh. “Thường thì bà ấy chỉ cần một giây để mắng chửi tớ, vậy chớ quên là cậu định nói gì nhé.” Lily đặt lược xuống và nhìn tôi gọi điện.
“Văn phòng Mi…” tôi suýt trả lời như mọi lần. “Andrea đây,” tôi chữa lại và sẵn sàng chờ đạn.
“Andrea, chị biết là tôi đợi chị tối nay đúng sáu rưỡi ở đây chứ?” Bà sủa vào máy,bỏ qua câu chào hỏi, xưng tên tuổi hay đại loại thế.
“Ô, à, bà đã nói lúc nãy là bảy giờ. Tôi còn phải…”
“Tôi đã nói là sáu rưỡi, và nói lại lần nữa là s-á-u-r-ư-ỡ-i. Rõ chưa?” Cạch. Ngắt máy. Tôi nhìn vào đồng hồ. 6 giờ 5. Làm sao bây giờ?
“Hai mươi lăm phút nữa là phải có mặt,” tôi nói to cho mọi người biết.
Lily vui mừng đón cú ngắt quãng. “Nào, thế thì ta vào việc đi.”
“Bọn mình đang dở chuyện, và là chuyện quan trọng. Cậu vừa định nói gì?” Đúng cả, nhưng rõ ràng cả hai đều biết là tâm trí tôi đã ở tận đẩu tận đâu. Không tắm nữa. Tôi còn đúng mười lăm phút để trang điểm xong xuôi và nhảy lên ô tô.
“Nhanh lên, Andy, cậu phải đi rồi. Mình nói chuyện ấy lần sau.”
Và lại một lần nữa tôi không thể làm gì khác là cuống quýt làm, mạch đập thình thịch: mặc áo dài, chải đầu sơ sơ, đồng thời liếc qua tờ Emily in ảnh các khách đến tối nay để xếp cho khớp với tên. Lily quan sát toàn bộ trò này với vẻ khoái trá, nhưng tôi biết chuyện gã nghiện làm cô áy náy, va tôi cảm thấy cắn rứt khi phải để cô một mình. Alex đang gọi điện cho cậu em nhỏ, cố thuyết phục rằng mẹ không phải là bà phù thủy độc ác khi bà cấm cậu ở tuổi này đi xem phim buổi chín giờ tối.
Tôi hôn lên má anh từ biệt; Alex huýt sáo và nói, có thể anh sẽ đi ăn tối với các bạn, và tôi nên gọi điện nếu định đến đó nhập bọn. Tôi ra phòng khách trên đôi giày lênh khênh, Lily đợi đó với một tấm lụa đen hoành tráng. Tôi đưa mắt dò hỏi.
“Khăn quàng cho buổi tối trọng đại của cậu,” cô véo von và xổ tung nó ra như khăn trải giường. “Andy của tớ phải diện tưng bừng như bọn nhà giàu lỗ mãng từ Carolina mà tối nay cậu phải phục vụ. Bà tớ tặng tớ trước đây mấy năm đấy, nhân dịp đám cưới của Eric. Tớ vẫn băn khoăn không biết xếp nó vào hạng sang trọng hay nhà quê nữa. Nhưng nó hợp với đồ đại lễ, và của Chanel nữa, thế là đủ.”
Tôi ôm cô. “Hứa với tớ là nếu tớ bị Miranda sa thải vì ăn nói thất thố thì cậu sẽ đốt cái áo dài này và cho tớ mặc lại đồ bò của Brown nhé. Hứa đi!”
“Trông cậu rất đẹp, Andy. Tớ không ngờ có ngày được chứng kiến cậu mặc đồ Oscar de la Renta đến dự tiệc của Miranda Priestly, nhưng trông cậu xứng đáng lắm, giờ thì nhanh chân lên.”
Cô ấn vào tay tôi cái túi Judith Leiber rực rỡ ghê tởm với quai xích lủng lẳng và mở cửa ra sảnh: “Vui vẻ nhé!”
Ô tô đợi trước nhà. Trong khi lái xe mở sẵn cửa thì John, hiện thân của sự lỗ mãng cao cấp, huýt sáo sau lưng tôi.
“Cho bọn nó đo ván hết đi, cô em,” ông gọi với theo và cường điệu vẫy tay. “Tối muộn lại gặp nhau nhé.” Tất nhiên ông ta không biết tôi đi đâu, nhưng cũng là một an ủi khi ông nghĩ là tôi về trước bữa sáng. Có thể không đến nỗi tệ đâu, tôi nghĩ bụng và thả người xuống chiếc ghế đệm rộng rãi của chiếc Limousine. Nhưng lúc áo xòa lên gối và lưng tôi chạm phải lớp da lạnh toát thì tôi lại giật mình. Nếu mọi việc tệ như mi vẫn nghĩ?
Đợi đến khi tài xế nhảy khỏi xe và chạy vòng quanh để mở cửa thì tôi đã ra đến vỉa hè từ lâu.
