CHƯƠNG 9

PHẦN NĂM
VŨ ĐIỆU CỦA THẦN CHẾT
Giờ thứ 42 của 45
CHƯƠNG 35

Tôi ngước lên và nhận ra một chấm nhỏ đang rơi, hiện rõ dần thành hình một trái tim lộn ngược, một con chim đang bổ xuống. Gió gào thét qua những chiếc chuông của nó, tạo nên một âm thanh có một không hai trên Trái Đất này khi con chim lao xuống từ độ cao nửa dặm xuyên qua bầu trời mùa thu trong vắt. Đúng khoảnh khắc cuối cùng con chim ưng ngoặt ngang song song với đường bay của con gà gô và chộp lấy nó từ phía sau với tiếng “phập” chắc nịch của một viên đạn cỡ lớn đang xuyên vào da thịt.

CƠN THỊNH NỘ CỦA CHIM ƯNG, STEPHEN BODIO
 
 
 
 
 
ã hơn ba giờ sáng, Rhyme tự nhủ. Percey Clay đang bay trở về East Side trên một chiếc phản lực của FBI và chỉ vài tiếng nữa thôi cô sẽ trên đường tới tòa án để chuẩn bị sẵn sàng cho việc trình diện trước bồi thẩm đoàn.
Vậy mà anh vẫn chưa có manh mối nào về việc tên Vũ công Quan tài đang ở đâu, hắn đang âm mưu điều gì, và về vỏ bọc của hắn lúc này.
Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh nghe máy. Mặt anh nhăn nhúm lại. “Lạy chúa. Tên Vũ công vừa giết thêm một người nào đó. Họ mới tìm thấy một xác chết – đã bị xóa đặc điểm nhận dạng – trong đường hầm đi bộ ở Công viên Trung tâm. Gần Đại lộ Năm.”
“Các đặc điểm nhận dạng bị xóa bỏ hoàn toàn à?”
“Có vẻ hắn làm bài bản lắm. Cắt mất hai bàn tay, bẻ răng, rạch cằm, và lột bỏ quần áo nạn nhân. Nam giới, da trắng. Còn khá trẻ. Khoảng ba mươi gì đó.” Viên thám tử lại chăm chú nghe máy. “Không phải người vô gia cư”, anh thông báo lại. “Anh ta rất sạch sẽ, thân hình khỏe mạnh. Lực lưỡng. Haumann cho rằng đó là một tay trí thức thời thượng bên khu Upper East Side.”
“Được rồi”, Rhyme nói. “Đưa anh ta tới đây. Tôi muốn đích thân kiểm tra nó.”
“Cái xác ư?”
“Chính xác.”
“Chậc, được thôi.”
“Vậy là giờ đây tên Vũ công lại có một vỏ bọc mới”, Rhyme giận dữ lẩm bẩm. “Là cái chết tiệt gì mới được chứ? Tiếp sau đây hắn sẽ tấn công chúng ta như thế nào?”
Rhyme thở dài, ngước lên nhìn ra phía cửa sổ. Anh nói với Dellray, “Các anh định đưa họ tới ngôi nhà an toàn nào bây giờ?”.
“Tôi cũng đang nghĩ về điều đó”, viên đặc vụ cao lêu nghêu nói. “Theo như tôi nghĩ thì...”
“Của chúng tôi”, một giọng nói khác vang lên.
Mọi người quay ra nhìn người đàn ông béo ú đứng trên ngưỡng cửa.
“Nhà an toàn của chúng tôi”, Reggie Eliopolos nói. “Chúng tôi sẽ phụ trách việc bảo vệ họ.”
“Không bao giờ, trừ phi anh có...” Rhyme bắt đầu.
Tay công tố viên tự đắc vẫy vẫy tờ giấy trước mặt Rhyme, anh ta vẫy quá nhanh nên không ai kịp đọc gì, nhưng tất cả đều biết chắc chắn lệnh tiếp quản bảo vệ nhân chứng lần này là hợp pháp.
“Đó không phải là một ý hay đâu”, Rhyme nói.
“Dù sao cũng còn hay hơn ý tưởng của anh về việc cố làm cho nhân chứng cuối cùng của chúng tôi bị giết bằng bất kỳ cách nào có thể.”
Sachs giận dữ sấn bước lên phía trước, nhưng Rhyme đã lặng lẽ lắc đầu.
