Chương 17

    
ắn đã không gội đầu suốt ba ngày liên tiếp. Hắn muốn mái tóc có vẻ bóng dầu. Hắn cũng không cạo râu ria gì cả. Còn quần áo bên ngoài, hắn chuyển từ bộ đồ ngủ nhẹ bằng vải bông trở lại với bộ đồ rộng thùng thình cũ màu nước biển, nay đã nhàu nát. Hayani hứa kiếm cho hắn một bộ mới. Thế nhưng hôm nay, hắn cần bộ nhàu nát này. Hắn đi một chiếc tất màu trắng vào chân bên phải, nhưng mà có một vết bỏng nặng ngay phía trên mắt cá, và hắn muốn mọi người nhìn thấy. Bởi vậy hắn lại cởi ra. Chỉ một đôi dép bằng cao su màu đen dùng đi trong phòng tắm mà thôi.
Ngày hôm nay người ta sẽ trưng hắn ra. Cả thế giới đang chờ đợi.
Sandy đến vào lúc mười giờ với một cặp kính râm rẻ tiền, thể theo yêu cầu của hắn, cùng một cái mũ đen có mang dòng chữ Các vị thánh New Orleans. “Cảm ơn," Patrick nói trong khi hắn đứng trước gương trong phòng tắm ngắm nghía cặp kính và sửa sang cái mũ.
Bác sĩ Hayani đến sau đó vài phút, và Patrick giới thiệu hai người với nhau. Patrick đột nhiên cảm thấy bồn chồn và váng đầu. Hắn ngồi xuống mép giường, đưa tay vuốt tóc và cố gắng thở chầm chậm. “Tao không bao giờ nghĩ lại có ngày hôm nay cả, mày biết không,” hắn lầm bầm với cái sàn nhà. “Không bao giờ.” Tay bác sĩ và người luật sư của hắn nhìn nhau không còn biết nói gì.
Hayani ra lệnh mang tới một liều thuốc làm dịu thần kinh khá mạnh, và Patrick uống liền cả hai viên. “Có thể là tôi sẽ ngủ qua mọi chuyện,” hắn nói.
"Tôi sẽ lo phần trình bày,” Sandy nói. “Cứ cố gắng và nghỉ ngơi đi.”
“Hẳn là phải thế rồi,” Hayani nói.
Một tiếng gõ cửa, và cảnh sát trưởng Sweeney bước vào với đám phụ tá đông đảo đủ để đàn áp một cuộc nổi loạn. Những lời chào hỏi cứng nhắc. Patrick đội chiếc mũ Các thánh kia lên, đeo cặp kính râm mới, đen thui và to tướng, rồi chìa hai cổ tay ra cho người ta khóa.
“Cái gì kia?” Sandy lên tiếng, tay chỉ vào cặp khóa chân mà một cảnh sát đang cầm.
“Khóa chân,” Sweeney đáp.
"Tôi không nghĩ vậy,” Sandy nói gay gắt. “Anh ta còn có những vết bỏng ở trên mắt cá.”
“Đúng thế,” bác sĩ Hayani mạnh bạo nói, sốt ruột muốn được vào cuộc. “Đây,” anh ta khẳng định, chỉ vào mắt cá bên trái của Patrick.
Sweeney cân nhắc trong một khoảnh khắc, và sự lưỡng lự này làm cho ông ta phải trả giá. Sandy lấn tới: “Nào, thưa ông cảnh sát trưởng, hắn có khả năng chạy trốn không đấy? Hắn bị thương, bị khóa tay, với tất cả những người này ở xung quanh. Hắn sẽ làm chuyện quái gì được hả? Vùng chạy ư? Các ông không đến nỗi quá chậm chạp, phải không nào?”
“Tôi sẽ gọi cho ông chánh án, nếu cần,” bác sĩ Hayani bực dọc nói.