Tôi đã tới bảo tàng Withney một lần, theo tua tham quan thắng cảnh trong một ngày cùng với mẹ và Jill. Bản thân bảo tàng không gợi ra hồi tưởng nào, nhưng nhìn thấy cửa ra vào như cây cầu thì tôi nhớ lại ngay. Ngày ấy còn là đứa trẻ mười bốn tuổi, tôi đứng gần hai mươi phút trên lối đi này nhìn xuống thềm dưới, nơi dân Upper East Side giàu có và dân ngoại tỉnh giàu có đứng lẫn lộn. Tất cả có vẻ đang tranh luận đầy tin cậy và hồ hởi về triển lãm kiến trúc mang tính cách mạng hay bộ ảnh đen trắng độc đáo của một nhà nhiếp ảnh đồng tính trẻ tuổi. Họ trò chuyện với nhau một cách nhẹ nhàng và đi lại với vẻ tin cậy mà tôi, đứa trẻ mới lớn, không cảm nhận được và chắc chắn không muốn cảm nhận.
Tôi quả thật có lý. Hôm nay, mười lăm sau, sự khác biệt duy nhất giữa hai thời điểm là giá tiền của bộ cánh tôi mặc trên người. Và độ cao của gót giày, tất nhiên. Tôi suy tính nhanh, trước tiên là phăng đôi giày qua lối đi, sau đó chính tôi, nhưng một con tính nhẩm cho biết ngay tôi chỉ có thể tàn phá một xương bánh chè hay một ống đồng mà thôi, không đủ để thoái thác dự buổi lễ tối nay. Không còn sự lựa chọn nào nữa, tôi lấy hơi thật sâu, nắm chặt tay để kìm ý định hút điếu thuốc cuối cùng và rút thanh son môi Fudgsicle ra. Đã đến giờ vào vai một quý bà.
Người gác cửa mở cửa cho tôi, mỉm cười và hơi cúi lưng, chắc cho tôi là khách mời.
“Xin chào chị. Nhất định chị là Andrea. Mời chị ngồi đợi một lát ở chỗ kia, Ilana sẽ đến ngay.” Xây lưng lại phía tôi, ông kín đáo nói vào micro ở tay áo và gật đầu khẳng định khi có tiếng trả lời trong tai nghe. “Vâng, đúng ạ, ở bên kia, thưa chị. Ilana đến ngay.”
Tôi ngó quanh trong tiền sảnh, không muốn bị chỉnh sửa lại áo dài sau khi ngồi. Với lại, bao giờ cho có dịp vào bảo tàng Whitney – hay bất cứ bảo tàng nào đó – sau giờ mở cửa và là người duy nhất? Quầy bán vé trống vắng, phòng bán sách ở tầng trệt tối đèn, nhưng cảm giác gì đó trọng đại diễn ra ở tầng trên thì rõ mồn một.
Sau gần mười lăm phút ngó quanh, luôn cẩn thận không đi quá xa người gác cảnh giác như một ứng cử viên CIA, một người phụ nữ không có gì nổi bật trong áo dài xanh dương đi qua tiền sảnh choáng lộn về phía tôi. Tôi ngạc nhiên vì bề ngoài giản dị của người có vai trò quan trọng như vậy (tổ chức các sự kiện lớn trong bảo tàng). Lập tức tôi thấy mình lố bịch, như một con bé nhà quê diện ngất ngây đi dạ hội, nhưng thực ra tôi nào có khác gì? Ilana thì ngược lại không nhất thiết phải thay bộ đồ văn phòng. Sau này tôi hỏi cô chuyện đó.
“Để làm gì?” Cô cười. “Mọi người đến đây có phải để xem tôi đâu?” Mái tóc nâu của cô mới gội, nhưng không có gì đặc biệt, và đôi giày nâu thấp gót thì cực lạc mốt. Nhưng cặp mắt xanh của cô sáng ngời và thân mật, và tôi biết ngay là mình sẽ mến cô.
“Chị là Ilana ạ?” Linh tính cho tôi biết trong lúc này tôi nên chủ động nói trước và làm chủ tình thế. “Tôi là Andrea, trợ lý của Miranda, tôi đến đây để làm mọi việc khi cần.”
Nhìn cô dịu hẳn lo âu, tôi muốn hỏi ngay Miranda đã nói gì với cô. Khả năng này thì vô tận, nhưng chắc chắn dính dáng đến bộ cánh của Ilana như lấy trong Tạp chí người nội trợ ra. Tôi rùng mình khi nghĩ cô gái khả ái này đã phải nghe những lời nào của Miranda và chỉ cầu nguyện để cô đừng khóc òa lên. Thay vào đó, cô nhìn tôi với cặp mắt vô tội và thốt ra rõ tiếng: “Sếp của chị là đồ chó chết.”
Tôi cần một lát để qua cơn sốc. “Đúng quá,” tôi nói, và hai chúng tôi cùng bật cười.
“Chị cần tôi làm gì? Miranda có đủ linh cảm để mười giây sau là phát hiện tôi đang ở đây. Tôi phải ra vẻ đang làm gì đó.”
“Tôi chỉ cho chị xem bàn tiệc,” cô nói và vào thang máy, nhấn nút lên lầu một. “Chị sẽ ngã ngửa ra mà xem.”
