Chương 4
Rừng vàng

    
ột trong những ngày sau đó, từ sớm tinh mơ, hai thầy trò đã rời nhà ra đi. Thoạt đầu là đi tàu điện, đứng ở đầu toa. Chị lái tàu thì ra là người Ivan Ivanưts và Bim quen. Tất nhiên là Bim đã chào chị ta khi chị bước ra bẻ ghi. Chị beo tai nó, nhưng nó không liếm tay chị mà chỉ giậm giậm chân ngồi xuống và đập đập đuôi như trong trường hợp chào hỏi.
Sau đó, ra đến ngoại thành rồi thì họ đi xe buýt mà vào cái giờ sớm sủa này chỉ có cả thảy dăm sáu người ngồi. Lúc họ lên xe, người lái xe cứ càu nhàu cái gì, nhắc đi nhắc lại cái tiếng "chó" và "không được". Bim chẳng khó khăn gì mà không đoán ra (nó nhìn mặt mà đoán): người lái xe không muốn chở hai thây trò nó, và điều đó không tốt. Một trong những hành khách bênh vực hai thầy trò nó, một người khác thì ngược lại, ủng hộ ông tài. Bim rất chăm chú theo dõi cuộc đấu khẩu. Cuối cùng người tài xế bước xuống xe. Chủ nó đứng trước cửa xe đưa cho anh ta một tờ giấy nhỏ vàng vàng, rồi cùng với Bim bước lên bậc xe, ngồi vào chỗ và buồn bã thở dài: “Hà-à-à!".
Bim từ lâu đã để ý thấy người ta hay trao đổi cho nhau những tờ giấy nhỏ nhỏ gì ấy nó có cái mùi chẳng phân biệt ra là cái mùi gì. Một lần nó đánh hơi thấy một tờ ở trên bàn có mùi máu, nó gí mũi vào tờ giấy, cố làm cho chủ chú ý, nhưng ông ta cứ phớt lờ đi - điếc mũi mà lị! Và nhắc lại cái câu “không được" của ông ta. Lại còn đút những tờ giấy ấy vào ngăn kéo bàn khóa lại nữa chứ. Thực ra có những tờ, - khi chúng còn sạch sẽ - ngửi có mùi bánh mì, mùi dồi, nói chung là mùi cửa hàng, nhưng đa số những tờ ấy là có cái mùi của đủ các thứ bàn tay. Những tờ giấy nhỏ ấy, thiên hạ ưa thích chúng, giấu chúng vào trong túi hoặc trong ngăn kéo bàn, cũng như chủ nó. Mặc dầu trong chuyện ấy Bim chẳng hiểu cái quái gì nhưng nó cũng dễ dàng biết rằng: một khi chủ nó đã đưa cho người lái xe một tờ giấy thì là họ đã trở thành bạn bè. Còn vì sao Ivan Ivanưts thở dài thì dù đã chăm chú nhìn vào những biểu hiện ở trong mắt ông bạn nó vẫn không hiểu được. Nói chung, về sức mạnh kỳ diệu của những tờ giấy nho nhỏ ấy, nó cũng chỉ là láng máng đoán ra mà thôi - chuyện đó đâu có phải trong tầm trí khôn của chó; nó đâu biết rằng một ngày kia những mẩu giấy ấy sẽ chơi cho nó một cú tai hại.
Từ đường cái vào đến rừng hai thầy trò cuốc bộ. Ivan Ivanưts tới bìa rừng dừng lại nghỉ, còn Bim đứng cạnh thì quan sát khu vực. Rừng như thế này nó chưa từng thấy bao giờ. Nói đúng ra thì rừng này, chính cái rừng này đây, họ đã đến hồi mùa xuân, và mùa hè cũng đến (nó đung đưa, thế đấy), nhưng bây giờ ở đây mọi vật xung quanh đều vàng và đỏ ối, tưởng đâu như mọi vật đều bốc cháy và lấp lánh cùng với mặt trời.
Cây rừng vừa mới bắt đầu trút bỏ quần áo, và lá rơi, liệng trong không trung, êm ả và nhịp nhàng. Mát rượi và thoải mái, và chính vì thế mà vui. Rừng thu có một cái mùi đặc biệt, có một không hai, bền vững, và trong sạch đến nỗi cách xa hàng chục mét Bim ban ngửi thấy hơi chủ. Nó “tóm được" một chú chuột rừng từ xa, nhưng chẳng buồn đuổi theo (lạ gì cái đồ ranh con!). Nhưng chợt có một mùi gì xộc mạnh vào mũi nó từ xa, đến nỗi Bim đứng sững lại. Rồi nó tiến đến sát, xông vào sủa một cục tròn tròn đầy gai.