“Nhưng mà hắn đến đây với chiếc khóa chân,” viên cảnh sát trưởng nói.
“Đó là FBI, Raymond,” Patrick lên tiếng. “Và đó là cái cùm chứ không phải là khóa chân nữa. Thứ đó làm đau lắm.”
Chuyện khóa chân cho qua, và Patrick được dẫn ra hành lang, nơi những người mặc đồng phục màu nâu sẫm im bặt khi thấy bóng hắn. Họ tập hợp lại xung quanh hắn và cả đám từ từ đi ra thang máy. Sandy đi ở bên trái hắn, nhẹ nhàng đỡ một bên khuỷu tay.
Chiếc thang máy quá chật cho cả đám tùy tùng của hắn. Những người không vào được vội vã chạy xuống bằng cầu thang bộ và gặp lại nhau ở bên dưới nhà, rồi cùng đi qua khu tiếp đón, qua những cánh cửa lớn bằng kính, bước ra ngoài trời trong bầu không khí ấm áp của mùa thu. Họ đưa hắn ngồi vào trong một chiếc Suburban đen mới tinh với phù hiệu của cảnh sát quận nổi bật hai bên thân xe, và chiếc xe lập tức chuyển bánh, theo sau là một chiếc Suburban trắng chở đám bảo vệ. Tiếp theo sau là ba chiếc xe tuần tiễu mới được cọ rửa bóng nhoáng. Phía đằng trước là hai chiếc xe tuần tiễu, dẫn đầu đoàn xe vượt qua các trạm kiểm soát quân sự để tiến ra thế giới dân sự ở bên ngoài.
Qua cặp kính râm to tướng, Patrick nhìn ngắm tất cả. Những đường phố mà hắn đã qua lại cả ngàn lần. Những ngôi nhà quen thuộc. Họ rẽ lên xa lộ 90 và kia là Vịnh, mặt nước yên bình c='height:10px;'>
“Còn thằng cha luật sư của hắn thì sao?" Sau cùng Benny hỏi. “Chúng ta không thể nghe trộm ở văn phòng, nghe trộm điện thoại, để lén biết được những cuộc nói chuyện giữa hắn ta với thân chủ của hắn ư? Chắc chắn là chúng sẽ nói chuyện về chỗ tiền của tôi.”
“Đó là một khả năng. Ông nói nghiêm túc đấy chứ ”
“Nghiêm túc? cả chín mươi triệu đôla của tôi, Jack. Chỉ trừ có một phần ba cho cái đám luật sư hút máu kia thôi. Lẽ dĩ nhiên là tôi nghiêm túc.”
“Có thể hơi phức tạp đấy. Ông biết là cái thằng cha luật sư đó chẳng ngu gì. Và thân chủ của hắn ta cũng rất thận trọng.”
“Nào, Jack. Ông được coi là tay cừ nhất cơ mà. Chắc chắn là người ta cũng phải trả tiền cho ông cao nhất.”
“Chúng ta sẽ thử theo dõi hắn ta trong vài ba ngày, xem quy luật của hắn thế nào. Không vội vàng gì. Trước mắt, thân chủ của hắn sẽ không di chuyển đi đâu cả. Lúc này đây thì tôi quan tâm nhiều hơn tới việc rũ sạch cái đám chấy rận Liên bang kia khỏi đầu tóc mình đã. Tôi cần phải làm một vài việc lẻ tẻ chẳng hạn như mở lại văn phòng và dọn dẹp những thiết bị nghe trộm ra khỏi các điện thoại của tôi.”
Benny Aricia xua tay ngắt lời lão. “Tôi sẽ phải trả bao nhiêu?”
“Chưa biết. Chúng ta sẽ nói về chuyện này sau. Ông ăn cho xong đi đã. Luật sư họ đang đợi.”
Stephano đi ra trước, bước trên hè phố, và lịch sự vẫy tay chào hai anh chàng nhân viên đặc biệt đang đậu xe trái phép trên phố I, gần kề khách sạn. Lão rảo bước tới văn phòng tay luật sư của mình, cách đó bảy dãy phố.