Chúng tôi ra khỏi thang máy, qua cửa nữa, đi vòng qua một bức tượng mà tôi không nhận ra ngay hình ai, đến một phòng nhỏ phía cuối tầng. Một dãy bàn với hai mươi tư chỗ ngồi kê chữ nhật chính giữa phòng. Robert Isabell có giá của mình, tôi biết. Ông là người tổ chức tiệc có máu mặt ở New York, người duy nhất chắc chắn đánh đúng thị hiếu và không bao giờ bỏ sót một chi tiết: luôn đúng gu nhưng không theo trào lưu nào, sang trọng mà không xa xỉ nặng nề, độc đáo nhưng không quá trớn. Miranda gửi gắm Robert làm mọi yến tiệc, nhưng cho đến nay tôi mới biết công việc của ông qua sinh nhật mười tuổi của Cassidy và Caroline. Ông đã biến phòng khách theo phong cách thuộc địa của Miranda thành một phòng hiện đại (đủ thứ, từ quầy bar nước ngọt – uống bằng ly Martini, tất nhiên – sofa da lộn êm ái, lều trang trí kiểu Ma rốc có lò sưởi để khiêu vũ ngoài sân thượng), nhưng những gì tôi thấy ở đây mới là tuyệt đỉnh.
Tất cả trắng tinh. Trắng dịu, trắng ấm, trắng sáng, trắng thô, trắng lóa. Một bụi mẫu đơn trắng sữa như mọc giữa bàn, đúng tầm để mọi người còn nhìn thấy nhau lúc nói chuyện, đồ sứ Trung Hoa trắng ngà (có vân trắng chìm) ngự trên khăn bàn trắng mới hồ cứng, ghế gỗ sồi sơn trắng có tựa cao và bọc da lộn màu trắng mịn, tất cả trên một tấm thảm dày màu trắng riêng cho dịp này. Nến nhà thờ màu trắng trong giá cắm bằng sứ trắng đơn giản chiếu sáng những bông mẫu đơn từ phía dưới (nhưng kỳ lạ thay, không làm cháy cánh) và tỏa sáng một cách nhã nhặn và kín đáo. Màu sắc duy nhất trong toàn bộ căn phòng đến từ những tấm toan tinh xảo treo trên tường quanh phòng. Liếc nhanh qua, tôi hiểu là ông em của Mờ-Cờ-Đcute;. Vẻ. Như. Không. Thể. Tìm. Ra. Đối với tôi thì quá rõ ràng và chính xác: chúng tôi không tìm thấy thằng cha đó! Vì thế mà bà không thể nói chuyện với hắn được. Nếu bà tìm ra ông ấy thì bà đã tha hồ nói chuyện. Một triệu câu trả lời nanh nọc quay cuồng trong đầu tôi, nhưng tôi chỉ lúng búng như một học trò bị cô giáo phạt vì nói chuyện riêng trong lớp.
“Vâng, Miranda, nghĩa là chúng tôi đã gọi tới tất cả các số có trong danh sách ở văn phòng, nhưng ông ta không có mặt ở bất cứ đâu.:
“Ở đâu được cơ chứ!” Bà nói như hét. Vẻ điềm đạm và lạnh lùng mà bà cố giữ đột nhiên biến mất. Bà lấy hơi một cách cường điệu và nhẹ nhàng tiếp: “Aan-dree-â, chị có biết là tuần này ông Lagerfeld đang ở Paris không?” Tôi cảm thấy như đang ngồi trong lớp dạy tiếng Anh cho người nước ngoài.
“Tất nhiên, Miranda. Emily đã thử hết các số ở…”
“Ngoài ra, chị có biết là ông Lagerfeld đã nói là trong thời gian ở Paris có thể gọi ông vào số di động?” Mỗi sợi cơ trong họng bà cố gắng hết sức để làm cho giọng bà điềm đạm và bình thản.
“À không, trong danh sách điện thoại ở văn phòng không ghi số di động, do vậy chúng tôi không biết là ông Lagerfeld có điện thoại di động. Nhưng Emily vừa gọi được trợ lý của ông ấy và sẽ có số điện thoại ngay.” Emily giơ ngón tay ra hiệu cho tôi trước khi ngoáy một dòng ra giấy và liên tục la lên: “Merci, vâng cám ơn, tội định nói là merci!”
“Miranda, tôi có số điện rồi. Tôi nối máy cho bà ngay nhé!” Tôi cảm thấy mũi phồng ra vì tự hào. Làm việc quá giỏi! Thành tích quá cao trong điều kiện stress! Chiếc sơ mi dân gian xinh xắn của tôi mà hôm nay hai – không phải một, mà hai – trợ lý thời trang khen ngợi, lúc này đã có hai vết mồ hôi dưới nách, nhưng không sao! Tôi sắp cho ngay con mẹ điên rồ này ra khỏi cú điện thoại đường dài – hồi hộp thật.
“Aan-dree-aa?” Nghe như một câu hỏi, nhưng tôi chỉ tập trung dò ra quy luật của sự lẫn lộn tên tuổi bừa bãi này. Ban đầu tôi cho là bà cố tình làm thế để chúng tôi tự cảm thấy mình nhỏ nhoi hơn, hèn kém hơn, nhưng rồi tôi nghĩ rằng trong mắt bà chúng tôi đã nhỏ nhoi và hèn kém đủ rồi, do đó bà làm thế vì chẳng thể bận bịu với những chi tiết ngớ ngấn lặt vặt như tên tuổi các trợ lý của mình. Emily khẳng định nghi vấn này của tôi và nói, Miranda gọi cô lúc thì Emily, lúc thì Andrea hay Allison – người tiền nhiệm của cô. Tôi thấy nhẹ người hơn.
“Vâng ạ?” Giọng tôi lại the thé, bực thật! Bao giờ thì tôi giữ được chút tư thế và bản lĩnh trước mặt bà ta.