Ivan Ivanưts rời gốc cây đứng dậy đi tới chỗ Bim:
- Không được, Bim! Không được, đồ ngốc. Con nhím đấy! Lùi lại! - Rồi kéo Bim đi theo.
Vậy ra nhím là một con thú nhỏ, thêm vào đó là nó tốt, và chớ nên đụng vào nó.
Bây giờ Ivan Ivanưts lại ngồi xuống cái gốc cây, ra lệnh cho Bim cũng ngồi xuống, rồi bỏ mũ kê pi ra đặt xuống đất, ngay cạnh, và đưa mắt nhìn lá rụng. Và lắng nghe cái tĩnh mịch của rừng. Tất nhiên là ông mỉm cười! Lúc này đây ông ở trong trạng thái như mọi lần trước khi bước vào săn.
Bim cũng lắng nghe.
Một con chim ác là bay đến, kêu ken két một cách láo xược rồi bay đi. Một con giẻ cùi nhảy chuyền từ cành này qua cành khác mà tới gần, ngoạc mồm ra kêu rồi cũng lại chuyền cà!!!14178_7.htm!!! Đã xem 13368 lần.

Đánh máy: lilypham Với sự giúp đỡ của Hoi_ls, picicrazy
Nguồn: e-thuvien.com
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 23 tháng 1 năm 2013

Truyện CON BIM TRẮNG TAI ĐEN Lời giới thiệu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 đúng, không được như ngày xưa, rằng vì chúng, vì chính những loại như thế này đây mà người ta đã chiến đấu từ tận hồi nội chiến cơ, ấy thế mà chúng có biết giá trị đâu, và chẳng biết cái gì hết, tóm lại, thật là đáng xấu hổ. Cái ngày lâu lắm rồi ấy, khi mà Lão Xám lên mặt răn dạy lũ trẻ, Tôlich lên chín tuổi. Bây giờ nó đã mười hai, nhưng nó còn nhớ rõ lão. Lúc này Tôlich ngồi ôm con Bim và cứ khăng khăng: "Của cháu".
- Thế là thế nào? Không phải của ai hay là của nó? - Lão ta quay về phía bọn trẻ hỏi và chỉ vào Tôlich.
- Kia kìa, nó có một tấm biển đấy. - Thằng Bụ Bẫm gở miệng nói xen vào. Lão Xám tiến đến bên Bim, vén tai chó và đọc dòng chữ trên cổ.
Bim đánh hơi thấy chính xác, hoàn toàn chính xác rằng Lão Xám có mùi hôi chó, mùi phảng phất thoang thoảng, lâu ngày rồi, nhưng vẫn có mùi, Bim nhìn vào mắt lão lập tức đã không tin lão, không tin giọng nói, cái mắt nhìn, thậm chí cả đến hơi người lão. Chẳng lẽ người ta không dưng lại để hơi chó đủ các loại bám vào mình như thế sao. Bim nép sát vào người Tôlich, cố sức tách ra khỏi Lão Xám, nhưng lão không buông tha.
- Không được nói dối, cháu ạ, - lão trách móc Tôlich:- Cứ như điều ghi trên biển này thì chó này không phải của cháu. Đáng xấu hổ lắm, cháu ơi. Chẳng nhẽ bố mẹ cháu lại dạy cháu nói dối à? Liệu sau này lớn lên cháu sẽ thành người như thế nào? Ề, ề, ề... - Lão rút trong túi ra một đoạn dây và buộc ngay vào cổ đề chó.
Tôlich giật lấy đoạn dây và quát lên:
- Ông không được động vào! Cháu không cho đâu!
Lão Xám gạt tay nó ra.
- Bác có bổn phận đưa chó về chỗ quy đinh. Có khi còn phải lập phiên bản nữa là đằng khác (lão nói thành phiên bản). Có khả năng riệu cồn thịt mất chủ nó rồi (lão nói thành "riệu"). Nếu quả như vậy thì con chó này phải trừ khử. Trách nhiệm của bác là như vậy đó. Mọi việc là phải vì danh dự và nhân đạo mà làm. Thế đấy. Bác sẽ thẩm xét nhà cửa của nó xem có đúng hay không.
- Thế ông không tin vào tấm biển này à? - Tôlich gạn hỏi, giọng trách móc, gần như khóc.