Benny đợi mười phút sau rồi gọi tắcxi.
Họ mất cả buổi chiều trong phòng họp, với các luật sư và các phụ tá. Các thỏa thuận được trao đổi qua các luật sư của Stephano và của FBI. Sau cùng thì cả hai phía đã đạt được những điều họ muốn. Những tố cáo hình sự đối với Stephano được từ bỏ và cũng sẽ không được dùng để tiếp tục tra cứu đối với các khách hàng của lão. Phía FBI nhận được một lời hứa bằng văn bản rằng Stephano sẽ nói ra tất cả những gì lão biết về vụ tìm kiếm và bắt giữ Patrick Lanigan.
Thực ra thì Stephano đã dự tính sẽ nói hầu hết những gì lão biết. Vụ tìm kiếm này đã chấm dứt; bởi vậy cũng chẳng còn gì để che giấu. Cuộc thẩm vấn kia cũng không mang lại mấy kết quả ngoài cái tên của con bé luật sư người Braxin, kẻ đang giữ chỗ tiền. Giờ đây thì cô ta đã biến mất, và lão thực sự nghi ngờ FBI sẽ không có thời gian hay ý muốn tìm kiếm cô ta. Vì sao mà họ lại phải làm điều đó nhỉ? Chỗ tiền kia đâu có phải là của họ.
Và trong thâm tâm lão rất muốn FBI thôi dòm ngó gì đến cuộc sống của lão. Bà vợ lão rất phiền muộn, và sức ép ngay ở nhà lão là khủng khiếp. Nếu lão không mau chóng mở lại được văn phòng thì hẳn lão sẽ mất nghiệp.
Bởi vậy, lão đã dự tính nói với họ những gì họ muốn nghe, tất nhiên chỉ là hầu hết chứ không là toàn bộ câu chuyện. Lão sẽ nhận tiền của Benny, và truy lùng con bé kia thêm một thời gian nữa, nhỡ đâu lại gặp may. Và lão sẽ phái một nhóm tới New Orleans để giám sát tay luật sư của Lanigan. FBI đâu cần phải biết những chi tiết nhỏ bé này.
Do không còn chỗ trong Tòa nhà Liên bang ở Biloxi, Cutter đề nghị cảnh sát trưởng Sweeney kiếm cho một chỗ ở nhà tù của quận. Sweeney miễn cưỡng đồng ý, dù rằng cái ý nghĩ về việc FBI sử dụng các phòng làm việc của ông ta không phải là dễ chịu gì. Ông ta cho dọn dẹp một phòng kho và đặt vào đó một cái bàn và mấy cái ghế. Nó được đặt tên là Phòng Lanigan.
Chẳng có gì mấy để mà lưu giữ ở đó. Không có ai bị tình nghi giết người khi Patrick giả chết, và bởi vậy không có cố gắng nào trong việc thu thập các dấu vết, ít nhất là trong sáu tuần lễ đầu tiên. Khi chỗ tiền kia biến mất, những nghi ngờ tăng lên, nhưng tới lúc đó thì các dấu vết lại đã mờ nhạt.
Cutter và Ted Grimshaw, phụ trách điều tra của quận Harrison, thận trọng xem xét và kiểm kê những chứng cớ rất nghèo nàn của họ. Có mười tấm ảnh màu lớn chụp chiếc Chevy Blazer cháy rụi, và họ gắn chúng lên trên tường. Những tấm ảnh này là do Grimshaw chụp.