“Aan-dree-aa, tôi không hiểu việc gì khiến chị phải nhặng xị lên vì số di động của Karl Lagerfeld, tôi có nó đây rồi? Ông ấy đưa tôi trước đây năm phút, nhưng điện thoại bị ngắt và khi tôi bấm số thì lại không được.” Bà nói câu cuối, tựa như cả thế giới này – trừ bà ra – là nguyên nhân gây ra sự nhầm lẫn và khó chịu vừa rồi.
“Ồ, thì ra bà có số điện thoại? Và bà biết là suốt buổi có thể gọi ông ấy qua số này?” Tôi hỏi, chỉ vì Emily – nhưng vô hình trung lại chọc tức Miranda thêm.
“Tôi nói chưa đủ rõ hay sao? Nối tôi ngay với số 03.55.23.56.67.89. Ngay lập tức. Hay việc đó quá khó?”
Emily chầm chậm lắc đầu vẻ nghi hoặc trong khi vò mảnh giấy có số điện thoại mà chúng tôi vất vả mãi mới kiếm được.
“Không, không, Miranda, tất nhiên là không. Tôi nối máy ngay. Một giây thôi”. Tôi chuyển sang chế độ hội nghị, chọn số và nghe giọng một người đàn ông lớn tuổi nói “A lô!” và lại bấm nút hội nghị lần nữa. “Ông Lagerfeld đấy, Miranda, tôi nối máy," tôi nói như nữ nhân viên tổng đài vào thời xảy ra những câu chuyện trong phim Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên. Rồi thay vì ấn nút “loa” để tôi và Emily cùng nghe, tôi đặt máy luôn. Mấy phút liền chúng tôi ngồi im lặng và tôi phải rất kìm mình để không chửi um lên, rồi lấy khăn lau mồ hôi trán và chầm chậm hít một hơi thật sâu. Emily lên tiếng đầu tiên.
“Để tôi không hiểu đúng việc này: bà ấy có số điện thoại trong tay nhưng không biết bấm số ra sao?”
“Hoặc có thể không thích bấm số chăng?” Tôi chêm vào, không chịu để tuột mất dịp hợp sức chống lại Miranda vì biết rằng rất hiếm khi có cơ hội làm cùng với Emily.
“Lẽ ra tôi phải biết,” cô lắc đầu, cứ như là thất vọng khủng khiếp về chính mình. “Đúng là tôi phải biết mới phải. Bà ấy liên tục gọi tôi để tôi nối máy với những người ở phòng bên hay ngồi tron muốn bữa tiệc của mình diễn ra giữa các bức họa sơn dầu của Rothko, Steel, Kline, và tất nhiên, của Kooning. Màu trắng của bàn tiệc trong sự tương phản có tính toán và chọn lọc với màu sắc tưng bừng của các tấm thảm ngoại cỡ. Lúc quay đầu chiêm ngưỡng sự tương phản giữa trắng và màu ấy (“Robert quả là một thiên tài!”) thì một màu đỏ rực xoáy vào mắt tôi. Trong góc phòng, dưới bức Four Dark in Red của Rothko, Miranda đứng thẳng như tượng trong chiếc áo dài đỏ Chanel đính cườm đặt riêng cho buổi này, cắt lại cho vừa và giặt là. Trong giây phút này tôi hiểu ngay, vì sao bà khăng khăng đòi làm ở bảo tàng này và mặc bộ này, hiểu là bà dùng những bức tranh để tôn chiếc áo lên – khó có lời giải thích nào khác. Gì thì gì, đó là một kết quả hoàn hảo. Trông bà đẹp ngột thở. Bản thân bà là một tác phẩm nghệ thuật sống, cằm vươn ra kiêu hãnh và cơ bắp căng bóng, một bức phù điêu hậu cổ điển trong lụa và cườm của Chanel. Bà không đẹp – mắt hơi nhỏ, tóc búi quá chặt và nét mặt quá đanh – nhưng bà gây một ấn tượng mà tôi không gọi tên được; ngay cả khi cố tỏ ra bình thản và chăm chú ngắm nghía căn phòng, tôi vẫn không rời mắt khỏi bà được.
Như thường tình, tiếng bà dứt tôi khỏi cơn mơ màng: “Aan-dree-aa, chị biết mặt và tên khách đến tối nay chứ? Tôi cho là chị đã xem kỹ chân dung của mọi người. Tôi mong chị tối nay không làm tôi xấu mặt khi chào hỏi ai đó nhầm tên.” Bà nói, mắt nhìn vào hư vô, chỉ có tên gọi cho biết là câu vừa rồi dành cho chính tôi.
“À, vâng, tôi đã xem rồi,” tôi trả lời, suýt nữa thì đứng nghiêm chào, mắt vẫn đăm đăm nhìn bà như bị thôi miên. “Bây giờ tôi cẩn thận xem lại lần nữa cho chắc.” Bà nhìn tôi như muốn nói Thế thì làm đi, con ngố kia. Tôi cố gắng quay mặt đi và ra khỏi phòng. Ilana theo sau.
“Bà ấy vừa nói gì thế?” Cô thì thầm. “Chân dung? Bà ấy có điên không?”
Hai chúng tôi cùng muốn lánh nạn, trốn vào một hành lang tối và kiếm chỗ ngồi trên một chiếc ghế băng cứng. “À, chuyện ấy. Bình thường thì cả tuần nay tôi phải kiếm ảnh khách và học thuộc tên để tối nay chào họ với tên tuổi cụ thể,” tôi giải thích cho Ilana đang tròn mắt nhìn. “Nhưng tối nay bà ấy mới nói là tôi phải có mặt nên lên ô tô tôi chỉ có mấy phút để xem qua mấy cái ảnh. Nhưng sao cơ? Chị ngạc nhiên à? Khi Miranda mở tiệc thì đó là chuyện thường.”
