CHƯƠNG 9

Giờ thứ 12 của 45
CHƯƠNG 16

    
achs!”, Rhyme lại gào lên.
 
Mẹ kiếp, cô ấy nghĩ gì mà lại làm thế chứ? Tại sao cô ấy có thể liều lĩnh như vậy được?
 
“Chuyện gì xảy ra thế?”, Sellitto lại gặng hỏi. “Chuyện gì vậy?”
 
Chuyện gì đã xảy với cô ấy?
 
“Một quả bom trong căn hộ của Horowitz”, Rhyme tuyệt vọng nói. “Sachs vẫn ở bên trong khi quả bom phát nổ. Gọi cho họ ngay. Tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Bật loa ngoài lên.”
 
Bao nhiêu là máu…
 
Một khoảng ba phút dài tưởng như bất tận trôi đi và Sellitto được nối máy với Dellray.
 
“Fred”, Rhyme hét lên, “cô ấy sao rồi?”.
 
Một khoảng im lặng nặng nề trước khi người đặc vụ trả lời.
 
“Không tốt lắm, Lincoln. Chúng tôi vẫn đang cố dập tắt đám cháy. Một loại bom sát thương nào đó. Chết tiệt. Lẽ ra chúng tôi phải kiểm tra trước. Chó chết!”
 
Những chiếc bẫy bằng bom sát thương thường sử dụng thuốc nổ dẻo hoặc thuốc nổ TNT, trộn lẫn với những mảnh sắt hoặc bi nhỏ – để gây sát thương tối đa cho nạn nhân.
 
Dellray nói tiếp. “Mấy mảng tường đều bay sạch và toàn bộ căn hộ bị thiêu rụi. Một thoáng ngập ngừng. “Tôi phải nói với anh điều này, Lincoln. Chúng tôi… tìm thấy…” giọng của Dellray – bình thường vẫn rõ ràng và dứt khoát – lúc này đã lạc đi rất khó nghe.
 
“Cái gì?” Rhyme gặng hỏi.
 
“Một số bộ phận cơ thể người… Một bàn tay. Một phần cánh tay.”
 
Rhyme nhắm nghiền mắt lại và cảm nhận nỗi kinh hoàng mà anh chưa hề phải chịu đựng suốt bao năm qua. Một cái đâm buốt nhói chạy xuyên vào phần cơ thể tưởng chừng như vô tri vô giác của anh. Hơi thở của anh bật ra thành một tiếng phì phì rất khẽ.
 
“Lincoln…” Sellitto bắt đầu.
 
“Chúng tôi vẫn đang kiểm tra”, Dellray nói tiếp. “Có thể cô ấy không chết đâu. Chúng tôi sẽ tìm cô ấy. Đưa cô ấy vào bệnh viện. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Anh biết là chúng tôi sẽ cố gắng mà.”
 
Sachs, thế quái nào mà cô lại làm như vậy chứ? Mà tại sao mình lại để cô ấy làm?
 
Lẽ ra mình không bao giờ được…
 
Rồi một tiếng lạo xạo vang lên trong tai nghe của anh. Một tiếng lốp bốp nổ to không khác gì pháo nổ. “Có ai…Ý tôi là, Chúa ơi, có ai gỡ cái này ra khỏi người tôi được không?”
 
“Sachs?”, Rhyme hét lên vào chiếc mic. Anh dám chắc rằng đó chính là giọng nói của cô. Và rồi nghe như thể cô đang sặc và nôn khan.
 
“Ặc”, cô thốt lên. “Ôi, trời… Cái mớ kinh tởm này.”
 
“Cô có sao không?” Anh quay sang chiếc điện thoại đang bật loa ngoài. “Fred, cô ấy đang ở đâu vậy?”
 
“Phải anh đấy không, Rhyme?”, cô hỏi. “Tôi không nghe thấy gì cả. Ai đó làm ơn nói cho tôi nghe đi.”
 
“Lincoln”, Dellray gọi to. “Chúng tôi tìm được cô ấy rồi! Cô ấy vẫn ổn. Cô ấy không sao cả.”
 
“Amelia?”
 
Anh nghe thấy tiếng Dellray quát gọi nhân viên cứu thương. Cơ thể Rhyme đã không hề biết run rẩy đã nhiều năm nay, vậy mà ngay lúc này anh chợt nhận thấy ngón tay đeo nhẫn bên tay trái của mình đang run bắn.
 
Giọng Dellray lại vang lên. “Cô ấy vẫn chưa nghe rõ lắm, Lincoln. Những gì vừa xảy ra là… có vẻ như những gì vừa xảy ra mà chúng tôi nhìn thấy… là thi thể của người phụ nữ kia. Horowitz. Sachs lôi cái xác ra khỏi chiếc tủ lạnh ngay trước khi quả bom phát nổ. Cái xác đã che hứng hầu hết sức công phá.”
 
Sellitto nói, “Tôi biết anh định nói gì rồi Lincoln. Để cô ấy bình tĩnh lại đã”.
 
Nhưng không đời nào Rhyme làm thế.
 
Bằng một giọng gầm gừ dữ tợn anh rít lên, “Cô đang nghĩ cái chết tiệt gì thế, Sachs? Tôi đã bảo cô là có một quả bom. Lẽ ra cô phải biết đó là một quả bom và chạy ra ngoài cho nhanh chứ?”.
 
“Rhyme, phải anh đấy không?”
 
Cô đang giả vờ. Anh biết chắc là cô đang giả vờ.
 
“Sachs…”
 
“Tôi lấy được đoạn băng dính rồi, Rhyme. Anh còn ở đó không? Tôi không nghe thấy anh nói gì cả. Đó là một đoạn băng dính gói đồ trong suốt. Chúng ta phải lấy bằng được một dấu tay của hắn. Chính anh đã nói thế còn gì.”
 
“Nói thật nhé, cô đúng là hết thuốc chữa rồi”, anh lầm bầm.
 
“A lô? A lô? Chẳng nghe thấy anh nói cái quái gì cả.”
 
“Sachs, đường có giở trò với tôi.”
 
Đáp lới anh là một sự im lặng kéo dài.
 
“Sachs?... Sachs, cô còn ở đó không? Chuyện quái quỷ gì…?”
 
“Rhyme, nghe này – tôi vừa mới chiếu đèn PoliLight lên đoạn băng dính. Anh có đoán được không? Trên đó có một dấu vân tay đứt đoạn! Tôi đã có một dấu vân tay của tên Vũ công rồi!”
 
Điều đó dừng được anh nói trong giây lát, nhưng rồi anh vẫn nhanh chóng quay lại với bài chửi rủa cay nghiệt của mình. Thao thao bất tuyệt rao giảng một lúc lâu anh mới chợt nhận ra mình đang trút cơn giận dữ vào một đường dây trống trơn.
 
Người Sachs dính đầy muội than đen sì nhưng từ người cô toát lên một vẻ vô cùng phấn khích.
 
“Đừng có lèm bèm nữa, Rhyme. Đúng là ngu ngốc nhưng tôi không kịp suy nghĩ gì cả. Tôi cứ hành động thế thôi.”
 
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”, anh hỏi. Chiếc mặt nạ nghiêm nghị của anh đã tạm thời rơi xuống trong chốc lát, anh quá hạnh phúc khi thấy cô vẫn còn sống.
 
“Tôi đã vào đến giữa căn hộ. Tôi nhìn thấy quả bom sát thương gắn sau cánh cửa và không nghĩ là tôi sẽ còn đủ thời gian chạy thoát ra ngoài. Tôi chộp lấy cái xác người phụ nữ trong tủ lạnh. Tôi định kéo cô ấy ra cửa sổ phòng bếp. Mới được nửa đường thì quả bom phát nổ.”
 
Mel Cooper kiểm tra qua một lượt những túi bằng chứng Sachs vừa đưa cho anh. Anh kiểm tra chỗ muội than và những mảnh vụn của quả bom. “Loại bom M45. Dùng thuốc TNT, với công tắc chuyển mạch và ngòi nổ kéo dài bốn mươi lăm giây. Đội đột kích lối vào đã chạm vào nó khi họ phá cửa; ngòi nổ được kích hoạt. Đó là graphite, một loại TNT công thức mới. Rất mạnh, sức công phá rất khủng khiếp.”
 