Vụ cháy lúc đó cực kỳ khủng khiếp; bây giờ thì họ đã biết là vì sao: Rõ ràng là Patrick đã nhồi vào trong xe những thùng nhựa đựng đầy xăng. Điều đó giải thích cho việc những khung ghế bằng nhôm đã bị nóng chảy, các cửa kính bị nổ tung, phần bảng điều khiển cũng rã hết ra và phần còn lại của cái thi hài kia là rất ít. Sáu tấm ảnh chụp cái thi thể mà nguyên trạng chỉ là một đống tro than nhỏ với một nửa mẩu xương chậu nhô ra. Chiếc Blazer đã lật vài vòng sau khi rời khỏi mặt đường và rớt xuống một hẻm núi.
Cảnh sát trưởng Sweeney giữ nó trong một tháng, rồi thì mang bán sắt vụn cùng với ba cái xác xe khác, về sau, ông ta đã hối tiếc về việc đó.
Dăm bảy tấm ảnh chụp hiện trường quanh chiếc xe, những đám cây cỏ cháy đen. Những người tình nguyện đã phải mất một tiếng đồng hồ để dập tắt đám cháy đó.
Thật tiện làm sao khi mà chính Patrick cũng muốn được hỏa thiêu. Theo Trudy, và họ có một tuyên bố bằng văn bản của chị ta một tháng sau đám tang, Patrick đã đột ngột cho rằng hắn muốn được hỏa thiêu và tro hài cốt được chôn ở Locust Grove, cái nghĩa địa xinh xắn nhất trong quận. Quyết định của hắn được đưa ra suýt soát mười một tháng trước khi hắn biến mất. Thậm chí hắn còn sửa lại di chúc và đưa vào đó yêu cầu người lo việc mai táng hắn, Trudy, hoặc trong trường hợp chị ta chết cùng với hắn thì là Karl Huskey, tiến hành việc hỏa táng này. Hắn cũng đã đề cập tới các chi tiết cụ thể cho đám tang của mình
Lý do của hắn về sự chuẩn bị này là cái chết không được chuẩn bị trước của một thân chủ. Gia đình đã phải tranh cãi gay gắt về việc chôn cất như thế nào, và Patrick đã bị lôi cuốn vào cuộc cãi cọ này. Hắn thậm chí còn buộc Trudy chọn mộ phần sẵn. Chị ta đã chọn lô đất kế ngay bên lô đất của hắn, nhưng cả hai đều biết rằng chị ta sẽ nhanh chóng di chuyển nó nếu như có điều gì xảy ra với hắn trước.
Người lo dịch vụ lễ tang sau này nói với Grimshaw rằng chín mươi phần trăm công việc hỏa táng đã diễn ra ngay trong chiếc Blazer rồi. Khi ông ta cân lại lượng tro sau khi thiêu những gì còn lại trong một tiếng đồng hồ ở nhiệt độ hai nghìn độ, chỉ số là một cân tám, một lượng nhỏ nhất mà ông ta từng biết đến. Ông ta không thể nói gì về cái thi thể đó — nam, nữ, da đen, da trắng, già, trẻ, sống hay chết trước khi chiếc xe bốc cháy. Đơn giản là không thể. Mà thật lòng thì ông ta cũng chẳng cố gắng làm điều đó làm gì.
Họ không có xác, không có báo cáo khám nghiệm tử thi, không hề biết người chết kia là ai. Ngọn lửa là cách chắc chắn nhất để thủ tiêu các bằng chứng, và Patrick đã làm một công việc tuyệt vời trong cái việc che giấu các vết tích của hắn.
Cuối tuần đó, hắn đã ở trong ngôi nhà đi săn cũ gần thị trấn Leaf nhỏ bé, thuộc quận Greene, nằm ngay bìa rừng quốc gia De Soto. Hắn và một người bạn ở Jackson, học cùng nhau thời ở trường luật, đã mua ngôi nhà này hai năm về trước với những kế hoạch nhằm thay đổi không khí. Nó hoàn toàn thô sơ. Họ săn hươu về mùa thu và mùa đông, và săn gà tây rừng vào mùa xuân. Với những chuyện cơm không lành canh chẳng ngọt trong đời sống vợ chồng, hắn ngày càng dành nhiều dịp nghỉ cuối tuần ở ngôi nhà đi săn này hơn. Nó chỉ cách xa có một giờ ruỡi chạy xe. Hắn nói là hắn có thể làm việc được ở đó. Rất vắng lặng và yên tĩnh. Người bạn đồng sở hữu của hắn thì gần như đã quên hẳn ngôi nhà này.