- Bác tin chứ, các cháu ạ, bác hoàn toàn tin mà. Thế nhưng... - Lão giơ một ngón tay và lên mặt nói, gần như trịnh trọng: - Muốn tin phải xác minh! - Rồi dắt Bim đi.
Bim ghì lại, ngoái nhìn Tôlich và thấy thằng bé tức quá phát khóc, nhưng - biết làm sao được! - cũng đành phải đi theo Lão Xám, cúp đuôi, mắt nhìn xuống đất, nom chẳng có vẻ gì là nó nữa. Bộ dạng nó như muốn nói: "Cuộc đời chó má của chúng mình là như vậy đó, một khi chẳng còn thấy chủ đâu". Chỉ còn cách là ngoạm vào bắp đùi lão ta rồi bỏ chạy, nhưng Bim là con chó trí thức: muốn dắt nó đi đâu cũng được thôi.
Cả hai cùng đi vào dãy phố có những ngôi nhà mới. Nhà nào cũng mới, toàn bộ một màu xám, và hệt như nhau đến nỗi đi có thể bị lạc. Đến một ngôi nhà giống những nhà khác như đúc ấy, họ đi lên tầng ba, ở đó Bim quan sát thấy cả các cửa nữa cũng đều giống nhau.
Một bà mặc váy xám mở cửa cho họ:
- Lại lôi đâu về thế? Giời ơi là giời!...
- Làm gì mà gào lên thế! - Lão Xám nghiêm nghị ngắt lời bà ta rồi tháo cổ dề Bim, chìa ra: - Này đây, nhìn xem.
Bà kia đeo kính vào nhìn, đã hiểu ra, còn lão nói tiếp: - Bà chẳng hiểu quái gì cả. Khắp nước cộng hòa chỉ độc nhất có tôi là người chơi huy hiệu chó. Và cái biển này là cả một của quý! Vị chi là chiếc thứ  năm trăm!
Bim chẳng hiểu gì cả, tuyệt nhiên chẳng hiểu gì cả, không một tiếng nào quen thuộc, không một cử chỉ nào hiểu được - mù tịt. Chợt Lão Xám ở hành lang vào phòng, tay cầm chiếc cổ đầm que vạch lên rì rào, mà hình như có cả mùi thứ giấy vàng vàng mà bao giờ người ta cũng đút vào túi. Ông này dừng lại cạnh Bim, nói:
- Ối giời ơi, lại thế này nữa! Chó chạy ra cả đại lộ!
Từ trong cổng hàng rào, người quét vườn cầm chổi bước ra, đến đứng cạnh Ông Béo. Ông này nhìn người quét vườn nói, tay chỉ vào Bim:
- Ông nhìn thấy chưa? Có phải trên địa phận ông không?
- Thấy chứ sao. - Ông vừa nói vừa tựa người vào cái chổi dựng ngược.
- Thấy... Ông có thấy cái chết tiệc gì! - Ông Béo giận dữ nói. - Đến cả kẹo nó cũng không nuốt cho, khảnh ăn thật. Thế này thì còn sống sao nổi! - Ông nổi xung lên.
- Thì đừng sống nữa, - người quét vườn nói rồi thản nhiên tiếp: - Chà, ông gầy tọp hẳn đi đấy, tội nghiệp quá.
- Anh xỏ xiên tôi đấy hả? - Ông Béo gào lên.
Ba đứa trẻ đang đi, liền dừng lại nhìn hết Ông Béo rồi lại nhìn Bim, cười khúc khích, không hiểu vì sao.
- Chúng mày cười cái gì? Buồn cười gì? Tao nói chuyện con chó. Một ngàn con khuyển, hai ba cân thịt mỗi con, vị chi là hai ba tấn thịt trong một ngày. Có tưởng tượng được không, tổng cộng là ba nhiêu?
Một đứa trong bọn chúng phản đối:
- Đến lạc đà cũng không ăn nổi ba ký thịt.
Người quét vườn uốn nắn lại, vẻ tỉnh bơ:
- Lạc đà không ăn thịt. - Bất thần ông ta cầm ngang cán chổi quét mạnh lên mặt đường nhựa, ngay trước chân Ông Béo - Đồng bào tránh ra. Thế nào? Có nghe thấy tôi nói gì không, hả cái đầu đần độn kia!
Ông Béo khạc nhổ bỏ đi. Ba đứa trẻ kia cười rúc lên rồi cũng bỏ đi nốt. Người quét vườn cũng thôi quét luôn. Ông vuốt ve lưng Bim, đứng một lát rồi nói:
- Ngồi đây nhé. Đợi chủ. Chủ sẽ đến. - Rồi cũng bỏ đi vào cổng vườn.