“Đồ chó chết”, Sellitto lầm bầm rủa. “Ngòi nổ chậm… Hắn muốn bảo đảm cho càng nhiều người vào trong phòng càng tốt, trước khi quả bom phát nổ.”
 
Ryyme hỏi, “Có thứ gì có thể lần ra nguồn gốc không?”
 
“Toàn đồ quân dụng rất phổ biến. Chẳng dẫn chúng ta đến đâu trừ…”
 
“Trừ tên khốn kiếp đã cung cấp những thứ này cho hắn”, Sellitto thốt lên. “Phillip Hansen.” Điện thoại của viên thám tử chợt đổ chuông và anh nghe máy, đầu anh cúi thấp xuống khi chăm chú lắng nghe và khẽ gật.
 
“Cám ơn”, cuối cùng anh cũng nói và tắt điện thoại.
 
“Chuyện gì thế?”, Sachs hỏi.
 
Mắt của viên thám tử vẫn nhắm nghiền.
 
Rhyme biết đó là chuyện liên quan đến Jerry Banks.
 
“Lon?”
 
“Đó là tin về Jerry.” Viên thám tử ngẩng đầu lên. Thở dài. “Cậu ấy sẽ qua khỏi. Nhưng cậu ấy mất một cánh tay. Họ không thể cứu được nó. Bị tổn thương quá nặng.”
 
“Ôi, không”, Rhyme thì thầm. “Tôi có thể nói chuyện với cậu ta được không?”
 
“Không”, viên thám tử nói. “Cậu ấy vẫn đang mê man.”
 
Rhyme nghĩ về chàng thanh niên, hình dung ra cảnh anh ta lúc nào cũng lắp bắp lỡ lời nói linh tinh, hết vuốt chòm tóc bò liếm trên đầu mình lại xoa xoa vết xước do dao cạo để lại trên chiếc cằm hồng hào. “Tôi rất tiếc, Lon.”
 
Viên thám tử lắc đầu, giống hệt cách Rhyme vẫn xua đi những biểu hiện thương hại mọi khi. “Chúng ta còn nhiều chuyện khác để lo lắng.”
 
Đúng, quả là thế thật.
 
Rhyme chăm chú nhìn đoạn băng dính gói đồ trong suốt – mà tên Vũ công đã dùng để bịt miệng nạn nhân. Cũng giống như Sachs, anh nhìn thấy ngay một dấu son môi rất mờ in trên mặt dính của đoạn băng.
 
Sachs đang chăm chú nhìn mẩu bằng chứng, nhưng đó không phải là một cái nhìn chuyên môn. Không phải sự đăm chiêu của một nhà khoa học. Cô đang bị sốc nặng.
 
“Sachs?”, anh hỏi.
 
“Tại sao hắn lại làm thế?”
 
“Quả bom ư?”
 
Cô lắc đầu. “Tại sao hắn lại nhét cô ấy vào trong tủ lạnh?” Cô đưa một ngón tay lên miệng và bắt đầu cắn móng tay. Trong mười đầu ngón tay của cô, chỉ có duy nhất một ngón – ngón út bên bàn tay trái – là còn móng dài và nguyên vẹn. Tất cả những móng còn lại đều bị gặm nham nhở. Mấy móng tay thậm chí còn bầm nguyên vết máu.
 
Nhà hình sự học trả lời, “Tôi cho nguyên nhân là vì hắn muốn đánh lạc hướng chúng ta, để chúng ta không để ý đến quả bom. Một cái xác trong tủ lạnh – điều đó chắc chắn sẽ khiến chúng ta chú ý”.
 
“Ý tôi không phải thế”, cô trả lời. “Nguyên nhân tử vong là do ngạt thở. Hắn nhét cô ấy vào trong đó khi cô ấy còn sống. Tại sao? Có lẽ nào hắn là một kẻ bạo dâm không?”
 
Rhyme trả lời, “Không, tên Vũ công không phải là kẻ bạo dâm. Hắn không hơi đâu mà làm thế. Động cơ duy nhất của hắn là hoàn thành công việc, và hắn có thừa ý chí để kiểm soát những dục vọng khác của mình. Tại sao hắn lại để cô ta chết ngạt trong tủ lạnh trong khi hắn hoàn toàn có thể dùng một con dao hoặc một sợi dây?... Tôi cũng không biết chính xác tại sao, nhưng điều đó có thể lại tốt cho chúng ta”.
 
“Làm sao lại thế được?”
 
“Có thể có điều gì đó ở cô ta khiến hắn căm ghét và hắn muốn giết cô ta bằng cách dã man nhất hắn có thể nhgĩ ra.”
 
“Vâng, nhưng tại sao như vậy lại tốt cho chúng ta?” Sellitto hỏi.
 
“Bởi vì” – chính Sachs là người lên tiếng trả lời thay – “điều đó có nghĩa là có thể hắn đang mất đi sự lạnh lùng. Hắn đã bắt đầu hành động cẩu thả.”
 
“Chính xác”, Rhyme thốt lên, không giấu nổi vẻ tự hào vì Sachs đã tìm ra mối liên hệ. Nhưng cô không nhìn thấy được nụ cười khích lệ của anh. Mắt cô nhắm nghiền lại trong giây lát và cô lắc mạnh đầu, có lẽ lúc này cô đang hình dung lại đôi mắt kinh hoàng của người phụ nữ xấu số. Người ta thường nghĩ rằng các nhà hình sự học đều là những kẻ máu lạnh (đã không biết bao nhiêu lần vợ cũ của Rhyme trút lên đầu anh lới buộc tội đó?), nhưng trên thực tế những người giỏi nhất phải là những người có được sự đồng cảm đến nát lòng với nạn nhân tại các hiện trường vụ án mà họ khám nghiệm. Sachs là một trong những người như vậy.
 
“Sachs”, Rhyme dịu dàng thì thầm, “dấu vân tay?”.
 
Cô trân trân nhìn anh.
 
“Cô nói là cô tìm được một dấu vân tay. Chúng ta phải hành động thật khẩn trương.”
 
Sachs gật đầu. “Đây là một dấu vân ngón tay”. Cô giơ chiếc túi nhựa lên.
 
“Liệu có thể là dấu vân tay của cô ta không?”
 
“Không. Tôi lấy dấu vân tay của cô ấy rồi. Phải mất khá lâu mới tìm được bàn tay. Nhưng chắc chắn đây không phải dấu vân tay của cô ấy.”
 
“Mel”, Rhyme nói.
 
Người kỹ thuật viên cho mẩu băng dính vào khung SuperGlue và đun nóng một chút keo. Gần như ngay lập tức một phần nhỏ xíu của dấu vân tay hiện lên rất rõ.
 
Cooper lắc đầu. “Thật không thể nào tin được”, anh lẩm bẩm.
 
“Sao vậy?”
 
“Tên Vũ công, hắn đã lau đoạn băng dính. Chắc chắn hắn biết mình đã chạm vào nó khi không mang găng tay. Chỉ còn lại một phần nhỏ của dấu vân tay.”
 
Cũng như Rhyme, Cooper là thành viên của Hiệp hội Nhận dạng Quốc tế. Họ là chuyên gia trong việc xác định danh tính con người từ những dấu vân tay. ADN và đặc điểm cấu trúc răng. Nhưng dấu vân tay trong trường hợp này – cũng giống như dấu vân tay trên mặt kim loại của quả bom – nằm ngoài khả năng của họ. Nếu như có chuyên gia nào có thể tìm ra và phân loại được một dấu vân tay, đó phải là hai người, Rhyme và Cooper. Nhưng không phải là dấu vân tay này.
 
“Cho in ra và dán nó lên”, Rhyme càu nhàu. “Dán nó lên bảng kia.” Bao giờ họ cũng làm đủ các thao tác bài bản vì đó là yêu cầu bắt buộc trong cái nghề này. Nhưng anh thấy chán chường khủng khiếp. Suýt nữa Sachs đã chết một cách vô ích.
 