“Tôi cứ nghĩ là hôm nay không có nhân vật nổi tiếng nào đến,” cô nói.
“Chà, không phải bỗng dưng mà dễ nhận ra những tỉ phú có địa ốc ở phía Nam tuyến Mason-Dixon. Như mọi khi thì muốn nhớ mặt khách, tôi chỉ việc vào mạng xem Thời trang Phụ nữ Hằng ngày hay những chỗ tương tự. Tôi định nói là ảnh của nữ hoàng Noor, của Michael Bloomberg hay Yohji Yamamoto nếu cần cũng dễ kiếm. Nhưng Mr. hay Mrs. Packard ở vùng ngoại ô quý phái nào đó của Charleston hay ở xó xỉnh quỷ quái nào đó thì tìm đâu ra. Cô trợ lý kia của Miranda đã săn lùng tại các mục tin vỉa hè địa phương hay trang mạng của các công ty, quả là một việc khó chịu, trong khi nhóm còn lại của văn phòng bận trang điểm tôi cho buổi tối hôm nay.”
Ilana nhìn tôi không chớp mắt. Tôi biết, vì lý do nào đó mà tôi nói như một rôbôt, nhưng không sao ngừng lại được. Vẻ mặt kinh hoàng của Ilana chỉ làm mọi thứ tồi tệ hơn.
“Chỉ còn vài người là tôi không nhận mặt được thôi. Nhưng tôi sẽ làm phép tính loại trừ là xong,” tôi nói.
“Sợ thật, tôi không rõ chị làm thế nào. Tôi mất buổi tối thứ Sáu là đủ bực mình rồi, không thể tưởng tượng lại có thể làm được việc của chị. Làm sao chị để người ta xỉ vả và đối xử với mình như thế?”
Tôi giật mình, Ilana đã đánh trúng chỗ hiểm của tôi với câu hỏi này. Cho đến nay chưa có ai vô cớ nói gì đó tiêu cực về công việc của tôi. Tôi luôn luôn tin là trong số hàng triệu cô gái xin chết để được nhận việc này thì chỉ có tôi là người duy nhất thấy tình cảnh của mình không tuyệt đối lý tưởng. Ánh mắt kinh hoàng của Ilana còn kinh khủng hơn hàng trăm chuyện ngu xuẩn mà tôi trông thấy hằng ngày ở văn phòng; lòng thương hại thuần khiết và thành thực của cô là giọt nước làm tràn ly trong tôi. Những gì tôi cố đè nén trong chừng ấy tháng quần quật làm việc cho một bà chủ vô nhân tính, dành cho thời điểm thích hợp, nay trào lên. Tôi bật khóc.
Ilana càng bị sốc mạnh hơn. “Ôi, tội nghiệp quá, tôi xin lỗi! Tôi không muốn thế. Chị là một thiên thần, nếu chị chịu được mụ phù thủy ấy, chị hiểu tô; tôi không hiểu nổi. “Chỉ đáng gọi là một thử thách, nếu sếp không nói là đánh mất ở thành phố nào. Nhưng tôi cuộc là rồi chúng tôi cũng làm được.”
James làm ra vẻ sợ hãi và đi giật lùi ra khỏi văn phòng. “Tốt thôi, chúc các quý bà một ngày đẹp nhé! Ít nhất thì sếp cũng chưa làm quý bà gục hẳn. Tôi khuyên các quý bà hãy cảm ơn Chúa về chuyện đó, các quý bà trông còn vượng sắc lắm. Tạm biệt…”
“CHỚ VỘI VÃ THẾ, CẬU ĐỒNG CÔ!” Ai đó hét rất to ngoài hành lang, giọng the thé. “TÔI BẢO CẬU QUAY TRỞ LẠI NGAY VÀ NÓI CHO CÁC CÔ GÁI BIẾT, CẬU NGHĨ GÌ KHI MẶC LÊN NGƯỜI THỨ GIẺ RÁCH NÀY SÁNG SỚM NAY!” Nigel véo tai trái của James và kéo anh ta đến giữ hai bàn chúng tôi.
“Kìa, Nigel.” James rên rỉ và làm ra vẻ bực bội, song anh thích thú ra mặt khi được Nigel tóm. “Anh cũng ưa cái áo của tôi đấy chứ!”
“ƯA CÁI ÁO NÀY? CẬU NGHĨ LÀ TÔI ƯA CÁI KIỂU ĐỒ THỂ THAO SẶC MÙI MỒ HÔI MÀ CẬU ĐANG MẶC À? JAMES, CẬU PHẢI NGHĨ LẠI ĐI, OKAY, OKAY?”
“Áo bóng đá mặc bó thì có gì sai? Tôi thấy nó rất hot.” Emily và tôi gật đầu, hùa về phe James. Có thể chiếc áo không hẳn đại diện cho thẩm mỹ cao, nhưng James mặc trông cực sành điệu. Ngoài ra thì, kể cũng khá khó tiêu khi được một người góp ý về mốt mà người này mang quần bò may bó in sọc ngựa vằn, áp pull đen cổ chữ V và sau lưng có trổ hình lỗ khóa để hở cơ lưng cuồn cuộn, đi kèm mũ cói và một vệt thoang thoảng (tôi công nhận là rất khéo!) kẻ mắt bằng phấn đen.