“Hãy tin tôi”, Rhyme nói, “tên Vũ công sẽ phát hiện ra việc chúng ta chuẩn bị đưa cô ấy vào chế độ bảo vệ đặc biệt. Có khi hắn còn phát hiện ra rồi cũng nên. Trên thực tế”, anh nói thêm với vẻ hăm dọa, “có thể hắn đang trông đợi điều đó sớm xảy ra.”
“Như thế hắn phải là kẻ có khả năng đọc suy nghĩ của người khác.”
Rhyme khẽ nghiêng đầu. “Anh bắt đầu hiểu vấn đề rồi đấy.”
Eliopolos cười khẩy. Anh ta nhìn quanh vòng và thấy Jodie. “Anh là Joseph D’Oforio?”
Người đàn ông bé choắt cũng nhìn lại. “Tôi – vâng ạ.”
“Cả anh cũng sẽ đi.”
“Không được, chờ một phút đã, họ bảo tôi có thể nhận được tiền của mình và tôi có thể…”
“Chuyện này chẳng liên quan quái gì đến tiền thưởng hết. Nếu anh xứng đáng, anh sẽ nhận được thôi. Chúng tôi chỉ đang cố bảo đảm anh được an toàn cho đến khi bồi thẩm đoàn triệu tập.”
“Bồi thẩm đoàn! Chẳng ai nói với tôi về việc phải ra làm chứng cả!”
“À”, Eliopolos nói. “Anh cũng là một nhân chứng quan trọng.” Một cái đầu hất đầu về phía Rhyme. “Anh ta đang nung nấu ý đồ trừ khử một tên sát thủ. Còn chúng tôi đang cố thu thập bằng chứng truy tố kẻ đã thuê hắn. Đó mới đúng là công việc của đa số những người bảo vệ pháp luật.”
“Tôi sẽ không ra làm chứng đâu.”
“Nếu vậy anh sẽ bị tạm giam vì tội chống lệnh triệu tập của tòa. Ở khu giam chung nhé. Và tôi cá là anh biết mức độ an toàn ở đó thế nào rồi đấy.”
Người đàn ông bé nhỏ cố tỏ ra giận giữ nhưng không được, đơn giản là vì gã quá sợ hãi. Khuôn mặt của gã co rúm lại. “Ôi, lạy Chúa!”
“Các anh không thể có đủ sự bảo vệ cần thiết đâu”, Rhyme cố thuyết phục Eliopolos. “Chúng tôi hiểu rõ hắn. Hãy để chúng tôi bảo vệ họ.”
“Ồ, còn anh Rhyme đây ư?” Eliopolos quay lại nhìn anh. “Vì việc liên quan đến chiếc máy bay, tôi sẽ truy tố anh vì tội can thiệp vào quá trình điều tra hình sự.”
“Tôi thách anh đấy”, Sellitto nói.
“Tôi sợ đếch gì mà không dám”, người đàn ông béo ị bật lại. “Anh ta hoàn toàn có thể làm hỏng cuộc điều tra khi để cô ấy thực hiện chuyến bay kia. Thứ Hai tới tôi sẽ có lệnh bắt anh ta. Và đích thân tôi sẽ phụ trách quá trình truy tố. Anh ta…”
Rhyme nhẹ nhàng nói, “Hắn đã mò tới đây, anh biết đấy.”
Tay Trợ lý Chưởng lý Hoa Kỳ bỗng im bặt. Sau một thoáng im lặng anh ta hỏi, “Ai cơ?”
Mặc dù anh ta biết là ai.
“Hắn đã ở ngay bên ngoài cửa sổ kia, cách đây chưa đến một giờ, chĩa một khẩu súng trường bắn tỉa, nạp đạn chạm nổ cực mạnh, vào căn phòng này.” Ánh mắt của Rhyme hướng xuống sàn nhà. “Có lẽ đúng vị trí mà anh đang đứng lúc này.”
Tất nhiên không đời nào Eliopolos có chuyện tỏ ra nhát gan đến mức bước lùi lại. Nhưng mắt anh ta vẫn nhớn nhác đảo về phía cửa sổ để chắc chắn là những tấm rèm cửa đã được kéo xuống.
“Tại sao…?”
Rhyme nói nốt câu của anh ta. “Hắn không bắn ư? Bởi vì hắn chợt nảy ra ý khác hay hơn.”
“Là thế nào?”