Edmond Locard, nhà hình sự học lừng danh người Pháp, đã tìm ra một nguyên tắc mang tên ông. Ông khẳng định rằng trong mỗi cuộc đụng độ giữa hung thủ và nạn nhân luôn có một sự trao đổi bằng chứng. Dù có thể chỉ ở mức độ nhỏ li ti, nhưng vẫn có sự luân chuyển qua lại. Tuy vậy Rhyme có cảm giác rằng nếu như có ai đó đủ khả năng phủ nhận Nguyên tắc Locard, thì đó hẳn phải là bóng ma vẫn được họ gọi bằng cái tên Vũ công Quan tài.
 
Nhận thấy sự chán nản hiện lên trên mặt Rhyme, Sellitto nói, “Chúng ta vẫn còn chiếc bẫy ở đồn cảnh sát. Nếu gặp may, biết đâu chúng ta sẽ tóm được hắn.”
 
“Đành phải hy vọng thôi. Chúng ta cũng chỉ còn biết trông cậy vào vận may chết tiệt.”
 
Anh nhắm mắt lại, ngả đầu lên gối nằm thả lỏng. Một lát sau anh nghe thấy tiếng Thom đang nói, “Gần mười một giờ rồi. Đến giờ đi ngủ”.
 
Có nhiều lúc thật dễ dàng lãng quên cơ thể mình, quên đi thực tế rằng chúng ta có một cơ thể – đó là những khi cuộc sống đang bị đe dọa và con người ta phải bước ra khỏi cái thân xác vật chất để tập trung suy nghĩ, làm việc, làm việc không ngừng. Con người ta phải vượt ra khỏi những giới hạn thông thường của mình. Nhưng Lincoln Rhyme có một cơ thể nhất định không chịu để cho chủ nó lãng quên mình. Chứng thối loét vì nằm liệt giường có thể dẫn đến tình trạng nhiễm trùng và nhiễm độc máu. Rồi lại còn tràn dịch màng phổi, viêm phổi. Quên không thông bàng quang ư? Quên không xoa bóp ổ bụng để giúp nhuận tràng ư? Đôi giầy Spenco[65] buộc hơi quá chặt? Hậu quả sẽ là chứng rối loạn huyết áp do mất phản xạ và điều đó có thể dẫn tới một cơn đột quỵ. Trong khi chỉ riêng tình trạng kiệt sức cũng có thể gây ra một cơn nhồi máu cơ tim.
 
Quá nhiều cách chết…
 
“Anh chuẩn bị đi ngủ nào”, Thom nói.
 
“Tôi còn phải..”
 
“Đi ngủ, anh phải đi ngủ.”
 
Rhyme đành chịu thua; anh thấy mệt mỏi, rất mệt mỏi.
 
“Đượv rồi, Thom, được rồi.” Anh đẩy xe về phía cầu thang máy. “Có điều này”,. Anh ngoái lại. “Vài phút nữa cô có thể lên trên này được không, Sachs?”
 
Cô gật đầu, nhìn cửa chiếc cầu thang bé tí đóng sập lại.
 
Cô tìm thấy anh trên chiếc giường Clinitron.
 
Sachs đã chờ hẳn mười phút để anh có đủ thời gian làm cho xong những công đoạn trước khi đi ngủ – Thom đã đặt ống thông tiểu và đánh răng cho ông chủ của mình. Cô biết Rhyme vẫn nói năng bạt mạng – anh có cái khinh bạc bất cần đời của một người tàn phế trước mọi sự thương hại. Nhưng cô cũng biết rằng có những thủ tục cá nhân mà anh không muốn cô nhìn thấy.
 
Cô sử dụng khoảng thời gian đó để tranh thủ tắm qua trong phòng tắm dưới tầng, thay quần áo sạch – của cô – mà Thom vẫn giữ trong phòng giặt là ở dưới tầng hầm.
 
Ánh điện mờ mờ. Rhyme đang cọ cọ đầu trên gối như một con gấu gãi lưng vào một thân cây. Clinitron là chiếc giường tiện nghi nhất thế giới. VDIEU_CUA_THAN_CHET_split_052.html#filepos2223378" id="filepos694072" name="filepos694072" title="">[60] – có nghĩa là ở trụ sở chính ấy mà – thỉnh thoảng vẫn lôi tôi ra trêu chọc. Họ vẫn nhắn tin thông báo là vừa tóm cổ được tên vai u thịt bắp nào đó và muốn nhờ tôi làm phiên dịch. Nhân tiện cũng khẳng định là nơi này rất tốt và an toàn. Mấy anh bạn của chúng tôi bên Bộ Tư pháp, ối chà, họ làm việc đâu vào đấy lắm. Trông rộng hơn là nhìn từ bên ngoài nhỉ?”
 
“Rộng hơn một chiếc cabin, nhỏ hơn một đường băng rộng”, Hale nói.
 
Bell cười khùng khục. “Mấy cái cửa sổ ở phía trước à? Chắc lúc mới lái xe đến đây hai người cảm thấy chúng không được chắc chắn cho lắm?”
 
“Đó là một chuyện…”, Percey bắt đầu.
 
“Chà, phòng phía trước đây rồi. Hãy thử nhìn mà xem.” Anh đẩy một cánh cửa mở hẳn ra.
 
Hoàn toàn không có cửa sổ nào. Những tấm thép đã được gắn chặt phủ lên chúng. “Rèm che ở phía bên kia”, Bell giải thích. “Nhìn từ ngoài phố ai cũng tưởng đây là những căn phòng tối. Tất cả các cửa sổ còn lại đều lắp kính chống đạn. Nhưng hai người không được lại gần trong bất kỳ tình huống nào. Và phải luôn nhớ kéo rèm xuống. Lối thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn và mái nhà đều được trang bị các thiết bị cảm ứng, ngoài ra chúng tôi còn lắp đặt hàng tấn máy quay bí mật xung quanh nhà. Bất kỳ ai tới gần đều bị chúng tôi phát hiện và vô hiệu hóa ngay trước khi họ kịp đặt chân tới cửa trước. Phải là một bóng ma mắc bệnh chán ăn mới có thể lọt vào đây.” Anh bước dọc theo một hành lang rộng. “Hãy theo tôi bước qua phía này một chút… Được rồi, đây là phòng của cô đấy, cô Clay.”
 
“Nếu như chúng ta chuẩn bị sống cùng nhau, có lẽ anh nên gọi tôi là Percey vậy.”
 
“Nhất trí ngay. Còn anh ở bên này, anh…”
 
“Brit.”
 
Những căn phòng đều nhỏ bé, hơi tối và vô cùng yên tĩnh – khác xa văn phòng của Percey trong góc của chiếc hangar ở Hudson Air. Cô chợt nhớ đến Ed, người chỉ thích có một văn phòng trong tòa nhà chính, bàn làm việc luôn được bài trí gọn gàng, ảnh những chiếc B-17 và P-51 treo ngay ngắn trên tường, những cục chặn giấy Lucite đặt trên mỗi chồng tài liệu. Percey thích ngửi mùi xăng máy bay, và tiếng nhạc nền cho một ngày làm việc bận rộn của cô là âm thanh đinh tai nhức óc của những chiếc cờ lê công nghiệp chạy bằng bình khí nén. Cô nhớ đến những lúc hai người còn bên nhau, anh ngồi vắt chân trên bàn làm việc của cô, cùng chia sẻ từng ngụm cà phê. Cô cố xua đưổi những ý nghĩ đó ra khỏi đầu trước khi những giọt nước mắt lại bắt đầu trào ra.
 
Bell đang nói vào chiếc bộ đàm của anh ta. “Các nhân viên vào vị trí.” Một lát sau hai cảnh sát mặc sắc phục xuất hiện ngoài hành lang. Họ gật đầu chào rồi một người lên tiếng. “Chúng tôi sẽ đứng ở ngoài này. Suốt thời gian các vị ở đây”. Kể cũng lạ, kiểu giọng mũi đặc sệt New York của họ dường như cũng không hề khác gì giọng nói kéo dài ồm ồm của Bell.
 
“Như thế là tốt đấy”, Bell nói với Percey.
 
Cô nhướng mày.
 
“Thì cô vừa kiểm tra phù hiệu của anh ta còn gì. Sẽ không ai qua mặt được cô đâu.”
 