“CẬU BÉ, THỜI TRANG KHÔNG SINH RA ĐỂ CẬU TRƯNG SỞ THÍCH TÌNH DỤC CỦA MÌNH LÊN ÁO. KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG PHẢI THẾ. CẬU MUỐN KHOE MỘT ÍT DA THỊT? HOT ĐẤY. CẬU MUỐN KHOE MỘT CHÚT ĐƯỜNG CONG GỢI CẢM CỦA TUỔI TRẺ? HOT ĐẤY. NHƯNG QUẦN ÁO KHÔNG PHẢI LÀ NƠI CẬU NÓI CHO MỌI NGƯỜI BIẾT CẬU THÍCH LÀM TÌNH Ở TƯ THẾ NÀO. BẠN ƠI, GIỜ ĐÃ HIỂU CHƯA?”
“Được, Nigel,” James đóng vai kẻ thua trận rất thuyết phục để không lộ ra rằng anh rất thích được Nigel chú ý quan tâm.
“ĐỪNG GỌI TÔI LÀ NIGEL, CƯNG ƠI, GIỜ THÌ BIẾN RA CHỖ JEFFY NGAY. NÓI LÀ TÔI CỬ CẬU ĐẾN, VÀ JEFFY HÃY ĐƯA CHO CẬU CÁI ÁO QUÂY KIỂU MỚI CỦA CALVIN MÀ CHÚNG TÔI ĐẶT MUA ĐỂ ĐI CHỤP ẢNH Ở MIAMI, THỨ ĐỒ CHO CÔ NGƯỜI MẪU XINH ĐẸP MẶC ẤY. LẠY CHÚA, THẰNG CHA NÀY NGON QUÁ, NHƯ THANH SÔ CÔ LA SỮA VẬY. ĐI ĐI NÀO, VÀ NHỚ QUAY VỀ CHO TÔI XEM.”
James chạy vụt đi như một con thỏ đồ chơi vừa được lên giây cót và Nigel lại quay sang với chúng tôi. “CÁC CÔ ĐÃ GỬI PHIẾU ĐẶT ĐỒ CHO BÀ ẤY CHƯA?”
“Không, sếp chưa muốn chọn trước khi nhận được catalog.” Emily chán nản đáp. “Sếp nói là hôm nào quay về đặt cũng chưa muộn.”
“ĐƯỢC, NHỚ CHO TÔI BIẾT TIN SỚM ĐỂ TÔI THỐNG NHẤT CHƯƠNG TRÌNH DẠ HỘI.” Ông đi ra kho quần áo, chắc để chộp được James.
Tôi đã từng trải qua quá trình đặt quần áo cho Miranda, quả là không sung sướng gì. Ở các buổi trình diễn thời trang, bà đi đi lại lại giữa các sàn diễn với cuốn sổ ghi chép, qua đó chuẩn bị buổi diễn hoành tráng tại sân khấu duy nhất có trọng lượng Runway, nơi bà cho xã hội New York biết là trong mùa tới phải mặc gì, và giới trung lưu Mỹ muốn được mặc gì. Hồi đó tôi chưa linh cảm được rằng Miranda sở dĩ chú ý theo dõi các mốt trên sàn diễn đến thế, một phần cũng vì ở đó lần đầu tiên bà nhìn thấy những gì chính bà sẽ mặc trong mấy tháng tới.
Sau khi Miranda quay về văn phòng được mấy tuần, Emily được bà đưa danh sách các nhà tạo mốt mà bà muốn xem catalog: những người thuộc diện xét chọn vội cuống lên để nộp sách cho bà, trong khi ảnh chụp thời trang đôi khi còn chưa kịp rửa chứ chưa nói đến chuyện tút sửa và tập hợp thành sách sưu tập mẫu. Trong lúc đó toàn bộ nhân sự của Runway đứng nghiêm sẵn sàng đợi bộ catalog. Đứng đầu dĩ nhiên là Nigel, với nhiệm vụ thẩm định chung và chọn đồ riêng cho Miranda. Nếu cần, ông lấy thêm một người ở bộ phận phụ kiện giúp ông chọn giày và túi tương thích, đôi khi cả một biên tập viên thời trang cử đến để thống nhất kết luận, nhất là khi có hàng trọng lượng hơn như măng tô lông thú hay áo dài dạ hội. Khi các ban phòng đã tập hợp tất cả những hàng được đặt thành một tổng thể thuyết phục thì thợ may riêng của Miranda đóng đô tại Runway mấy ngày liền để sửa những gì cần thiết. Không ai lấy được đồ ra nữa vì Jeffy đã dọn toàn bộ kho quần áo để Miranda và thợ may chiếm toàn bộ phòng. Lần thử áo đầu tiên, tình cờ tôi đi qua và nghe Nigel rống lên: “MIRANDA PRIESTLY! VỨT NGAY CÁI GIẺ RÁCH ẤY XUỐNG! MẶC ĐỒ ĐÓ BÀ TRÔNG NHƯ CON NGỢM, NHƯ MỘT CON CAVE RẺ TIỀN!” Tôi dán tai vào cánh cửa để nghe – liều vô cùng vì cửa có thể bật ra bất cứ lúc nào – cốt chỉ để chứng kiến cảnh bà ta hạ nhục Nigel theo kiểu rất riêng không ai bắt chước được. Thay vào đó, tôi không nghe thấy gì ngoài lời làu bàu đồng ý và tiếng quần áo sột soạt kéo qua đầu.