“À”, Rhyme thốt lên. “Đó thật là câu hỏi đáng giá cả triệu đô đấy. Tất cả những gì chúng tôi biết là hắn vừa giết một người khác – một thanh niên nào đó trong Công viên Trung tâm – và lột sạch quần áo của anh ta. Hắn đã xóa các đặc điểm nhận dạng của cái xác và đóng giả là chính nạn nhân. Tôi không nghi ngờ một phút nào rằng hắn đã biết quả bom không giết được Percey và vì thế hắn đang trên đường hoàn thành nốt công việc. Và hắn sẽ biến anh thành một kẻ đồng mưu.”
“Hắn thậm chí còn không biết là tôi tồn tại.”
“Nếu như đó là điều anh muốn tin.”
“Lạy Chúa, anh bạn Reggie ơi”, Dellray chen vào. “Hãy mở to mắt ra!”
“Đừng có gọi tôi như thế.”
Sachs cũng hùa theo. “Chẳng lẽ anh vẫn không nhận ra sao? Anh chưa bao giờ phải đối đầu với bất kỳ ai như hắn cả.”
Mắt trừng trừng nhìn cô, Eliopolos nói với Sellitto. “Có lẽ ở cấp thành phố các anh người ta làm việc hơi khác thì phải. Ở cấp liên bang, người của chúng tôi luôn biết rõ vị trí của mình.”
Rhyme gắt lên, “Anh là một thằng ngốc nếu chỉ coi hắn như một tên găngxtơ hoặc một tên mafia nửa mùa nào đó. Không ai có thể trốn khỏi tay hắn cả. Cách duy nhất là phải chặn hắn lại”.
“Ừ, đúng rồi, Rhyme, từ đầu đến giờ toàn thấy mình anh hô hào xung trận thôi. Hừ, chúng tôi sẽ không hy sinh thêm bất kỳ cảnh sát nào nữa chỉ vì anh thấy nứng với kẻ đã giết hai nhân viên kĩ thuật dưới quyền mình cách đây đã năm năm. Đấy là giả sử anh vẫn còn khả năng thấy nứng…”
Eliopolos cũng là một người đàn ông to lớn vì vậy anh ta không khỏi choáng váng khi thấy mình bị xô ngã lăn ra sàn nhà quá dễ dàng, miệng há hốc đớp đớp trong không khí, mắt trợn trừng nhìn khuôn mặt căm giận đến bầm tím của Sellitto, nắm đấm của viên thám tử đang vung lên.
“Xin cứ việc, sĩ quan”, tay công tố viên thở khò khè, “và chỉ nửa tiếng nữa anh cũng sẽ bị truy tố ngay thôi”.
“Lon”, Rhyme nói, “cho qua đi, cho qua đi…”
Viên thám tử bình tĩnh lại, mắt tóe lửa nhìn người đàn ông, rồi bỏ ra chỗ khác. Eliopolos lồm cồm bò dậy.
Thực ra, với Rhyme, câu xúc phạm đó không có ý nghĩa gì. Thậm chí anh còn không hề nghĩ đến Eliopolos. Và kể cả tên Vũ công cũng không nốt. Vì anh vừa vô tình quay sang nhìn Amelia Sachs và nhận ra vẻ trống rỗng trong ánh mắt cô, trong đó chỉ còn là nỗi tuyệt vọng. Và anh hiểu cảm giác của cô lúc này: nỗi tuyệt vọng vì để sổng mất con mồi. Eliopolos đang đánh cắp đi của cô cơ hội được tóm tên Vũ công. Cũng như với chính Lincoln Rhyme, tên giết người đã trở thành nỗi ám ảnh đeo bám cuộc sống của cô.
Tất cả chỉ vì một bước sai lầm duy nhất – vụ việc ở sân bay, khi cô nhào xuống đất tìm chỗ nấp. Một việc nhỏ, một chi tiết không đáng kể đối với tất cả mọi người, trừ cô. Nhưng người ta vẫn nói thế nào nhỉ? Chỉ cần một thằng ngốc ném đá xuống hồ cả chục người khôn ngoan cũng không mò lại được. Nhưng cuộc sống của Rhyme giờ đây là cái gì nếu không phải là hậu quả của việc một mẩu gỗ đập vỡ một mẩu xương? Cuộc đời Sachs cũng sụp đổ trong khoảnh khắc duy nhất của hành động mà cô xem là hèn nhát đó. Nhưng không giống như trường hợp của Rhyme, vẫn còn – anh tin là thế – cơ hội cho cô sửa chữa hành động đó.