Qua cuộc cãi vã đó Bim chỉ hiểu có tiếng "thịt", "con chó", có thể là "con khuyển" nữa. Nhưng nghe qua giọng nói và chủ yếu là qua mắt thấy cũng đủ để một con chó khôn ngoan đoán ra: Ông Béo không tốt, ông quét vườn tốt, một người thì ác, người kia thì hiền. Có ai hiểu rõ hơn Bim nữa rằng chỉ có những người quét đường đêm hôm sống trên đường phố là họ biết quý trọng chó. Chuyện ông quét vườn đuổi Ông Béo đi làm Bim có phần nào hài lòng. Mà nói chung, cái chuyện tình cờ không đâu vào đâu ấy giây phút đã làm cho Bim khuây khoả, cũng có thể là có ích trên phương diện nó bắt đầu lờ mờ đoán ra: con người rất khác nhau. Có người tốt, có người xấu. Ờ, cái đó cũng có ích đấy, đứng ngoài cuộc ta sẽ nói thế. Thế nhưng trong lúc này đối với Bim cái đó hoàn toàn không quan trọng gì. Hơi đâu mà bận tâm: Nó còn mải theo dõi người đi đường.
Ở một số người đàn bà toả ra thứ mùi hăng hắc, không chịu nổi, giống như mùi hoa linh lan, cái thứ hoa trăng trắng có cái mùi làm tê liệt cả khứu giác, mà cứ đứng gần là Bim bị điếc mũi. Trong những trường hợp như thế Bim thường quay đầu đi chỗ khác và nhịn thở vài giây - nó ghét cái mùi ấy. Đa số đàn bà có đôi môi đỏ chót như những lá cờ giăng ra vây sói. Màu đỏ này Bim cũng ghét, và nói chung con vật nào cũng không ưng nhưng đặc biệt là chó và bò đực. Hầu như bà nào cũng mang thứ gì đó trong tay. Bim còn để ý thấy đàn ông ít cầm gì hơn đàn bà.
... Nhưng sao mãi vẫn không thấy Ivan Ivanưts thế nhỉ. Ông bạn của tôi ơi! Giờ này ông ở đâu?
Người đi như nước chảy. Nỗi buồn của Bim cũng có phần nào vợi đi ít nhiều, tản mạn đi giữa đám người. Nó lại chăm chú nhìn lên phía trước: liệu ông có đi đó không. Hôm nay Bim sẽ chờ ở đây. Chờ đợi!
Có một người dừng lại cạnh Bim, mặt nhăn nheo, mũi hớt, mắt ốc nhồi, đôi môi dày trệ hẳn xuống. Ông ta kêu lên:
- Bậy bạ thật! (Mọi người dừng lại). Xung quanh dịch bệnh đầy ra đây, nào là cúm, nào ung thư dạ dày, còn ở đây thì sao? - Ông xỉa cả bàn tay về phía Bim. - Ở đây, giữa đám đông công chúng, chỗ tấp nập người lao động thế này mà lại để một con vật tác nhân sinh bệnh ngồi lù lù.
- Không phải con chó nào cũng là tác nhân sinh bệnh. Ông nhìn xem, con chó nom dễ thương quá đi chứ. - Một cô gái phản đối.
Mũi Hớt nhìn cô từ đầu đến chân rồi lại từ chân lên đầu, giận giữ quay ngoắt đi:
- Man di mọi rợ thế là cùng. Trong cô là cả một sự man di mọi rợ, cô em ạ!
Và chợt... Chao ôi! Nếu như Bim được làm người! Chính Bà Thím ấy tiến đến, bà "phụ nữ Xô viết", cáề. Rồi từ trong phòng lão gọi vọng ra.
- Bim, lại đây!
Bim chần chừ ngẫm nghĩ rồi dè dặt bước vào. Trong phòng nó nhìn quanh, nhưng không tiến lại chỗ Lão Xám, và ngồi phệt luôn xuống bậc cửa. Trên tường treo lơ lửng những cái bảng bọc nhung trên đó treo lủng lẳng thành hàng thành lối những huy hiệu chó: số hiệu chó, thẻ chó, huy chương màu xám, huy chương màu vàng, đoạn dây và cổ dề khá đẹp, mấy cái rọ mõm hoàn hảo cùng những trang bị thông thường khác, thậm chí có cả một dây thòng lọng bằng tơ để thắt cổ chó (mà dĩ nhiên Bim không hiểu được công dụng). Kẻ sở hữu bộ sưu tập ấy đã xoay được cái dây ấy ở đâu ra thì ngay người cũng chẳng hiểu nổi. Còn đối với Bim cái đó chỉ là sợi dây bình thường, không hơn không kém.