Đến giờ thì tôi đã phục vụ Miranda được một thời gian, dường như niềm hân hạnh được đặt quần áo mới cho bà sẽ chuyển sang tôi. Mỗi năm bốn lần, chính xác như máy đồng hồ, bà giở xem các catalog hàng mẫu, tựa như chúng chỉ in ra cho riêng bà, và chọn đồ bộ của Alexander McQueen và quần của Balenciaga như người ta chọn rau ở siêu thị. Một mảnh giấy vàng dính vào chiếc quần vải thun cắt bó của Fendi, một mảnh nữa vào giữa bộ đồ của Chanel, mảnh thứ ba với chữ “KHÔNG” to đùng dán đè lên chiếc áo quây bằng lụa. Cứ thế tiếp tục, trang này qua trang khác, mảnh giấy này tiếp mảnh giấy kia, cho đến khi toàn bộ trang phục cho mùa tới được bà chọn xong, trực tiếp từ sàn diễn – nhiều thứ thậm chí còn chưa may xong.
Tôi đã quan sát Emily khi fax đơn đặt hàng cho Miranda đến các nhà tạo mốt khác nhau. Cột để điền cỡ và màu bao giờ cũng để trống. Ai biết giá trị Manolo của mình thì cũng phải biết Miranda ưa loại nào. Nhưng chỉ chọn đúng cỡ thì chưa xong – khi mọi thứ chuyển tới Runway, chúng đều phải cắt ngắn hay chiết bớt để trông như đồ may đo. Khi toàn bộ trang phục đã đặt, gửi đến, chữa lại cho vừa khít và được lái xe riêng chở bằng Limousine đến nhà thì Miranda mới nhả đồ của mùa cũ ra: lúc văn phòng chất đầy túi rác đựng đồ Yves, Celine và Helmut Lang. Đồ cũ nhất từ bốn đến sáu tháng, giỏi lắm mới được mặc một, hai lần hoặc chưa bao giờ đụng đến người, và tất cả đều thời trang kinh khủng đến nỗi đôi khi cũng chưa có mà mua ở đa số các cửa hàng. Nhưng đối với Miranda, nếu đó là đồ của mùa trước thì chúng chỉ có giá trị như đồ ăn thiu.
Năm thì mười họa tôi cũng kiếm được thứ mặc vừa, một chiếc áo quây hay áo khoác ngoại cỡ, nhưng nói chung không có nhiều triển vọng vì mọi thứ đều cỡ 32. Thường là chúng tôi phân phát đồ này đến người quen có con gái dưới 12 tuổi là những người duy nhất khả dĩ mặc vừa. Tôi tưởng tượng ra cảnh những đứa bé gái với thân hình con trai vung vinh đi lại trong chiếc váy Prada hay áo hai dây quyến rũ của Dolce & Gabbana. Nếu thấy được một thứ gì thực sự thời thượng thì tôi giải phóng nó khỏi túi rác và cất xuống dưới bàn, đợi đến khi lén lút đem ra được khỏi văn phòng. Chỉ cần đảo nhanh vài lần vào trang eBay hay tạt vào mấy cửa hàng đồ cũ sang trọng ở đại lộ Madison là tôi đã cải thiện đồng lương còm của mình được chút đỉnh rồi. Không phải là ăn trộm, tôi nghĩ thế, mà là sử dụng tài sản được giao phó một cách có ích.
Miranda còn gọi điện sáu cuộc nữa giữa sáu và chín giờ tối – đối với bà thì nửa đêm là ba giờ sáng – để sai nối máy với một số người đã đến Paris từ lâu. Tôi hờ hững thi hành, không có gì trục trặc lớn, rồi xếp đồ đạc để chuồn nhanh trước khi điện thoại réo chuông. Mãi đến khi mệt mỏi khoác măng tô lên người, tôi mới chợt thấy mảnh giấy mà tôi đã dán cạnh màn hình để không thể quên được – nhưng rồi vẫn cứ quên: “GỌI ĐIỆN CHO A, 3.30 CHIỀU”. Đầu óc tôi chợt chao đảo, kính áp tròng đã từ lâu khô quắt lại thành hai miếng thủy tinh nhỏ tí cứng quèo, và bây giờ còn thêm tiếng mạch đập thình thịch trong đầu. Không phải đau nhói, chỉ là cảm giác khó ở ngột ngạt không rõ ở đâu, nhưng lờ mờ, nghiệt ngã, ngày càng rõ hơn cho đến khi nó thương hại khiến tôi ngất xỉu đi hay làm vỡ bung đầu ra. Mê muội vì những cuộc điện thoại xuyên lục địa và cuống cuồng lo sợ mà tôi quên dành ba mươi giây để làm cái việc Alex nhờ. Đơn giản là quên bẵng đi một việc dễ dàng như gọi lại cho một người chua bao giờ cần đến mình chuyện gì cả.
Tôi ngồi xuống bên bàn trong văn phòng quạnh quẽ và tối đèn và cầm lấy ống nghe còn nhớp dính mồ hôi bởi cuộc nói chuyện với Miranda cách đây ít phút. Điện thoại ở nhà Alex rung chuông rất lâu rồi bật sang ghi âm, nhưng gọi di động thì Alex bắt điện ngay.