Ôi, Sachs, thật đau đớn khi phải làm thế này, nhưng anh cũng không còn lựa chọn nào khác. Anh nói với Eliopolos, “Thôi được rồi, nhưng đổi lại anh cũng phải làm một việc cho chúng tôi.”
“Nếu không các anh sẽ làm gì chứ?”, Eliopolos cười khẩy.
“Nếu không tôi sẽ không cho anh biết Percey đang ở đâu”, Rhyme nói thẳng. “Chúng tôi là những người duy nhất biết điều này.”
Bộ mặt của Eliopolos, đã không còn vẻ dương dương tự đắc đầy khiêu khích như tay một đấu sĩ của giải Vô địch Wrestling Thế giới[119]như lúc đầu, lạnh lùng nhìn thẳng vào mặt Rhyme. “Anh muốn gì?”
Rhyme hít một hơi rất sâu rồi trả lời. “Tên Vũ công có vẻ quan tâm đặc biệt đến việc truy sát những người đang săn lùng hắn. Nếu các anh muốn tiếp quản việc bảo vệ Percey, tôi muốn các anh cũng phải bảo vệ cả điều tra viên pháp y chủ chốt trong vụ án này.”
“Là anh ư?” Tay luật sư hỏi.
“Không, là Amelia Sachs”, Rhyme trả lời.
“Rhyme, không”, cô nói và giận dữ cau mày.
Amelis Sachs khinh suất và liều lĩnh… Vậy mà mình đang đặt cô ấy vào chính giữa khu vực tiêu diệt của hắn.
Anh ra hiệu cho cô lại gần mình.
“Tôi muốn ở lại đây”, cô nói. “Tôi muốn tìm hắn.”
Anh thì thào, “Ôi, đừng lo về chuyện đó, Sachs. Hắn sẽ đi tìm cô. Chúng tôi sẽ cố tìm ra vỏ bọc mới của hắn, Mel và tôi. Nhưng nếu hắn đang chuẩn bị ra tay ở Long Island, tôi muốn cô ở đó. Tôi muốn cô ở bên cạnh Percey. Cô là người duy nhất hiểu rõ hắn. Hừm, tất nhiên là cả tôi và cô. Nhưng trong tương lai gần chắc tôi không bắn bùng gì được cả.”
“Có thể hắn sẽ quay lại đây...”
“Tôi không nghĩ thế. Nhiều khả năng đây là con cá đầu tiên của hắn thoát khỏi lưới và hắn không hề thích điều đó chút nào. Kiểu gì hắn cũng sẽ săn lùng Percey. Hắn dám làm thế lắm, tôi biết mà.”
Cô tự đấu tranh với mình trong giây lát, rồi gật đầu.
“Được rồi”, Eliopolos nói, “cô sẽ đi cùng chúng tôi. Chúng tôi có một chiếc xe thùng đang chờ ngoài kia.”
Rhyme nói, “Sachs?”.
Cô dừng lại.
Eliopolos nói, “Chúng tôi thực sự cần lên đường thôi”.
“Một phút nữa tôi sẽ có mặt dưới đó.”
“Chúng ta đang chịu ít nhiều áp lực về mặt thời gian đấy, sĩ quan.”
“Tôi đã bảo, một phút nữa.” Cô dễ dàng giành chiến thắng trong trận đấu bằng ánh mặt và thế là Eliopolos cùng với tay cảnh sát tùy tùng của anh ta dẫn Jodie xuống cầu thang. “Khoan đã”, người đàn ông nhỏ bé gọi vọng từ hành lang vào phòng. Gã quay lại, chộp lấy quyển sách của mình, rồi lon ton chạy xuống cầu thang.
“Sachs...”
Anh đã định nói điều gì đó về việc phải tránh tỏ ra anh hùng rơm, về Jerry Banks, về việc cô không nên tự trách móc bản thân mình quá.
Về việc để cho những người chết được ngủ yên...
Nhưng anh biết bất kỳ lời khuyên can hay khích lệ nào trong lúc này cũng đều là sáo rỗng[120].
Và thế là anh nhỏ nhẹ, “Hãy bắn trước.”
Cô đặt bàn tay phải của mình lên bàn tay trái của anh. Anh nhắm mắt lại và cố hết sức để có thể cảm thấy da cô đang áp trên da anh. Anh tin là mình đã cảm thấy, cho dù chỉ là ở ngón tay đeo nhẫn.