Cô gượng cười đáp lại.
 
Bell nói với Percey. “Hiện tại chúng tôi cũng đã cử hai người bảo vệ mẹ chồng cô ở New Jersey. Cô còn người thân nào trong gia đình cần được bảo vệ nữa không?”
 
Percey trả lời không, ít nhất thì cũng là trong khu vực này.
 
Anh lặp lại câu hỏi với Hale, anh ta trả lời với một nụ cười rầu rĩ, “Không có ai, trừ khi một người vợ cũ cũng vẫn được coi là người thân trong gia đình. Hừm, những người vợ thì đúng hơn.”
 
“Tốt rồi. Thế có mèo hay chó gì cần cho ăn không?”
 
“Không”, Percey nói, và Hale lắc đầu.
 
“Nếu vậy chúng ta có thể ung dung thư giãn được rồi. Không được gọi điện thoại di động, trong trường hợp các vị có máy. Chỉ được sử dụng đường dây điện thoại cố định đằng kia. Nhớ những gì tôi nói về cửa sổ và rèm che. Ở đằng kia có một chiếc nút báo động khẩn cấp. Trong trường hợp mọi chuyện không thể nào tồi tệ hơn được nữa, hãy bấm nút và nằm sát xuống sàn nhà. Còn bây giờ, nếu hai người cần bất kỳ điều gì, cứ việc nói với tôi một tiếng là xong.”
 
“Thực ra thì tôi có đấy”, Percey nói. Cô giơ cao chiếc chai bẹt của mình lên.
 
“Ái chà chà”, Bell kéo dài, “nếu cô muốn tôi giúp cô dốc cạn nó thì e là tôi đang trong ca trực. Nhưng dù sao cũng rất cám ơn cô đã mời. Còn nếu cô muốn tôi giúp đổ đầy nó, ok, coi như xong rồi”.
 
Kế hoạch của họ không xuất hiện trên bản tin năm giờ chiều.
 
Nhưng bù lại đã có ba lần phát sóng không gây nhiễu trên tần số sóng bộ đàm cảnh sát toàn thành phố, thông báo cho các đồn cảnh sát về Kế hoạch số 10-66 nhằm tăng cường an ninh tại Đồn Cảnh sát Hai mươi và phát thêm Kế hoạch số 10-67 về việc giải tỏa giao thông và những đoạn phố cần phong tỏa trong khu vực Upper West Side. Tất cả những đối tượng tình nghi đang bị giam giữ trong Đồn Cảnh sát Hai mươi đều phải được chuyển thẳng đến Trại Tạm giam Trung tâm hoặc Nhà giam Liên bang ở khu Hạ Manhattan. Không một ai được phép ra vào đồn mà không có sự cho phép đặc biệt của FBI hoặc của FAA – theo ý của Dellray.
 
Trong khi những thông tin này đang được phát đi, các đội 32-E của Bo Haumann triển khai vào vị trí xung quanh đồn cảnh sát.
 
Lúc này Haumann đang phụ trách chiến dịch mai phục. Fred Dellray lo việc huy động một đội giải cứu con tin liên bang trong trường hợp họ phát hiện ra danh tính của người phụ nữ nuôi mèo và căn hộ của cô ta. Rhyme, cùng với Sachs và Cooper, tiếp tục phân tích các bằng chứng được tìm thấy tại hiện trường.
 
Không có thêm đầu mối nào, nhưng Rhyme vẫn muốn Sahcs và Cooper kiểm tra lại những gì họ đã phát hiện được. Đây là phạm trù khoa học hình sự – bạn tìm kiếm, tìm kiếm và tìm kiếm, để rồi, khi không thể tìm kiếm thấy bất kỳ thứ gì, bạn lại tiếp tục tìm kiếm. Và ngay cả khi đâm sầm vào một bức tường gạch khác, bạn vẫn phải tiếp tục tìm kiếm.
 
Lúc này Rhyme đã đẩy chiếc xe lăn đến sát máy tính và đang ra lệnh cho nó phóng đại hình ảnh của thiết bị hẹn giờ được tìm thấy trong xác chiếc máy bay của Ed Carney. Bản thân chiếc đồng hồ có thể là chẳng giúp ích được gì, vì nó quá phổ biến, nhưng Rhyme vẫn băn khoăn biết đâu nó lại chẳng chứa một chút dấu vết nhỏ hoặc thậm chí là một dấu vân tay nào đó. Những thủ phạm đánh bom vẫn tin rằng dấu vân tay sẽ bị phá hủy khi quả bom phát nổ nên chúng không mấy bận tâm đến việc dùng găng tay khi chạm đến những bộ phận nhỏ li ti của thiềt bị nổ. Nhưng bản thân vụ nổ chưa chắc đã phá hủy các dấu vân tay. Lúc này Rhyme đang ra lệnh cho Cooper đặt chiếc đồng hồ vào khung SuperGlue để phun hóa chất phát hiện vân tay và sau khi phương pháp này không ăn thua, dùng Magna-Brush để quét qua bề mặt, một kỹ thuật làm nổi dấu vân tay bằng cách sử dụng bột từ tính mịn. Lần này anh cũng không phát hiện được gì.
 
Cuối cùng anh ra lệnh bắn phá mẫu vật này bằng nit-yag, một từ lóng để chỉ máy chiếu laser hồng ngoại, loại thiết bị hiện đại nhất dùng để phát hiện những dấu vân tay khó nhìn. Cooper đang quan sát hình ảnh này dưới ống kính hiển vi trong lúc Rhyme kiểm tra nó trên màn hình máy tính.
 
Rhyme bật ra một tiếng cười ngắn, nheo mắt lại, rồi lại chăm chú nhìn, phân vân không biết có phải anh đang bị thị giác của chính mình đánh lừa không.
 
“Có phải kia không?... Nhìn kìa. Góc dưới bên phải ấy!” Rhyme reo lên.
 
Nhưng cả Sachs và Cooper đều không nhìn thấy gì.
 
Hình ảnh phóng to trên màn hình máy tính của anh đã làm lộ ra điều gì đó mà ống kính quang học của Cooper không nhận thấy. Trên lớp vỏ kim loại bảo vệ chiếc đồng hồ hẹn giờ khỏi bị nổ tung thành từng mảnh vụn là một vệt lưỡi liềm mờ mờ gồm những đường lượn sóng đứt đoạn, những đường cắt ngang và rẽ nhánh. Chiều rộng của nó chưa đến 1/16 inch và có lẽ cũng chỉ dài khoảng nửa inch là cùng.
 
“Đúng là dấu vân tay rồi”, Rhyme nói.
 
“Không đủ để so sánh”, Cooper nói, mắt dán chặt vào màn hình máy tính của Rhyme.
 
Trong mỗi dấu vân tay của từng người có tất cả khoảng 150 đặc điểm đường lượn khác nhau nhưng một chuyên gia có thể xác định được dấu vân tay trùng khớp lẽ ra tôi đã có thể.”
 
“Đừng có khinh suất thế, Sachs. Quả bom đó…”
 
Vẻ dữ dội trong mắt cô lúc này khiến anh im bặt. “Tôi muốn tóm được hắn, bằng mọi giá. Và tôi có cảm giác là anh cũng muốn tóm được hắn không kém gì tôi. Tôi nghĩ nếu là anh chắc anh cũng đánh liều thôi.” Cô nói thêm với một vẻ ý nhị đầy bí ẩn, “Mà có thể anh đang liều cũng nên”.
 
Nhận xét này gây ra một phản ứng mạnh mẽ hơn cả những gì cô đã dự tính. Anh hấp háy mắt, rồi nhìn lãng ra chỗ khác. Nhưng anh vẫn không nói gì, chỉ lặng lẽ nhấm nháp chỗ whiskey của mình.
 
Đột nhiên cô lên tiếng, “Tôi hỏi điều này được không? Nếu anh không muốn tôi hỏi, anh có thể bảo tôi ngậm miệng lại”.
 
“Cứ hỏi đi, Sachs. Chẳng lẽ giữa tôi và cô vẫn còn những bí mật hay sao? Tôi không nghĩ vậy.”
 