Trudy làm bộ khó chịu về những vắng mặt cuối tuần của hắn, thế nhưng Lance thường lẩn quất đâu đó, chỉ đợi lúc Patrick rời khỏi thị trấn.
Đêm chủ nhật, ngày 9 tháng Hai năm 1992, Patrick gọi báo cho vợ biết là hắn đang bắt đầu rời khỏi ngôi nhà đi săn kia. Hắn đã hoàn tất một hồ sơ phức tạp cho một vụ kháng cáo, và hắn mỏi mệt. Lance còn nán lại chừng một giờ nữa trước khi biến mất vào trong bóng đêm.
Patrick dừng lại ở cửa hiệu Verhall’s Country bên xa lộ 15, trên ranh giới giữa hai quận Stone và Harrison. Hắn mua mười hai galông xăng và trả mười bốn đôla hai mươi mốt xu bằng thẻ tín dụng. Hắn nói chuyện với bà Verhall, một người phụ nữ lớn tuổi mà hắn đã trở nên quen biết. Bà ta biết nhiều tay súng săn đi ngang qua đó, đặc biệt là những người hay khoe khoang về những thứ kiếm được trong rừng, giống như Patrick. Sau này, bà ta nói rằng hắn ở tâm trạng vui vẻ, mặc dù là hắn kêu mệt bởi vì đã phải làm việc suốt dịp nghỉ cuối tuần. Bà ta nhớ lại là đã nghĩ rằng đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Một giờ sau, bà ta nghe thấy tiếng xe cảnh sát và xe cứu hỏa chạy ngang qua.
Cách đó tám dặm, người ta thấy chiếc Blazer của Patrick đang ngập trong ngọn lửa điên cuồng dưới một khe núi, cách mặt đường chừng bảy chục mét. Một người lái xe tải đã nhìn thấy ngọn lửa đầu tiên, và đã cố đến sát được chừng hơn chục mét thì xém cả lông mày. Anh ta gọi vô tuyến điện cầu cứu, và rồi ngồi trên một gốc cây, bất lực nhìn ngọn lửa. Chiếc Blazer nằm lật nghiêng về bên phải với phần nóc quay về phía xa, bởi vậy không thể nào nhìn thấy có ai đó ở trong xe hay không. Dù sao thì cũng vậy cả. Dứt khoát là không thể nào cứu được.
Cho đến khi viên cảnh sát quận đầu tiên đến nơi, đám lửa đã dữ dội đến mức gần như không còn nhìn được hình dáng chiếc xe đ&h cô ta. Một cô gái dịu dàng với một giọng nói dịu dàng. Thật là đã bốn năm rồi ư?
“Tại đâu?” Viên cảnh sát trưởng hỏi.
“Ngay đây,” cô ta đáp. “Trong vài phút nữa.”
“Anh có muốn gặp ông Thẩm phán không, Patrick?” Sandy hỏi. Đó không phải là điều bắt buộc. Trong hoàn cảnh bình thường thì đó là việc hoàn toàn bất thường.
“Tất nhiên.” Patrick rất muốn gặp Karl Huskey.
Cô ta quay đi và khép cửa lại.
"Tôi ra ngoài một chút,” Sweeney nói. “Tôi muốn hút điếu thuốc.”
Sau cùng, chỉ còn lại Patrick và luật sư của hắn. Patrick đột nhiên ngẩng phắt lên. “Có vài chuyện thế này. Anh có nghe tin tức gì của Leah Pires không?”