Anh ngẩng lên nhìn cô. Cô nói, “Và anh nhớ lúc nào cũng phải có người bên cạnh trông nom đấy, được chứ?”. Cô gật nhẹ đầu về phía Sellitto và Dellray.
Một nhân viên pháp y của Sở Cảnh sát xuất hiện trên ngưỡng cửa, ngơ ngác nhìn quanh căn phòng, hết nhìn Rhyme lại nhìn mớ thiết bị hiện đại, nhìn cô nàng cảnh sát xinh đẹp, vẫn băn khoăn cố hiểu vì lí do quái quỷ gì mà anh ta lại đang làm cái việc mà người đã ra lệnh cho anh ta phải làm. “Có ai ở đây muốn có một cái xác phải không?” Anh ta rụt rè hỏi.
“Trong này!”, Rhyme gào lên. “Vào luôn đi! Chúng tôi cần nó ngay lập tức!”
 
Chiếc xe chạy qua một cánh cổng lớn và tiếp sau đó là một con đường hẹp. Con đường một làn xe tưởng chừng như trải dài không biết bao nhiêu dặm.
“Nếu đây mới chỉ là đường lái xe vào trong”, Roland Bell lẩm bẩm, “thì không hiểu ngôi nhà còn đến mức nào.”
Anh và Amelia Sachs ngồi hai bên Jodie, gã này làm tất cả mọi người trên xe bực mình không biết để đâu cho hết do gã liên tục ngọ nguậy trên ghế một cách bồn chồn, chiếc áo giáp chống đạn cồng kềnh của gã va vào mọi người mỗi lần gã kiểm tra các góc tối, những ô cửa khuất nẻo hoặc những chiếc xe chạy ngang qua suốt trên đường cao tốc Long Island. Ngồi sau là hai sĩ quan 32-E được trang bị súng máy. Percey Clay ngồi ở hàng ghế trên cùng cạnh người lái. Khi họ qua đón cô cùng với Bell tại nhà ga hàng không lính thủy đánh bộ tại LaGuardia trên đường tới hạtSuffolk, Sachs đã phải bàng hoàng khi nhìn thấy người nữ phi công.
Không phải do kiệt sức – mặc dù rõ ràng là cô đang rất mệt. Cũng không phải là sự sợ hãi. Không, chính vẻ buông xuôi hoàn toàn của Percey mới là điều khiến Sachs thấy đau lòng. Hồi còn là sĩ quan tuần tra, cô đã phải chứng kiến không biết bao nhiêu bi kịch trên đường phố. Cô đã quá nhiều lần phải đảm đương trách nhiệm thông báo những tin tồi tệ nhất cho người thân của các nạn nhân, nhưng cô chưa bao giờ trông thấy ai đầu hàng hoàn toàn như Percey Clay lúc này.
Percey đang nói chuyện qua điện thoại với Ron Talbot. Qua câu chuyện của họ Sachs cũng có thể đoán được rằng Tập đoàn U.S. Medical thậm chí còn không đợi đến lúc đống tro tàn từ chiếc máy bay nguội hẳn trước khi tuyên bố hủy bỏ hợp đồng. Percey tắt máy và trân trân hồi lâu nhìn cảnh vật đang lướt qua ngoài cửa sổ. Cô lơ đãng nói với Bell. “Thậm chí công ty bảo hiểm còn từ chối thanh toán cho số hàng bị phá hủy. Họ cho rằng tôi đã bất chấp mối nguy hiểm được báo trước. Thế đấy.” Cô chua chát thốt lên, “Chúng tôi phá sản rồi.”
Những hàng thông lùi lại phía sau, rồi đến những rặng sồi, những cồn cát. Sachs, vốn là một cô gái thành phố, khi còn ở tuổi thanh niên đã từng tới hạt Nassau và Suffolk này không phải vì những bãi biển hay trung tâm mua sắm của chúng mà là để đẩy cần số chiếc Charger màu nâu sẫm của cô và thúc cho chiếc xe vọt lên tốc độ 60 dặm một giờ chỉ sau 5,9 giây trong những cuộc đua ô tô trái phép từng một thời khiến cho Long Island trở nên nổi tiếng. Cô cũng biết rung động trước khung cảnh rừng cây, đồng cỏ và những con bò, nhưng, đối với cô, thiên nhiên chỉ trở nên lung linh nhất khi cô lướt vù qua tất cả với vận tốc 110 dặm một giờ.