Mắt dán chặt xuống sàn nhà, cô nói, “Tôi nhớ có lần tôi đã kể cho anh nghe về Nick. Về những tình cảm tôi dành cho anh ấy, đại loại thế. Về chuyện xảy ra giữa hai chúng tôi đã khó khăn đến nhường nào”.
 
Anh gật đầu.
 
“Và tôi hỏi anh liệu anh có những tình cảm như vậy với bất kỳ ai chưa, có thể là với vợ anh. Và anh trả lời là có, nhưng không phải với Blaine.” Cô ngước lên nhìn anh.
 
Anh trấn tĩnh rất nhanh, nhưng vẫn không đủ nhanh. Và cô chợt nhận ra cô vừa thổi không khí lạnh buốt lên một tế bào thần kinh trần trụi.
 
“Tôi nhớ”, anh trả lời.
 
“Chị ấy là ai? Nghe này, nếu như anh không muốn nói đến chuyện đó…”
 
“Tôi không ngại đâu. Tên cô ấy là Claire. Claire Trilling. Cô thấy cái họ đó lạ tai không[66]?”
 
“Có lẽ hồi ở trường chị ấy cũng phải chịu đựng những trò trêu chọc chẳng kém gì tôi. Amelia Sex, Amelia Sucks[67]… Anh đã gặp chị ấy như thế nào?”
 
“À thì…”, anh bật cười vì chính sự lúng túng của mình rồi tiếp tục. “Ngay trong sở.”
 
“Chị ấy cũng là cảnh sát?”, Sachs không giấu được sự ngạc nhiên.
 
“Đúng.”
 
“Chuyện gì đã xảy ra?”
 
“Đó là một… mối quan hệ khó khăn.” Rhyme buồn bã lắc đầu. “Tôi đã có vợ, cô ấy đã có chồng. Chỉ có điều không phải là vợ chồng của nhau.”
 
“Con cái?”
 
“Cô ấy có một đứa con gái.”
 
“Vậy là hai người chia tay?”
 
“Chuyện đó chẳng đi đến đâu, Sachs. Ôi trời, Blaine và tôi sớm muộn gì cũng ly hôn – nếu không thì cũng giết lẫn nhau. Đó chỉ còn là vấn đề thời gian. Nhưng Claire… cô ấy lo cho con gái của mình – sợ chồng cô ấy sẽ giành được quyền nuôi con bé nếu cô ấy ly hôn. Cô ấy không yêu anh ta, nhưng anh ta là người tốt. Rất yêu con.”
 
“Anh đã gặp con bé chưa?”
 
“Đứa con gái ư? Rồi.”
 
“Bây giờ anh còn gặp chị ấy không? Claire ấy?”
 
“Không. Đó là chuyện quá khứ rồi. Cô ấy không còn làm trong lực lượng cảnh sát nữa.”
 
“Hai người chia tay sau tai nạn của anh?”
 
“Không, không, từ trước cơ.”
 
“Nhưng dù sao chị ấy cũng phải biết là anh bị thương chứ, đúng không?”
 
“Không”, Rhyme nói sau một thoáng lưỡng lự kéo dài.
 
“Tại sao anh không nói cho chị ấy biết?”
 
Một khoảng im lặng. “Có một số lý do… Kể cũng buồn, cô lại gợi chuyện về cô ấy lên. Đã mấy năm rồi tôi không còn nghĩ đến cô ấy nữa.”
 
Anh gắng nở nụ cười gượng gạo, và Sachs cảm thấy cơn đau chạy xuyên qua người i chiều mùa xuân ẩm ướt, cũng giống như chiều hôm nay.
 
“Chắc phải phiêu lưu lắm”, Bell nhận xét, với vẻ mặt ngờ vực, tò mò.
 
“Còn hơn thế nhiều”, Percey nói, rồi tu một hớp rượu từ cái chai bẹt.
 
Hai mươi phút sau khi cất cánh động cơ đột ngột ngừng hoạt động ngay lúc đang bay trên khu Hoang dã ở phía đông Virginia, một cơn ác mộng với những bụi mâm xôi và rặng thông rậm rạp. Cô cho chiếc máy bay hạ cánh xuống một con đường mòn, tự mình làm sạch đường ống dẫn nhiên liệu rồi lại cất cánh lần nữa, quay về nhà, bình yên vô sự.
 
Chiếc Cessna nhỏ bé không bị hề hấn gì – do vậy người chủ của nó không bao giờ phát hiện ra cuộc phiêu lưu vụng trộm. Trên thực tế, hệ quả duy nhất sau vụ này là bài thuyết giáo cô nhận từ mẹ mình bởi ông hiệu trưởng ở trường Lee gọi điện về nhà thông báo việc Percey tham gia vào một chuyến bay khác và đã đấm vỡ mũi Susan Beth Halworth rồi bỏ học sau tiết thứ năm.
 
“Tôi phải bỏ đến nơi khác”, Percey giải thích với Bell. “Lúc nào họ cũng lôi tôi ra làm trò cười. Tôi nhớ là hồi đó họ gọi tôi là Quỷ lùn. Rất nhiều người gọi tôi như thế.”
 
“Trẻ con nhiều khi cũng nhẫn tâm”, Bell nói. “Chắc tôi sẽ lột da mấy thằng con mình, nếu chúng làm bất kỳ chuyện gì giống như… Mà khoan đã, hồi đó cô bao nhiêu tuổi nhỉ?”
 
“Mười ba.”
 
“Cô có thể làm vậy thật sao? Ý tôi là chẳng phải ít nhất là đủ mười tám tuổi mới được lái máy bay à?”
 
“Mười sáu.”
 
“Ôi. Nếu thế… làm thế nào mà cô có thể bay trộm mãi được?”
 
“Họ không bao giờ bắt được tôi”, Percey nói. “Lý do là thế đấy.”
 
“Ôi trời.”
 
Percey và Roland Bell đang ngồi trong phòng của cô ở ngôi nhà an toàn. Anh đã đổ đầy whiskey Wild Turkey vào chiếc chai cho cô – một món quà cảm tạ của tay cơ sở cung cấp tin về bọn găngxtơ đã từng sống ở đây năm tuần liền – và lúc này họ đang ngồi trên chiếc sofa màu xanh lục, viên thám tử cẩn thận vặn nhỏ chiếc máy bộ đàm của mình. Percey ngồi ngả hẳn ra sau, Bell ngồi ngả người ra phía trước – tư thế ngồi của anh như vậy không phải vì chiếc ghế không được êm ái và thoải mái, mà do sự cảnh giác cao độ của người cảnh sát. Mắt anh không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào kề cả một con ruồi bay qua cửa, một làn gió lùa vào rèm cửa sổ và tay anh chốc chốc lại lần xuống một trong hai khẩu súng to đùng anh luông mang theo bên mình.
 
Trước sự háo hức lắng nghe của anh, cô tiếp tục kể câu chuyện về sự nghiệp bay của mình. Cô nhận chứng chỉ học viên phi công năm mười sáu tuổi, chứng chỉ phi công tư nhân sau đó một năm và đến tuổi mười tám, cô đã có giấy phép lái máy bay thương mại.
 
Trước sự bàng hoàng của bố mẹ, cô từ bỏ truyền thống kinh doanh thuốc lá của gia đình (bố cô không làm việc cho một “công ty” mà là “người trồng”, mặc dù ai cũng biết đó là một công ty lớn với doanh số lên đến sáu tỷ đô la) để theo đuổi ngành cơ khí. (“Rời bỏ trường Đại học Tổng hợp Virginia là điều khôn ngoan đầu tiên con bé từng làm”, mẹ Percey đã nói thẳng với bố cô như vậy, đó là lần duy nhất cô có thể nhớ là mẹ đã đứng về phía mình. Thậm chí bà còn nói thêm, “Với lại kiếm một tấm chồng ở trường Kỹ thuật Virginia cũng dễ dàng hơn”. Ý bà muốn nói là bọn con trai ở đó cũng không kén cá chọn canh cho lắm.)
 