“Không,” Sandy đáp.
“Cô ấy sẽ liên lạc ngay đấy, hãy sẵn sàng. Tôi đã viết cho cô ấy một bức thư dài, và tôi muốn nhờ anh chuyển giúp”.
“Được.”
“Thứ hai. Có một thiết bị chống nghe trộm gọi là DX-130, do Hãng điện tử Hàn Quốc Lo Kim sản xuất. Giá chừng sáu trăm đôla; kích cỡ bằng độ một chiếc máy ghi âm cầm tay. Kiếm một cái, và mang nó theo bất kỳ lúc nào chúng ta gặp nhau. Chúng ta sẽ phải dọn sạch phòng và điện thoại trước mỗi cuộc nói chuyện. Còn nữa, hãy thuê một hãng thám tử có tên tuổi ở New Orleans để kiểm tra văn phòng của anh hai lần một tuần. Rất đắt đấy, nhưng tôi sẽ trả tiền. Có câu hỏi gì không?”
“Không.”
Một tiếng gõ cửa khác, và Patrick lại rũ xuống. Thẩm phán Karl Huskey một mình bước vào, không áo choàng, với chiếc kính trắng trễ xuống tới tận ngang mũi. Mái tóc hoa râm cùng đôi mắt nhăn nheo làm cho ông có vẻ già hơn và thông thái hơn nhiều so với cái tuổi bốn mươi tám, và ông thích thế.
Patrick ngước nhìn và đã mỉm cười khi Huskey chìa tay ra. “Rất mừng được thấy anh, Patrick,” ông nói vẻ cởi mở trong khi hai người bắt tay, với cái khóa tay kêu lanh canh. Huskey muốn ôm hôn, thế nhưng với sự kiềm chế nghề nghiệp, ông chỉ dừng lại ở một cái bắt tay nhẹ nhàng.
“Khỏe không, Karl?” Patrick hỏi và vẫn ngồi nguyên trên ghế.
“Bình thường. Còn anh thì sao?”
“Cũng đỡ hơn, và thật mừng là được gặp anh. Ngay cả trong hoàn cảnh này.”
“Cảm ơn. Tôi không thể hình dung dược... ”
“Chắc là trông tôi khác lắm phải không?"
“Đúng thế. Tôi không dám chắc là tôi sẽ nhận ra được anh ở ngoài phố?"
Patrick chỉ mỉm cười.
Cũng giống như một vài người khác còn có chút tình bạn bè dành cho Patrick, Huskey cảm thấy bị phản bội, thế nhưng lại thấy mừng nhiều hơn khi biết người bạn mình chưa chết. Ông rất lo ngại về cái tội danh giết người. Vụ ly hôn và những kiện tụng dân sự kia có thể chống đỡ được, nhưng giết người thì...
Do quan hệ bạn bè của họ, Huskey sẽ không chủ trì phiên tòa xét xử. Ông dự định xử lý những vấn đề sơ bộ, rồi sẽ đứng sang một bên trước khi phải có những phán quyết quan trọng. Người ta vốn đã lắm xì xầm về chuyện này.
"Tôi cho rằng anh sẽ tuyên bố mình vô tội,” ông ta nói.
“Phải, đúng là thế.”
“Vậy thì sẽ có phiên xuất hiện trước tòa thường lệ đầu tiên. Tôi sẽ bác bỏ việc đóng tiền thế chân bởi vì đây là một vụ giết người.”
“Tôi hiểu. Karl."
"Tất cả sẽ diễn ra trong không đầy mười phút.”
"Tôi đã từng ở đây. Mỗi cái ghế ngồi là khác thôi mà.”