Jodie hết khoanh tay rồi lại duỗi tay, hết loay hoay trên chiếc ghế giữa lại quay ra nghịch với dây an toàn, và lại va vào người Sachs.
“Xin lỗi cô”, gã lí nhí.
Cô chỉ muốn vặn cổ gã.
Hóa ra ngôi nhà không hề tương xứng với con đường dẫn vào.
Đó là một ngôi nhà bố trí kiểu lệch tầng trải rộng, một sự kết hợp hổ lốn giữa gỗ nguyên súc và ván xẻ. Một công trình vô cảm xiêu vẹo, đổ nát theo thời gian bất chấp cơ man nào là tiền của liên bang rót vào.
Bầu trời đêm thật u ám, những mảng sương ẩm ướt giăng phủ khắp nơi, nhưng Sachs vẫn có thể quan sát đủ rõ để nhận thấy rằng ngôi nhà được bố trí giữa một khoảnh rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất trong khoảng bán kính 200 thước xung quanh ngôi nhà đều đã được dọn sạch cây cối. Một tấm bình phong lý tưởng cho những người sống bên trong, nhưng ngược lại là những khoảng trống rất thoáng xung quanh giúp phát hiện bất kỳ kẻ nào có ý định đột nhập vào. Một dải màu xám mờ xa trong bóng tối nhập nhoạng đánh dấu bìa rừng. Một hồ nước rộng và tĩnh lặng nằm phía sau ngôi nhà.
Reggie Eliopolos trèo ra khỏi chiếc xe thùng và ra hiệu cho mọi người bước xuống. Anh ta dẫn họ vào trong sảnh chính của ngôi nhà rồi bàn giao họ cho một người đàn ông béo ú, trông anh ta có vẻ vui tính mặc dù anh ta không hề nhếch miệng mỉm cười một lần nào.
“Xin chào mừng quý vị”, anh ta nói. “Tôi là sĩ quan Cảnh Sát Tư Pháp Mỹ David Franks. Tôi muốn chia sẻ một chút với quý vị về tổ ấm xa nhà này của mình – cơ sở bảo vệ nhân chứng có chế độ an ninh chặt chẽ nhất nước Mỹ. Chúng tôi có các thiết bị cảm ứng nhạy cảm với trọng lượng và chuyển động được lắp ở khắp mọi nơi xung quanh khu vực này. Không ai có thể lọt vào trong mà không bị phát hiện bởi một thiết bị báo động nào đó. Máy tính đã được lập trình để cảm nhận những đặc tính chuyển động của con người, tương quan với trọng lượng, do đó các thiết bị báo động sẽ không phát tín hiệu cảnh báo nếu một con hưu hoặc một con chó nào đó tình cờ đi lạc vào vành đai bảo vệ. Chỉ cần kẻ đó – đúng hơn là người nào đó – bước chân vào những nơi không nên bước vào, toàn bộ nơi này sẽ bật sáng lòa như Quảng trường Thời đại vào đêm Giáng sinh. Thế còn nếu có kẻ tìm cách cưỡi trên lưng ngựa để xuyên qua vành đai bảo vệ thì sao? Chúng tôi đã nghĩ đến tình huống đó. Chỉ cần máy tính phát hiện được một trọng lượng bất thường có liên quan đến khoảng cách giữa các móng ngựa, thiết bị báo động sẽ bật lên ngay. Và bất kỳ chuyển động nào – dù là của chồn hay sóc – cũng sẽ kích hoạt các camera theo dõi bằng hồng ngoại.
À, mà chúng ta còn được bảo vệ bằng các trạm radar của sân bay khu vực Hampton, nên bất kỳ cuộc tấn công nào từ trên công cũng đều bị phát hiện tương đối sớm. Trong trường hợp có chuyện xảy ra, quý vị sẽ nghe thấy còi báo động và có thể nhìn thấy đèn pha rọi sáng. Xin hãy cứ ở nguyên chỗ của mình. Không được bước ra ngoài.”
“Ở đây các anh có lực lượng bảo vệ như thế nào?”, Sachs hỏi.
“Chúng tôi bố trí bốn cảnh sát trong nhà. Hai người ở trạm gác phía trước bên ngoài nhà, hai người ở trạm gác phía sau trông ra hồ. Và chỉ cần nhấn cái nút báo động kia là sẽ có một chiếc trực thăng Huey chở đầy những chàng trai SWAT có mặt tại đây trong vòng hai mươi phút.”