Nhưng tiệc tùng, rồi bọn con trai hay các hội nữ sinh hoàn toàn không phải là điều cô quan tâm. Có đúng một điều và chỉ một điều duy nhất. Máy bay. Tất cả những ngày có thể phù hợp về mặt tài chính và thể lực là cô lại bay. Cô nhận được chứng chỉ hướng dẫn bay của mình và bắt đầu làm huấn luyện viên. Percey cũng không thích thú lắm với công việc này nhưng cô vẫn kiên trì thực hiện vì một lý do rất khôn ngoan: những giờ hướng dẫn bay của cô sẽ được tính vào sổ nhật ký bay như là khoảng thời gian làm phi công chỉ huy. Đây sẽ là những thông tin ấn tượng trong hồ sơ xin việc một khi cô đến gõ cửa các hãng hàng không.
 
Sau khi tốt nghiệp cô bắt đầu cuộc sống của một phi công thất nghiệp. Giảng dạy, triễn lãm hàng không, bay thử nghiệm, thỉnh thoảng làm phụ lái chocô – cơn đau thực sự giống như cú va đập để lại vết bầm tím hình bang Missouri. Bởi vì những gì anh vừa nói là một lời dối trá. Ôi, anh vẫn luôn nghĩ về người phụ nữ đó. Sachs không tin vào trực giác của phụ nữ, nhưng cô tin vào trực giác của một cảnh sát; cô đã quá dày dạn nên không thể nào không nhận ra những dấu hiệu hiển nhiên đó. Cô biết Rhyme vẫn nghĩ đến cô Trilling kia.
 
Những cảm giác trong cô lúc này mới lố bịch làm sao, tất nhiên rồi. Cô không có đủ kiên nhẫn cho sự ghen tuông. Trước kia cô cũng không bao giờ ghen với công việc của Nick – anh là một đặc vụ chìm và dành hàng tuần liền lê la trên đường phố. Không bao giờ ghen với những cô gái điếm và những cô nàng tóc vàng hoe mà anh vẫn tán tỉnh bên cốc rượu trong các lần thực hiện nhiệm vụ.
 
Và nếu gác sự ghen tuông sang một bên đi, cô còn định hy vọng điều gì với Rhyme cơ chứ? Cô đã nhiều lần tâm sự chuyện về anh với mẹ mình. Và bao giờ người phụ nữ già dặn, trải đời đó đều nói một câu đại loại như, “Tử tế với một người tàn tật như thế kể cũng tốt.”
 
Điều đó dường như khái quát tất cả những gì mà mối quan hệ của họ nên trở thành. Và cũng chỉ có thể đến được thế.
 
Thậm chí còn hơn lố bịch.
 
Nhưng thực tế là cô đang ghen. Và không phải với Claire.
 
Mà với Percey Clay.
 
Sachs không thể nào quên cách họ đã nhìn nhau khi cô bắt gặp họ ngồi bên nhau trong phòng của anh, buổi chiều hôm nay.
 
Lại uống thêm rượu. Nghĩ về những đêm cô và Rhyme đã cùng trải qua trong căn phòng này, nói chuyện về những vụ án, nhấm nháp thứ rượu tuyệt với này.Ôi, tuyệt thật. Mình lại đang khóc sướt mướt cơ đấy. Một cảm giác mới chín chắn làm sao. Mình phải túm vào giữa ngực nó và giết nó chết ngay mới được.
 
Nhưng rồi cô lại đổ thêm men rượu vào cảm xúc đó.
 
Percey không phải là một phụ nữ quyến rũ, nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì; Sachs đã mất trọn một tuần ở Chantell, công ty người mẫu trên Đại lộ Madison, nơi cô làm việc mấy năm liền, để hiểu được sự trớ trêu của cái đẹp. Đàn ông thích ngắm nhìn những cô nàng hấp dẫn, nhưng cũng không có gì làm họ hoảng sợ hơn những cô nàng như thế.
 
“Anh muốn làm thêm chầu nữa không?”
 
“Thôi”, anh nói.
 
Lúc này, không hề nghĩ ngợi gì, cô nằm xuống giường, ngã đầu lên gối của anh. Cách con người ta điều chỉnh theo hoàn cảnh kể cũng buồn cười, cô thầm nghĩ. Tất nhiên Rhyme không thể ghì cô nép sát vào ngực anh và choàng tay anh qua người cô. Nhưng cử chỉ tình cảm không kém của anh là nghiêng đầu anh sát vào đầu cô. Với tư thế đó, họ đã cùng nhau ngủ thiếp đi một vài lần.
 
Tuy vậy, đêm nay cô cảm thấy một sự gượng gạo, một sự e dè.
 
Cô cảm thấy cô đang mất dần anh. Tất cả những gì cô nghĩ trong đầu lúc này là cố gắng nép lại gần thêm nữa. Gần hết mức có thể.
 
Đã có lần Sachs tâm sự với bạn mình, Amy, người mẹ của cô con gái mà cô nhận đỡ đầu, về Rhyme, về những tình cảm cô dành cho anh. Và cô bạn đã băn khoăn không hiểu điều gì làm nên sức hấp dẫn ở anh, rồi phỏng đoán, “Có lẽ chính là điều đó, cậu biết đấy, anh ấy không cử động được. Anh ấy là một người đàn ông nhưng lại không hề có vai trò kiểm soát nào đối với cậu cả. Có thể đó chính là điều mang lại sự hấp dẫn”.
 
Nhưng Sachs biết rằng nguyên nhân hoàn toàn ngược lại. Sức hấp dẫn nằm ở chỗ chính anh là người kiểm soát hoàn toàn, bất chấp thực tế rằng anh không thể cử động
 
Những từ ngũ rời rạc từ miệng anh buột ra cứ trượt đi mơ hồ khi anh nói về Claire, rồi về tên Vũ công. Cô nghiêng đầu và nhìn chằm chằm vào cặp môi mỏng của anh.
 
Hai bàn tay cô bắt đầu đi lang thang.
 
Anh không cảm thấy gì, tất nhiên, nhưng anh có thể nhận ra những ngón tay thanh tú hoàn hảo của cô cùng những đầu móng tay nham nhở đang trượt dần trên ngực và lần xuống dưới cơ thể mềm mại của anh. Thom tập thể dục cho anh hằng ngày bằng một loạt những động tác chuyển động phứt tạp và mặc dù Rhyme không phải là người vạm vỡ nhưng anh cũng có cơsp;
“Cũng bị tóm cổ và tống giam cùng những người hung hăng nhất. Đánh ngất xỉu một gã trung úy và bẻ gãy ngón tay một gã khác, mặc dù tôi rất tiếc phải nói hắn ta say đến nỗi không hề thấy đau đớn gì cho đến tận sáng ngày hôm sau.” Cô lại nhấp thêm một ngụm whiskey.
 
“Vụ đó có tệ như người ta vẫn nói không?”
 
Sau một lát im lặng cô nói, “Anh đã quen với việc cảnh giác đề phòng một phi công Bắc Triều Tiên hoặc Iran nào đó lái chiếc MiG từ phía mặt trời mọc tới và tấn công anh. Nhưng khi những người lẽ ra cùng chiến tuyến với anh lại làm điều tồi tệ đó, anh sẽ thực sự thấy vỡ mộng. Nó khiến anh cảm thấy bẩn thỉu, như bị phản bội.”
 
“Chuyện gì đã xảy ra?”
 
“À, cả một mớ bung bét”, cô làu bàu. “Tôi không chịu nhún mình. Tôi đã vạch mặt chỉ tên và loại nhiều kẻ ra khỏi lực lượng. Một số phi công, nhưng cũng có cả những người ở cương vị cao hơn nữa. Chuyện đó gây ra không khí căng thẳng trong các phòng họp giao ban. Chắc anh cũng biết rồi đấy.”
 