Bim chăm chú nhìn thấy Lão Xám mân mê trong ta cái cổ dề của mình, lấy kìm tháo tấm biển ra và gắn vào khoảng giữa một trong cái bảng bọc nhung kia. Lão cũng làm như vậy với tấm thẻ. Sau đó lão đeo cổ dề vào cho Bim và nói:
- Mày là con chó khôn đấy!
Giống y như chủ nó có lần nói, nhưng lúc này thì nó không tin. Nó đi ra ngoài hành lang và đứng lại bên cửa, ý muốn nói: "Thả tao ra" Tao chả có công có việc gì ở đây cả".
- Thôi thả nó ra đi? - Người đàn bà nói. - Giữ nó ở đây làm gì? Lẳng nó ra đường kia.
- Không thể được - bọn nhãi quấn nó lắm. Cho nên ngay bây giờ thì không được: Chúng nó thấy mất tăm biển có thể sẽ đi báo... Vì vậy cứ để nó ở đây qua đêm đến sáng. Nằm xuống! - Lão ra lệnh cho Bim.
Bim nằm xuống ngay bậu cửa: biết làm thế nào! Sau nó lại nghĩ: chỉ cần rít lên thành tiếng, chạy lung tung khắp phòng, lao vào Lão Xám, thế là xong. Thế nào nó cũng được thả đấy. Nhưng Bim đã quen chờ đợi. Vả lại nó cũng đã mệt, kiệt sức đến nỗi nó đã ngủ thiếp đi một lúc bên bậu cửa nhà người, cho dù chỉ là ngủ chập chờn.
Đây là đêm đầu tiên Bim không về nhà, không về phòng mình. Nó cảm giác như thế lúc đang mơ mơ màng màng, và cũng không hình dung ra hiện mình đang ở đâu. Đến khi nhận ra rồi thì nó buồn quá. Nó lại vừa mơ thấy Ivan Ivanưts; cứ mỗi lần chợp mắt nó lại nhìn thấy chủ, khi tỉnh dậy vẫn còn cảm thấy hơi ấm bàn tay ông, quen thuộc với nó từ thuở nó còn là chó cún con. Giờ đây ông ở nơi đâu, người bạn hiền lành và tốt bụng của tôi ơi! ở nơi đâu? Buồn không sao chịu nổi. Cảnh cô đơn nặng nề cứ bám riết lấy nó, chẳng tha. Vả lại còn cái Lão Xám kia đang ngáy khò khè, như con thỏ bị chó săn đè cổ. Từ những cái bảng nhung tỏa ra mùi chó chết. Buồn. Bim rền rĩ ư ử, về sau hai lần bật lên thành tiếng sủa, với tiếng gừ gừ khẽ tiếp theo, giống như con chó lài khi nhìn thấy dấu vết thỏ. "Ôi cha... ôi! Các ông... các bà ôi... - Nó khóc, - khổ thân tôi quá... ôi... ôi... Không có bạn, đau đớn quá... ôi... ôi... Thả tôi ra, thả tôi ra cho tôi đi tìm bạn!... ôi... ôi..., các ông... các bà ơi!".
Lão Xám chồm dậy, bật đèn rồi cầm gậy bổ vào người Bim, vừa đánh vừa rít lên:
- Câm đi, câm ngay, đồ quỷ! Hàng xóm người ta nghe thấy bây giờ. Này kêu này, kêu này! - Bim tránh đòn, theo bản năng cố bảo vệ lấy cái đầu, và rền rĩ như người: "Ối... ối... ái... ối".
Nhưng con người ác độc kia vẫn cứ tìm cách đập vào đầu nó. Bim bị choáng đi vài giây, bất tỉnh, quờ quạng chân, nhưng sau lại tỉnh lại ngay. Nó nhảy ra khỏi bậu cửa, tựa lưng vào góc nhà và nhe răng ra. Lần đầu tiên nó nhe răng.
Lão Xám lùi lại tránh Bim.
Ái chà! Lại cắn hả, đồ quỷ... - Rồi lão mở tung cửa ra. Nhưng Bim không tin ngay cả vào cái việc cánh cửa thật sự đã được mở tung ra, không tin cả lúc Lão Xám nói:
- Cút ra! Cút ra! Đi đi, Bim! Đi chơi,... đi, đồ chó, đi đi.