Vẻ mặt Jodie như muốn nói rằng hai mươi phút có vẻ là một quãng thời gian quá dài. Sachs cũng phải đồng ý với gã.
Eliopolos nhìn đồng hồ của mình. Anh ta nói, “Chúng tôi sẽ bố trí một chiếc xe bọc thép có mặt tại đây lúc sáu giờ sáng để đưa cô tới nơi bồi thẩm đoàn triệu tập. Xin lỗi vì cô không ngủ được nhiều cho lắm.” Anh ta liếc nhìn Percey, “Nhưng giá kể như tôi được làm theo cách của mình ngay từ đầu thì cô đã ở đây suốt cả đêm rồi, an toàn và lành lặn.”
Không ai nói lấy một lời tạm biệt khi anh ta bước ra khỏi cửa.
Franks nói tiếp, “Cũng cần nhắc thêm một vài việc nữa. Không được nhìn ra ngoài cửa sổ. Không được ra ngoài nếu không có người đi cùng. Chiếc điện thoại ở đằng kia” – anh ta chỉ vào một chiếc điện thoại màu be trong góc phòng khách – “rất an toàn. Đó là chiếc điện thoại duy nhất mà các vị nên sử dụng. Xin vui lòng tắt điện thoại di động của mình đi và không được sử dụng chúng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vậy đấy. Tất cả chỉ có thế. Có ai hỏi gì không?”.
Percey hỏi, “Có đấy, chỗ các anh có rượu không?”.
Franks quay sang chiếc tủ kính ngay cạnh mình và lôi ra một chai vodka cùng một chai whiskey. “Chúng tôi luôn muốn làm hài lòng những vị khách của mình.”
Anh ta đặt chai rượu trên bàn, rồi bước ra cửa trước, vừa đi vừa khoác áo gió lên người. “Tôi về nhà đây, chúc một đêm vui vẻ nhé, Tom”, anh ta nói với người cảnh sát đứng ở cửa và gật đầu với bốn người “được” bảo vệ đang đứng rải rác trong ngôi nhà đi săn bằng gỗ đánh véc ni bóng loáng, trước mặt họ là chai rượu đặt trên bàn và xung quanh là hơn chục chiếc đầu hưu và nai sừng tấm gắn trên tường đang trừng trừng nhìn xuống.
Chuông điện thoại bỗng đổ dồn, làm mọi người giật mình. Một cảnh sát bảo vệ nhấc ống nghe lên sau hồi chuông thứ ba. “A lô?”
Anh ta liếc về phía hai người phụ nữ. “Amelia Sachs?”
Cô gật đầu và cầm lấy ống nghe.
Đó là Rhyme gọi tới. “Sachs, chỗ đó có an toàn không?”
“Tốt lắm”, cô nói. “Công nghệ tối tân. Có manh mối gì với cái xác không?”
“Đến lúc này thì chưa có gì cả. Đã có bốn người đàn ông được thông báo là mất tích ở khu Manhattan trong vòng bốn giờ qua. Chúng tôi đang cho kiểm tra từng người một. Jodie có ở đó không?”
“Có.”
“Hãy hỏi anh ta xem tên Vũ công có bao giờ đề cập đến việc sử dụng một vỏ bọc cụ thể nào đó không?”
Cô truyền đạt lại câu hỏi.
Jodie cố nhớ lại. “Ừm, tôi nhớ là có lần hắn đã nói gì đó… Ý tôi là, cũng không có gì cụ thế. Hắn nói nếu đang chuẩn bị giết ai đó, ta phải xâm nhập, đánh giá, đánh lạc hướng, cô lập và tiêu diệt. Hay đại loại như thế. Tôi không nhớ chính xác. Ý hắn là đánh lạc hướng bằng cách sử dụng một người khác để làm gì đó, và khi mọi người đã lơ là mất cảnh giác, hắn sẽ ra tay. Tôi nghĩ hắn nhắc đến kiểu như một người đưa hàng hoặc một thẳng nhóc đánh giày chẳng hạn.”
Vũ khí đáng sợ nhất của anh ta là đánh lạc hướng...
Sau khi chuyển những thông tin này lại cho Rhyme, anh nói, “Theo chúng tôi thì cái xác là của một doanh nhân trẻ. Cũng có thể là một luật sư. Hỏi Jodie xem liệu có lần nào hắn nhắc đến việc tìm cách đột nhập vào tòa án trong phiên triệu tập của bồi thẩm đoàn không”.