Dù có những kỷ năng của loài khỉ hay không, bạn không thể bay với phi công yểm trợ mà bạn không tin tưởng. “Thế là tôi giải ngũ. Cũng không vấn đề gì. Tôi đã tận hưởng quãng thời gian vui vẻ với những chiếc phản lực, đã có những phi vụ nhớ đời. Nhưng rồi cũng đến lúc ra đi. Trước đó, tôi đã gặp Ed – chồng tôi – và chúng tôi quyết định thành lập công ty bay dịch vụ này. Tôi quay về hòa giải với bố – tạm gọi là như thế – rồi ông cho tôi vay phần lớn số tiền tôi cần để thành lập công ty.” Cô nhún vai. “Khoản tiền mà tôi phải trả dần cả gốc lẫn lãi với mức lãi suất 3%, tuyệt đối không được thanh toán chậm một ngày nào. Đúng là chết…”
 
Ý nghĩ này lại làm cô nhớ tới những ký ức về Ed. Giúp cô xoay sở lo những khoản vay. Cùng nhau đi chọn máy bay tại những công ty cho thuê nhìn hai người với vẻ nghi ngại. Rồi lại còn đi thuê mặt bằng làm hangar. Tranh cãi khi loay hoay sửa chữa bảng điều khiển tring buồng lái lúc ba giờ sáng, cố gắng chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho chuyến bay lúc sáu giờ. Những hình ảnh đó làm cô thấy đau đớn không kém gì căn bệnh thiên đầu thống dữ dội của mình. Cố gắng xua đuổi những ý nghĩ đó ra khỏi đầu, cô hỏi, “Vậy thì điều gì đã mang anh lên phía bắc này?”.
 
“Gia đình vợ tôi ở trên này. Ở Long Island.”
 
“Hóa ra anh từ bỏ North Carolina vì họ hàng bên ngoại sao?” Suýt chút nữa Percey đã buột miệng hỏi xem vợ Bell đã dắt mũi ông bằng cách nào nhưng cũng may mà cô chưa kịp hỏi. Đôi mắt màu nâu nhạt của anh bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt cô khi anh nói thủng thẳng, “Beth bị ốm rất nặng. Cô ấy qua đời cách đây mười chín tháng”.
 
“Ôi, tôi rất tiếc.”
 
“Cám ơn cô. Quan trọng là trên này có Trung tâm Sloan-Kettering[61] và cả gia đình, anh chị em cô ấy cũng ở trên này nữa. Thực tế là tôi cần có người giúp đỡ việc chăm sóc bọn trẻ. Tôi có thể cùng chúng chơi bóng đá và cũng biết làm món xốt cay nhưng chúng còn cần nhiều thứ hơn thế. Ví dụ như lần nào giặt tôi cũng làm co và nhăn nhúm hết những chiếc áo len của chúng. Đại loại là vậy. Vả lại ngay chính bản thân tôi cũng phản đối việc chuyển nhà. Tôi muốn cho bọn trẻ thấy rằng cuộc đời không chỉ là những chiếc silo[62] hoặc những chiếc máy gặt đập liên hợp.”
 
“Anh có ảnh của chúng ở đây không?”, Percey hỏi, rồi lại đưa chiếc chai bẹt lên miệng. Ngụm rượu nóng bỏng, thơm ngào ngạt cháy bùng lên trong một khoảnh khắc thật đê mê. Cô quyết định từ giờ sẽ bỏ rượu. Rồi lại quyết định thôi không bỏ nữa.
 
“Tất nhiên là có chứ.” Anh rút trong túi quần rộng thùng thình ra một chiếc ví rồi khoe ảnh bọn trẻ. Hai cậu bé tóc vàng, khoảng năm đến bảy tuổi. “Benjamin và Kevin”, Bell giới thiệu.
 
Percey cũng thoáng nhìn thấy một bức ảnh khác – một người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp, từng lọn tóc ngắn rủ ngang trán.
 
“Hai đứa thật đáng yêu.”
 
“Cô có con cái gì chưa?”
 
“Chưa”, cô trả lời, lặng lẽ ngẫm nghĩ. Mình vẫn luôn có những lý do riêng. Lúc nào cũng năm sau hoặc năm sau nữa. Khi công ty đã làm ăn khấm khá hơn. Khi chúng ta đã thuê được chiếc 737 kia. Rồi sau khi mình đã có chứng chỉ DC-9… Cô nhìn anh với một nụ cười khắc khổ. “Các con anh thì sao? Lớn lên chúng có muốn trở thành cảnh sát không?”
 
“Chúng chỉ muốn làm cầu thủ bóng đá thôi. Kể ra ở New York này thì nghề đó cũng không triển vọng cho lắm. Trừ khi đội Mets vẫn tiếp tục giữ phong độ thi đấu như thời gian qua.”
 
Trước sự im lặng trở nên quá nặng nề, Percey chợt hỏi, “Tôi gọi về công ty một lát có được không? Tôi phải kiểm tra xem chiếc máy bay được sửa chữa đến đâu rồi”.
 
“Được chứ. Tôi sẽ để cô ngồi lại một mình. Chỉ nhớ là không được để lộ số điện thoại hoặc địa chỉ của chúng ta cho bất kỳ ai. Đó là điều tôi sẽ nhất định không tha thứ đâu đấy.”
Chú thích

[58] Tarheel: Nghĩa là người quê ở bang North Carolina.
[59] Cờ Sao và Vạch ngang: Lá cờ của các bang niền Nam ly khai trong Nội chiến Mỹ (1861-1865). North Carolia và Virginia (có thủ phủ là Richmond) đều là hai bang miền Nam ly khai, còn Michigan là bang tham gia vào phe niền Bắc.
[60] One PolicePlaza: Tòa nhà Lớn – Sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York.
[61] Trung tâm Sloan-Kettering: Một cơ sở nghiên cứu và điều trị ung thư nởi tiếng trên thế giới. Tên ban đầu khi thành lập năm 1884 là Bện viện Ung thư New York.
[62] Silo (tháp cao hoặc hầm ủ tươi thức ăn hoặc cỏ cho gia súc trong trang trại). North Carolina là một bang có ngành nông nghiệp phát triển.
 

Truyện CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 gười đồng nghiệp. Một người bạn với chữ B viết hoa.
 
“Anh xin lỗi, Sachs… anh không thể. Có nhiều chuyện phức tạp lắm.”
 
Phức tạp ư? Cô chẳng thấy có gì phức tạp cả, tất nhiên là trừ thực tế rằng anh không hề yêu cô.
 
“Không, em mới phải xin lỗi”, cô cộc cằn nói. “Thật ngu xuẩn. Tại uống quá nhiều thứ nước men mạch nha khốn kiếp kia. Em cứ uống rượu vào là không còn biết gì nữa. Anh biết rồi mà.”
 
“Sachs.”
 
Cô giữ nguyên nụ cười chua chát trên môi khi mặc lại quần áo.
 
“Sachs, để anh nói với em điều này”.
 
“Không.” Cô không muốn nghe thêm bất kỳ lời nào nữa.
 
“Sachs…”
 
“Em nên đi thôi. Sáng mai em phải đến đây sớm nữa mà.”
 
“Anh chỉ muốn nói điều này.”
 
Nhưng Rhyme không có cơ hội để nói bất kỳ điều gì, cho dù là một lời giải thích, một lời xin lỗi hay một lời thú tội. Hoặc một bài rao giảng.
 
Câu chuyện của họ bị ngắt quãng bởi những tiếng đập thình thình lên cánh cửa. Trước khi Rhyme kịp hỏi ai ngoài đó thì Lon Sellitto đã lao ùa vào phòng.
 
Anh ta liếc nhìn Sachs một cách rất thản nhiên, rồi quay lại đối diện với Rhyme và thông báo, “Vừa nhận được tin báo từ mấy tay cấp dưới của Bo trên Đồn Cảnh sát Hai mươi. Tên Vũ công đã tới đó, nghiên cứu địa điểm. Thằng chó đẻ đó mắc câu rồi! Chúng ta sắp tóm được hắn, Lincoln. Lần này chúng ta sẽ tóm được hắn”.
 
“Cách đây khoảng hai tiếng”, viên thám tử tiếp tục câu chuyện của mình, “mấy tay phụ trách trinh sát nhìn thấy một người đàn ông da trắng lởn vởn bên ngoài trụ sở Đồn Cảnh sát Hai mươi. Hắn đã lẻn vào một con hẻm và có vẻ như trước đó hắn đang theo dõi những cảnh sát làm nhiệm vụ canh phòng. Và rồi họ thấy hắn dùng ống nhòm quan sát trạm xăng bên cạnh đồn cảnh sát.”
 