Nó không tin cái lời dịu dàng ngọt xớt ấy, không tin vào sự xoa vuốt phỉnh phờ sau những đòn roi vọt ấy. Đánh rồi xoa, ồ, đây là một phát hiện mới trong đời Bim. Bà Thím và Ông Mũi Hớt chỉ là người không tốt thôi. Còn cái lão này... lão này thì Bim căm thù. Căm thù! Bim bắt đầu mắt lòng tin vào con người. Vâng, đúng như vậy! Bim vươn cổ, nhe răng và... tiến đến Lão Xám, rón rén, nhưng rất cương quyết, chậm chạp, nhưng đầy tự tin. Lão Xám nép sát vào tường:
- Mày làm gì? Làm gì?
Người đàn bà mặc áo cánh ngủ quát bảo Lão Xám:
- Nó chồm đến kìa! Că-ắ-ắn kìa!
Bim thấy rằng lão già sợ nó hết hồn, rằng nó đang làm lão chết khiếp. Do đó Bim chì chỉ vào Bim, lúc thì chỉ vào một trong số ba người. Những người kia chực ngắt lời cô, nhưng viên cảnh sát nghiêm nghị chặn lời Bà Thím và Mũi Hớt. Ông ta có thiện cảm rõ rệt với cô gái. Cuối cùng cô pha trò, hỏi:
- Tao nói thế có đúng không? Tai đen? - Rồi quay về phía người cảnh sát, nói thêm: - Tên tôi là Đasa, - xong lại nói với Bim: - Tao là Đasa, hiểu không?
Bim tỏ rõ nó quý trọng cô bằng tất cả những gì có.
- Nào lại đây, Tai đen, lại đây! - Người cảnh sát gọi.
Ồ Bim biết tiếng: "Lại đây!" lắm, nó biết một cách chính xác. Và nó tiến lại.
Ông ta vỗ nhẹ vào cổ nó, cầm lấy vòng cổ, xem xét biển số và ghi chép điều gì đó, rồi ra lệnh cho Bim:
- Nằm xuống!
Bim nằm xuống đúng kiểu: hai chân sau thủ vào bụng còn hai chân trước duỗi thẳng, đầu và mắt hướng về người đối thoại, hơi nghiêng sang bên.
Bây giờ viên cảnh sát gọi điện thoại hỏi:
- Liên đoàn săn bắn đấy hả?
"Săn bắn!" - Bim giật mình. "Săn bắn!", tiếng này ở đây nghĩa là thế nào?
- Liên đoàn săn bắn đấy hả? Tôi ở đồn cảnh sát đây. Xem lại con chó số thẻ 24, giống chó Xette. Sao lại không có? Không thể được. Con chó hay lắm, được luyện rồi. Gọi đến Xô viết thành à? Được. - Anh đặt ống nghe xuống rồi lại nhấc lên, hỏi điều gì đó, tay ghi chép, miệng nhắc lại: Giống Xette... có những đặc điểm di truyền bên ngoài, không có chứng chỉ gia phả, chủ là Ivan Ivanưts Ivanôp, phố Proiêzgiaia, số nhà 41. Cảm ơn. - Lúc này ông quay về phía cô gái: - Cô Đasa, cô rất tuyệt diệu. Tìm thấy chủ nó rồi.
Bim nhảy lại phía người cảnh sát, rúc mũi vào đầu gối của anh, liếm tay Đasa và nhìn vào mắt cô, nhìn thẳng vào mắt như cái nhìn của những con chó khôn, quyến luyến và tin người. Vì nó hiểu rằng họ đang nói đến Ivan Ivanưts, đến người bạn, người anh, ông Trời của nó, như trong trường hợp này là người thì sẽ nói thế. Nó run lên vì xúc động.
Viên cảnh sát nghiêm nghị càu nhàu Bà Thím và Ông Mũi Hớt.
- Các vị đi đi cho, xin chào.
Ông Mũi Hớt quay sang đay nghiến người thường trực:
- Thế là... xong hả? Như thế này thì trật tự của ta rồi sẽ ra sao đây? Bị buông lỏng rồi!
- Xin mời đi đi cho, ông già. Chào ông. Ông về nghỉ cho.
- Tôi không ông cháu gì với anh sất! Tôi so với anh là bậc cha chú anh đó. Ngay đến thái độ đối xử nhã nhặn cũng quên rồi, đồ chó đẻ. Anh lại muốn giáo dục những cái của này - ông huých tay vào anh sinh viên, - bằng cách xoa đầu, vuốt ve. Rồi cuối cùng nó cũng sủa gâu gâu vào mặt cho, rồi anh xem. Và cắn cho nữa ấy. - Ông ta gào lên thực như chó sủa, không khác gì.