“Chào em.” Anh nhìn số máy hiện lên và biết tôi gọi. “Hôm nay ra sao?”
“Như mọi hôm thôi, không quan trọng. Alex, em muốn xin lỗi là lúc ba rưỡi không gọi lại cho anh. Em không nên bắt đầu giải thích thì hơn, ở đây như một trại điên, bà ấy liên tục gọi điện và…”
“Thôi được rồi, không có gì ghê gớm cả. Em này, hiện tại không tiện lắm. Mai em gọi anh được không?” Có vẻ như anh không tập trung, giọng anh nghe xa lắc như gọi từ bốt điện thoại công cộng ở một làng ven biển đầu kia thế giới.
“À, vâng, nhưng mọi việc okay cả chứ? Anh muốn nói nhanh nhanh cho em biết anh định nói gì lúc chiều à? Em thực sự lo là có chuyện không ổn.”
Em trai của Mr. Tomlinson, thật ra là một hình ảnh đầy ấn tượng với mái tóc bạch kim, mắc lỗi trầm trọng là mặc áo đuôi tôm trắng (giữa trời tháng Năm!), nhét khăn ca rô vào túi ngực và chống ba toong. Cô vợ chưa cưới của ông khoác một cơn ác mộng làm bằng vải dệt màu xanh ngọc xếp li lùng bùng, nó đẩy bộ ngực vĩ đại của cô ra ngoài cổ khoét rộng đến nỗi cô có nguy cơ bị đôi gò silicon ép cho nghẹt thở. Bông tai bằng kim cương to như chén xúp treo lủng lẳng ở tai, nhưng không ăn thua gì so với hạt xoàn lấp lánh bên tay trái. Tóc cô tẩy trắng bằng hóa chất, như hàm răng, chân cô dận đôi giày có gót nhỏ và cao chóng mặt, trông cô lênh khênh đi lại như một cầu thủ bóng chày sắp về hưu non.
“Các bạn yêu mến, tôi rất vui khi các bạn đến dự bữa tiệc nhỏ của chúng tôi. Ai mà không thích tiệc, đúng không ạ?” Miranda véo von giọng mũi. Quý bà Tomlinson tương lai trông như sắp lăn ra ngất khi đứng sát Miranda Priestly. Nỗi phấn khích của cô làm tất cả khó xử, và thế là cả đoàn người đáng thương lục tục theo Miranda ra thang máy. Phần còn lại của buổi tối diễn ra đúng như lúc bắt đầu. Tôi nặn óc ra tên của mọi người có mặt và lạng tránh được mọi cái bẫy nguy hiểm. Đám diễu hành của áo đuôi tôm trắng, lượt là, tóc vấn cao, trang sức hoành tráng và phụ nữ vừa qua ngưỡng dậy thì cứ mỗi giờ lại giảm giá trị đối với tôi, chỉ có Miranda là vẫn hút hồn tôi. Một quý bà chính cống, đối tượng ghen tị và ganh đua của mọi phụ nữ có mặt ở bảo tàng tối hôm đó, luôn thèm khát vị thế và sự bặt thiệp của bà tuy biết rằng hai thứ đó không mua được bằng tiền.
Tôi mỉm cười thật lòng khi bà cho tôi về lúc giữa bữa ăn, như thường lệ không có một lời cám ơn hay chúc ngủ ngon (“Aan-dree-aa, tối nay chúng tôi không cần chị nữa. Chị có thể về nhà.”) Tôi nhìn quanh tìm Ilana, nhưng cô đã biến mất. Mười phút sau khi tôi gọi thì xe đến, thật ra tôi đã suy tính có nên đi tàu điện ngầm hay không, nhưng chiếc áo Oscar và đôi chân tôi phản đối kịch liệt. Mệt mỏi nhưng hài lòng, tôi ngã người xuống ghế sau.
Trên đường tới thang máy, tôi qua trước mặt John; ông rút dưới bàn ra một phong bì nâu đưa tôi. “Vừa đến cách đây mấy phút. Có đề Thư khẩn.” Tôi cám ơn ông và ngồi xuống góc sảnh, ngạc nhiên vì nhận được thư lúc mười giờ tối thứ Sáu. Tôi xé phong bì, rút một tờ thiếp ra:
Andrea thân mến,
Rất vui được gặp chị tối nay! Tuần sau mình cùng đi ăn sushi hay thứ gì khác nhé? Trên đường về nhà tôi đem thư này qua luôn, vì tôi nghĩ là chị cần một chút giải trí, sau một buổi tối như chúng mình vừa có hôm nay. Vui vẻ nhé!
Ôm hôn chị,
Ilana
Trong bì thư là ảnh con rắn Miranda mà Ilana đã phóng to lên cỡ A4. Tôi ngắm kỹ bức hình mấy phút liền trong khi xoa bóp đôi chân được giải phóng khỏi đôi Manolo, nhìn vào đôi mắt Miranda. Chúng mang vẻ dọa nạt và hèn hạ và như con người xấu xa mà tôi thấy mặt mỗi ngày. Nhưng tối nay chúng cũng biểu lộ sự buồn bã và cô đơn. Dán nó lên cửa tủ lạnh làm trò đùa với Alex và Lily cũng không làm chân tôi bớt đau hoặc trả lại tối thứ Sáu bị mất. Tôi xé tờ tranh rồi đi cà nhắc lên tàu.