“Trạm xăng? Cho những chiếc RMP?” Nghĩa là phương tiện tuần tra cơ dùng trang bị radio – nói ngắn gọn là xe tuần tra.
 
“Đúng vậy.”
 
“Họ có bám theo hắn không?”
 
“Có thử. Nhưng hắn biến mất trước khi họ đến gần.”
 
Rhuyme nhận ra Sachs đang kín đáo cài nốt chiếc cúc áo trên cùng của cô… Anh phải nói chuyện riêng với cô về những gì vừa xảy ra. Anh phải làm cho cô hiểu. Nhưng căn cứ vào những gì Sellitto đang nói lúc này, chuyện kia sẽ phải để lại sau.
 
“Tin này còn tốt hơn. Cách đây nửa giờ, chúng tôi nhận được báo cáo về một chiếc xe tải bị cướp. Của hãng Rollins Distributing. Ở Upper West Side gần sông. Họ vận chuyển xăng tới cho các trạm bán xăng độc lập. Có kẻ đã chui vào qua hàng rào dây thép gai. Tay bảo vệ nghe thấy tiếng động và chạy tới kiểm tra. Anh ta bị tấn công bất ngờ. Hắn đánh anh ta đến bất tỉnh. Rồi hắn bỏ trốn với một chiếc xe tải.”
 
“Có phải Rollins chính là công ty mà Sở Cảnh sát thuê chở xăng không?”
 
“Không, nhưng mà ai biết được? Tên Vũ công sẽ mò tới Đồn Cảnh sát Hai mươi trong một chiếc xe téc, những cảnh sát bảo vệ ở đó sẽ không nghi ngờ gì hết, họ vẫy cho hắn vào trong và tiếp theo…”
 
Sachs ngắt lới. “Chiếc xe chở xăng nổ tung.”
 
Điều này khiến Sellitto giật mình. “Tôi chỉ đang nghĩ là hắn sử dụng chiếc xe làm phương tiện để lọt vào trong thôi. Cô nghĩ là hắn sẽ lại dùng bom sao?”
 
Rhyme gật đầu với vẻ nghiêm trọng. Và giận dữ với chính mình. Sachs nói đúng. “Hắn lại khôn ngoan hơn chúng ta rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ là hắn sẽ dùng đến thủ đoạn như thế này. Lạy Chúa, một chiếc xe téc chở xăng mà nổ trong khu vực đó…”
 
“Một quả bom phân bón?”
 
“Không”, Rhyme nói. “Tôi không nghĩ hắn còn đủ thời gian để làm chuyện đó. Nhưng tất cả những gì hắn cần là một quả bom sát thương gắn bên sườn một chiếc xe téc nhỏ và hắn có một thiết bị kích nổ siêu hạng là xăng. Chắc chắn cả trụ sở đồn cảnh sát sẽ cháy rụi. Chúng ta phải cho mọi người sơ tán. Thật kín đáo.”
 
“Kín đáo”, Sellitto lầm bầm. “Cứ như dễ lắm ấy.”
 
“Người bảo vệ của công ty phân phối xăng như thế nào rồi? Anh ta nói được chưa?”
 
“Được rồi, nhưng anh ta bị đánh từ phía sau. Chẳng kịp nhìn thấy gì cả.”
 
“Hừm, ít nhất thì tôi cũng muốn xem qua quần áo của anh ta, Sachs” – cô bắt gặp ánh mắt anh đang nhìn mình – “cô có thể ghé qua bệnh viện và mang chúng về đây không? Cô sẽ biết phải gói chúng như thế nào mà vẫn giữ lại được các bằng chứng. Rồi sau đó hãy khám nghiệm hiện trường nơi hắn cướp chiếc xe tải”.
 
Anh phân vân không biết cô sẽ phản ứng thế nào. Anh cũng sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên nếu cô lạnh lùng từ chối và cứ thế bước thẳng ra cửa. Nhưng anh có thể nhìn thấy trên khuôn mặt xinh đẹp và vô cảm của cô một điều, cô cũng có cảm giác giống hệt anh lúc này: thật mỉa mai, đó là cảm giác nhẹ nhõm vì tên Vũ công đã can thiệp đúng lúc để thay đổi buổi tối khủng khiếp của hai người.
 
Cuối cùng, cuối cùng thì đôi chút vận may mà Ryme chờ đợi cũng xuất hiện.
 
Một tiếng đồng hồ sau Amelia Sachs quay lại. Cô giơ cao chiếc túi plastic bên trong đựng một cặp kìm cắt dây thép.
 
“Tìm thấy nó ở gần hàng rào thép gai. Chắc chắn người bảo vệ đã làm tên Vũ công giật mình và hắn buộc phải bỏ nó xuống.”
 
“Đúng!” Rhyme hét toáng lên. “Tôi chưa bao giờ thấy hắn phạm một sai lầm như thế. Có thể là hắn đang hành động cẩu thả… Tôi tự hỏi điều gì đang làm hắn sợ.”
 
Rhyme liếc nhìn chiếc kìm. Cầu trời, anh thầm cầu nguyện, trên đó có một dấu vân tay.
 
Nhưng anh chàng Mel Cooper ngái ngủ – anh ta đã ngủ lại ở một trong những phòng ngủ nhỏ hơn trên tầng – đã kiểm tra từng milimét vuông trên chiếc kìm. Hoàn toàn không có dấu vân tay nào.
 
“Nó cho chúng ta biết điều gì không?”, Rhyme hỏi.
 
“Đây là một chiếc kìm mang model Craftsman, loại chất lượng tốt nhất, có bán ở tất cả cửa hàng dụng cụ Sears trên cả nước. Vả lại ai cũng có thể mua chúng trong những đợt thanh lý dụng cụ ga ra hoặc đồ đồng nát với giá chỉ vài đô la.”
 
Rhyme thở hổn hển vì giận dữ. Anh chằm chằm nhìn chiếc kìm một lúc lâu rồi nói, “Có dấu dụng cụ nào không?”.
 
Cooper nhìn anh với ánh mắt tò mò. Dấu dụng cụ là những vết đặt trưng do dụng cụ mà bọn tội phạm sử dụng đã lưu lại hiện trường – bằng tuốt nơ vít, cờ lê, xà beng nạy khóa, đòn bẩy, và đủ các thứ linh tinh khác. Đã có lần Rhyme tìm ra được mối liên hệ giữa một vụ trộm và một hiện trường vụ án chỉ hoàn toàn nhờ vào một khe cắt hình chữ V bé tí trên củ khóa đồng. Khe cắt ăn khớp với vết mẻ trên một cái đục tìm thấy trong thùng dụng cụ của thủ phạm. Tuy vậy, ở đây thì họ chỉ có dụng cụ, trong khi lại chẳng thấy dấu vết nào mà có thể nó đã tạo ra. Cooper không hiểu Rhyme đang định nói đến dấu dụng cụ nào nữa.
 
“Tôi đang nói đến những dấu vết lưu lại trên lưỡi kìm”, anh cáu kỉnh nói. “Biết đâu tên Vũ công đã dùng nó để cắt một thứ gì đó đặc biệt, một thứ gì đó có thể cho chúng ta biết hắn đang nhắm vào đâu.”
 
“Ôi.” Cooper chăm chú kiểm tra lưỡi kìm. “Lưỡi kìm bị mẻ, nhưng để tôi xem nào… Anh có thấy gì bất thường không?”
 
Rhyme không thấy. “Nạo lưỡi kìm và tay cầm. Kiểm tra xem còn chất gì dính lại không.”
 
Cooper cho kiểm tra những thứ vừa được cạo ra trên máy sắc ký khí.
 
“Phù”, anh làu bàu khi những kết quả vừa được phân tích. “Nghe cho rõ này. Dư chất RDX, asphalt và tơ nhân tạo.”
 
“Dây cháy chậm”, Rhyme nói.
 
“Hắn cắt nó bằng kìm thật sao?” Sachs hỏi. “Chẳng lẽ có thể làm thế thật?”
 
“Ối dào, nó ổn định như clothesline ấy mà.” Rhyme lơ đễnh trả lời, anh đang mải hình dung ra cảnh hàng nghìn gallon CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 LỜI TÁC GIẢ