Mười hai năm ngồi ghế quan tòa, Thẩm phán Huskey thường phải lấy làm ngạc nhiên về mức độ thông cảm mà ông dành cho những người bình thường đã phạm phải các tội ác. Ông nhìn thấy cái vẻ mặt con người trong nỗi chịu đựng của họ. Ông thấy tội lỗi đang nhai tươi nuốt sống họ. Ông đã đưa vào tù hàng trăm người, những người mà nếu như có cơ hội thì họ hẳn sẽ rời khỏi tòa án của ông và không bao giờ tái phạm nữa. Ông muốn được giúp đỡ, muốn chìa tay ra, muốn dung thứ. Nhưng đây lại là Patrick. Ông xúc động đến suýt phát khóc lúc này. Người bạn cũ - tay bị xích, áo quần như hề, thay hình đổi dạng, lo lắng, và sợ hãi khôn xiết. Ông muốn được mang hắn về nhà, cho hắn một bữa ăn ngon lành, để hắn nghỉ ngơi và giúp hắn làm lại cuộc đời.
Ông quỳ một chân xuống cạnh hắn, và nói, “Patrick, vì những lý do rõ ràng, tôi không thể nào xử vụ này được. Ngay lúc này, tôi sẽ lo một số việc ban đầu để bảo đảm rằng anh được bảo vệ. Tôi vẫn là bạn của anh. Đừng ngthấy những tiếng nói và những tiếng động không đâu vào đâu. Những tiếng nói không phải vọng tới từ ngoài hành lang mà là xuất phát từ ngay bên trong căn phòng. Phải chăng là do những thứ thuốc, có thể là một loạt thứ, Patrick. Thuốc này, sự mệt mỏi này, những chấn thương mà hắn vừa phải trải qua, sự tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần.
Cứ như thế, họ nói chuyện trong chừng một giờ.

Truyện Đồng Đạo GIỚI THIỆU NỘI DUNG Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 circ;ng ngăn được những câu chuyện không đâu vào đâu của họ về Patrick thế này, Patrick thế khác. Cũng giống như vậy, Trudy đột nhiên có những người bạn mới, ghé tới để nguyền rủa cái người đàn ông đã làm cho trái tim ả tan nát và bỏ rơi cả con bé Ashley Nicole bé bỏng, vàng ngọc.
Họ đọc truyện và xem báo, cố làm ra vẻ chán chường, như thể là họ thực sự không muốn có mặt ở đó. Có sự chuyển động chỗ các phụ tá và mõ tòa ở phía trên và căn phòng lập tức trở nên yên lặng. Những tờ báo nhất tề được hạ xuống. Cánh cửa gần chỗ ngồi của hội thẩm đoàn mở ra và những bộ đồng phục màu nâu bước vào. Cảnh sát trưởng Sweeney xuất hiện, giữ Patrick ở nơi khuỷu tay, rồi hai cảnh sát nữa, và sau cùng là Sandy.
Hắn kia rồi! Những cái cổ vươn cao lên, những cái đầu ngả sang bên này, bên kia. Các họa sĩ vẽ tranh trong phòng xử án bắt tay vào việc.
Patrick bước chầm chậm tới bàn bị cáo, đầu cúi xuống, mặc dù sau cặp kính đen hắn vẫn đang quan sát đám khán giả kia. Hắn thoáng nhìn thấy Havarac ở sát bức tường đằng sau, bộ mặt giận dữ của ông ta nói lên tất cả. Và ngay trước khi ngồi xuống, hắn nhìn thấy Cha Phillip, người lo phần hồn của hắn, trông già hơn nhiều nhưng vẫn tử tế như trước.
Hắn ngồi thu mình, vai chùng xuống, mặt cúi gằm, ở đây không có chỗ cho sự kiêu hãnh. Hắn không nhìn ra xung quanh bởi vì hắn có thể cảm thấy những ánh mắt từ mọi hướng. Sandy đặt tay lên vai hắn và thầm thì vớ vẩn gì đó.