Tất nhiên Bim cũng đáp lại như vậy. Người thường trực bật cười:
- Thấy chưa, bố ơi, đến con chó cũng hiểu và đồng tình đấy.
Còn Bà Thím thì giật thót mình vì hai tiếng sủa của người và chó, lùi về phía cửa tránh né Bim và thét tướng lên:
- Đấy, nó sủa tôi đấy, thấy chưa! Ngay ở đồn mà cũng chẳng có sự bảo vệ nào đối với phụ nữ Xô viết cả.
Cuối cùng họ cũng phải ra đi.
- Thế còn tôi thì sao, định giữ lại chăng? - Anh sinh viên hỏi, mặt lầm lầm.
- Phải biết phục tùng, anh bạn ạ. Khi đã được mời thì phải đi theo chứ. Luật như vậy mà.
- Luật à? Không có luật nào cho phép bắt giải người tỉnh táo về đồn cả, túm tay như thằng ăn cắp. Mụ ấy, phải nhốt mười lăm ngày mới xứng, thế mà các anh... Chịu các anh thật! - Rồi anh sinh viên bước ra, khẽ gẩy tai Bim một cái.
Lúc này, Bim chẳng còn hiểu cái gì nữa: người xấu cũng rầy la cảnh sát, người tốt cũng rầy la, thế mà anh cảnh sát cũng chịu, lại còn cười nữa; chuyện này rõ ràng là chó khôn cũng không hiểu nổi.
- Chị có thể tự dẫn nó đi được không? - Người thường trực hỏi Đasa.
- Được ạ. Về nhà thôi. Tai đen, đi về nhà.
Bim lúc này chạy trước, thỉnh thoảng ngoái nhìn Đasa và dừng lại đợi: nó hiểu rất rõ tiếng "về nhà" và dẫn cô gái về tận nhà. Người ta không thể tưởng tượng nổi là nó có thể tự lần mò về nhà mình được, người ta tưởng nó là một con chó đần; riêng có Đasa là hiểu hết, riêng mình Đasa, một cô gái tóc vàng có đôi mắt to đăm chiêu và hiền lành mà thoạt nhìn Bim đã tin ngay. Nó đưa cô gái về tận cửa nhà mình.
Cô bấm chuông gọi - Không có tiếng trả lời. Lại bấm lần nữa, nhưng bấm chuông nhà bên cạnh. Bà Xtêpanôvna bước ra. Bim chào bà: nó vui hơn hôm qua nom rõ ra mặt, nó nói: "Cô Đasa đến đấy, cháu dẫn cô ấy đến", (không thể dùng lời nào khác để giải nghĩa cái nhìn của Bim hết về phía Đasa rồi lại qay sang bà Xtêpanôvna).
Hai người phụ nữ nói chuyện nho nhỏ với nhau, trong lời đi tiếng lại đã nhắc đến tên "Ivan Ivanưts" và "mảnh đạn". Rồi bà Xtêpanôvna mở cửa ra. Bim mời Đasa vào: bằng cách nhìn cô không rời mắt. Việc đầu tiên là cô cầm bát cháo lên ngửi rồi nói:
- Chua rồi. - Cô đổ cháo vào cái xô rác, rửa bát rồi lại đặt xuống sàn nhà. - Tao đi về ngay bây giờ. Đợi đấy Tai đen nhé!
- Tên nó là Bim, - bà Xtêpanôvna đỡ lời.
- Đợi đấy, Bim. - Và Đasa đi ra.
Bà Xtêpanôvna ngồi xuống ghế. Bim ngồi đối diện bà, nhưng mắt cứ luôn luôn ngó ra cửa.
- Mày quả là con chó sáng dạ - bà Xtêpanôvna bắt chuyện. - Mày thấy chưa, còn lại một mình, mày đã hiểu là ai thương mày. Bim ơi, như tao đây này..., lúc về già ở với đứa cháu. Bố mẹ nó đẻ nó ra, nhưng lại phải đi làm tận Xibir, chỉ có tao ở lại nuôi dạy nó. Và như vậy là cháu tao đối tốt với tao lắm, hết lòng hết dạ với tao.