Cánh cửa lại mở ra, và T.L. Parrish, công tố viên quận, một mình đi thẳng tới bàn của ông ta, cạnh bàn Patrick. Đó là con mọt sách với một cái tôi nhỏ bé, bức bối. Không có một cương vị cao hơn nào chờ đợi ông ta. Công việc truy tố của ông ta hoàn toàn đơn điệu, lạnh lùng và không hề có chút tình cảm nào. Hiện tại ông ta có tỉ lệ kết án cao thứ hai trong bang. Ông ta ngồi xuống cạnh viên cảnh sát trưởng, người vừa chuyển từ bàn Patrick về chỗ của mình. Đằng sau ông ta là các nhân viên đặc biệt Joshua Cutter, Brent Myers và hai nhân viên FBI nữa mà Parrish thậm chí không biết tên.
Tất cả đã được chuẩn bị cho một phiên tòa ngoạn mục, thế nhưng ít nhất cũng còn phải sáu tháng nữa vụ án này mới có thể bắt đầu được xét xử. Viên mõ tòa nhắc mọi người chú ý và đứng dậy khi Thẩm phán Huskey bước vào và ngồi xuống ghế quan tòa. “Xin mời ngồi,” đó là những lời đầu tiên của ông, và mọi người ngồi xuống.
“Vụ án số 96-1140, Bang truy tố Patrick S. Lanigan. Bị cáo có mặt không?”
“Có, thưa ngài,” Sandy nói, hơi nhỏm người lên.
“Ông đứng lên được chứ, ông Lanigan?" Huskey yêu cầu. Patrick, tay vẫn bị khóa, từ từ đẩy chiếc ghế lại phía sau và đứng lên. Lưng hắn hơi gập lại, đầu cúi và đôi vai trễ xuống. Hắn không đóng kịch. Liều thuốc làm dịu thần kinh kia đã làm tê liệt phần lớn các bộ phận trên thân thể hắn, kể cả bộ não.
Người hắn hơi cứng.
“Ông Lanigan, tôi đang có trong tay bản cáo trạng chống lại ông do hội thẩm đoàn quận Harrison chuyển đến, trong đó ông bị cho rằng đã giết người, và vì hành động đó ông bị buộc tội cố sát. Ông đã đọc cáo trạng này chưa?”'
“Rồi, thưa ngài,” hắn đáp, đầu ngẩng lên, với giọng nói mạnh mẽ nhất mà hắn có thể có được.
“Ông đã thảo luận với luật sư của ông chưa?"
“Rồi, thưa ngài.”
“Ông muốn biện hộ thế nào?”
“Không có tội.”
“Lời tuyên bố không có tội của ông được ghi nhận. Ông có thể ngồi xuống.”
Huskey sắp xếp lại mấy tờ giấy, rồi nói tiếp: “Tại đây, tòa ban bố một lệnh cấm phát ngôn đối với bị cáo, các luật sư, cảnh sát cùng các nhân viên điều tra, và tất cả các nhân chứng nếu có, cũng như đối với tất cả các nhân viên của tòa án, có hiệu lực tức thời và kéo dài cho đến khi vụ xét xử này kết thúc. Tôi có các bản sao lệnh này cho mọi người để đọc. Bất kỳ sự vi phạm nào đối với lệnh này cũng dẫn tới tội coi thường tòa án, và tôi sẽ có biện pháp nghiêm khắc đối với bất kỳ người vi phạm nào. Không một lời nào với bất kỳ một phóng viên hay nhà báo nào nếu không có sự chấp thuận của tôi. Các luật sư có câu hỏi nào không?”
Giọng ông ta không để ai phải nghi ngờ rằng đây là chuyện hoàn toàn nghiêm túc, và còn làm cho người ta hiểu rằng những kẻ vi phạm hẳn sẽ bị trừng phạt. Các luật sư im lặng.
“Tốt. Tôi đã chuẩn bị một lịch trình về những thẩm vấn, khuyến nghị, xét xử sơ bộ và xét xử. Có thể nhận được ở văn phòng thư ký tòa Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43