Bà Xtêpanôvna giãi bày tâm sự với chính mình trong khi nói chuyện với Bim. Thường tình con người ta nếu không biết nói với ai, thì vẫn nói chuyện với con chó, với con ngựa yêu mến, hoặc với con bò nuôi mình. Những con chó có trí khôn nổi bật thì phân biệt được rất rõ người bất hạnh và bao giờ cũng thông cảm với họ. Ở đây người và chó thương nhau: bà Xtêpanôvna than thở với nó, còn Bim thì cay đắng, đau khổ vì nỗi những người mặc áo choàng trắng đã đem ông bạn của nó đi mất. Những chuyện rắc rối trong ngày chỉ chốc lát làm dịu nỗi đau của Bim, và bây giờ nỗi đau ấy lại tấy lên nhức nhối. Bim phân biệt được trong lời bà Xtêpanôvna hai tiếng quen thuộc: "tốt" và "với tao" nói với giọng ấm áp buồn buồn.
Dĩ nhiên là Bim đã tiến sát lại bà và gối đầu lên châu bà, còn bà Xtêpanôvna thì đưa mùi soa lên thấm nước mắt.
Đasa quay trở lại, tay cầm một gói nhỏ. Bim lặng lẽ bước đến, nằm phủ phục xuống đất, đặt một chân lên giày cô gái, chân kia kê đầu. Như thế có nghĩa là: "Cảm ơn cô".
Đasa mở gói giấy lấy ra hai miếng chả thịt băm, hai miếng bánh khoai rồi đặt lên đĩa của Bim
- Ăn đi.
Bim cũng chẳng buồn ăn, mặc dù đã ba ngày liền nó chưa có miếng gì vào bụng. Đasa vỗ nhẹ lên lưng nó và dịu dàng bảo:
- Ăn đi, Bim, ăn đi chứ.
Giọng Đasa ngọt ngào, thân thiết, nhỏ nhẹ, có vẻ bình thản; bàn tay cô ấm áp và dịu dàng, trìu mến. Nhưng Bim vẫn ngoảnh mặt đi khỏi đĩa chả thit băm. Đasa nâng mồn Bim nhét miếng chả vào Bim ngậm mồm, ngậm mãi trong mồm, ngạc nhiên nhìn Đasa, trong lúc đó miếng trả tự trôi vào bụng. Miếng chả thứ hai cũng như vậy. Rồi đến khoai cũng thế.
- Phải ép nó ăn, bà ạ. - Đasa bảo bà Xtêpanôvna. - Nó nhớ chủ đấy, chẳng thiết ăn uống gì.
- Đâu có chuyện ấy hả cô! - Bà Xtêpanôvna ngạc nhiên - chó thì vẫn tự kiếm ăn lấy. Đã biết bao nhiêu con lang thang như vậy, chúng vẫn chẳng ăn là gì.
- Làm sao bây giờ? - Đasa hỏi chuyện Bim. - Thế này thì mày quỵ mất.
- Không chết đâu, - bà Xtêpanôvna nói như đinh đóng cột. - Một con chó khôn như thế sẽ không chết đâu. Mỗi ngày một lần tôi vẫn nấu cháo kê cho nó đấy. Thế thôi chứ thế nào? Loài vật ấy mà.
Đasa ngẫm nghĩ điều gì đó rồi cởi vòng cổ chó ra.
- Chừng nào cháu chưa đem vòng cổ này đến, thì bác hãy khoan thả Bim ra. Mai, vào khoảng chín giờ sáng cháu sẽ đến... Còn ông Ivan Ivanưts thì hiện giờ ở đâu ạ? - Cô gái hỏi bà Xtêpanôvna.
Bim giật nảy mình: "ông chủ"!
- Chở máy bay đi Maxkơva. Mổ tim rất phức tạp. Mảnh đạn nằm cạnh.
Bim hết sức chú ý. "Mảnh đạn", lại "mảnh đạn". Tiếng đó nghe đau xót lắm. Nhưng một khi đã nhắc đến Ivan Ivanưts thì có nghĩa ông chủ đang ở đâu đây. Phải đi tìm, đi tìm!
Đasa đi ra. Xtêpanôvna cũng thế. Bim ở lại một mình suốt đêm. Bây giờ, đôi lúc nó cũng thiếp đi, nhưng cũng chỉ được vài phút mà thôi. Cứ mỗi lần chợp mắt là nó lại mơ thấy Ivan Ivanưts, ở nhà hoặc đang đi săn. Lúc đó nó chồm dậy, nhìn quay rồi chạy đánh hơi khắp phòng, nghe ngóng trong im lặng rồi lại nằm xuống bên cửa. Bị quất bằng roi mềm thì rất đau, nhưng không có cái gì so với nỗi đau bị bật vô âm tín chủ.
Đợi, chờ đợi, cắn răng lại mà chờ đợi. #phandau">Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17