Jodie trả lời là gã không nghĩ thế.
Sachs nói lại cho Rhyme biết.
“Được rồi. Cảm ơn.” Cô nghe thấy anh trao đổi gì đó với Mel Cooper. “Tôi sẽ gọi lại sau, Sachs.”
Sau khi họ gác máy, Percey hỏi mọi người xung quanh, “Có ai muốn làm một chút trước khi đi ngủ không?”.
Sachs không thể dứt khoát quyết định là cô muốn hay không nữa. Ký ức về cốc rượu whiskey trước khi diễn ra màn thất bại của cô trên giường Rhyme làm cô rùng mình. Nhưng trong một giây bốc đồng cô vụt trả lời, “Có chứ”.
Roland Bell cũng tự nhủ anh có thể cho mình tạm nghỉ ngơi khoảng nửa giờ.
Jodie quyết định chỉ tợp nhanh một ngụm nhỏ whiskey cho ấm người, rồi quay về giường mình, kẹp khư khư quyển sách về nghệ thuật sống dưới nách rồi tròn mắt nhìn những chiếc đầu hươu gắn trên tường với vẻ mặt tò mò của một cậu nhóc thành phố.
 
Ngoài trời, trong bầu không khí mùa xuân đặc quánh, tiếng ve sầu râm ran và lũ ễnh ương bắt đầu ộp oạp gọi bạn tình bằng tiếng kêu da diết đặc trưng của mình.
Khi hắn nhìn vào trong bóng tối nhập nhoạng của buổi sáng sớm mờ sương ngoài cửa sổ, Jodie có thể thấy những quầng sáng của đèn pha chiếu ra xuyên qua màn sương mù. Hai bên là những bóng đen đang nhảy múa – khi sương mù giăng lướt qua những thân cây.
Hắn rời khỏi cửa sổ và bước thẳng về phía cửa phòng mình, nhòm ra ngoài.
Hai cảnh sát bảo vệ hành lang này đang ngồi trong một phòng an ninh nhỏ cách đó khoảng 20 feet. Cả hai đều có vẻ buồn chán và cũng chỉ cảnh giác gọi là.
Hắn chăm chú nghe ngóng nhưng cũng không nghe thấy gì ngoài những âm thanh cọt kẹt và tí tách của một ngôi nhà gỗ lâu năm trong đêm tĩnh lặng.
Jodie quay về giường và ngồi trên tấm đệm võng lún. Hắn cầm trên tay cuốn sách Dependent No More nhàu nhĩ và bẩn thỉu của mình.
Đến lúc ra tay rồi, hắn tự nhủ.
Hắn mở phanh cuốn sách ra, phần gáy sách phết hồ nứt gãy, rồi lột bỏ một dải băng dính nhỏ dán dọc theo gáy sách. Một lưỡi dao dài trượt xuống giường. Trông lưỡi dao giống như kim loại đen nhưng trong thực tế nó được làm từ vật liệu polymer độn bột gốm mà không một máy phát hiện kim loại nào có thể tìm ra được. Lưỡi dao có màu mờ mờ, xỉn đục, một bên sắc như dao cạo, còn bên kia có răng nhọn như một lưỡi cưa phẫu thuật. Phần tay cầm được quấn bằng băng dính. Hắn đã tự mình thiết kế và chế tạo lưỡi dao này. Giống như hầu hết các loại vũ trang nguy hiểm khác, trông nó không hề hào nhoáng hay bắt mắt gì cho lắm và chỉ có đúng một chức năng: giết người. Và nó thực hiện đúng chức năng này rất, rất gọn gàng.
Hắn không hề e dè khi cầm lưỡi dao lên – kể cả khi hắn chạm vào tay nắm cửa chính hoặc cửa sổ – bởi vì hắn là chủ sở hữu những dấu vân tay hoàn toàn mới. Tháng trước, lớp da trên mười đầu ngón tay của hắn đã được một bác sĩ phẫu thuật ở Bern, Thụy Sĩ đốt đi bằng hóa chất, sau đó một bộ vân tay mới được khắc vào lớp mô sẹo bằng kĩ thuật laser dùng trong ngành vi phẫu. Tất nhiên những vân tay thật sự của hắn sẽ tự tái tạo trở lại, nhưng ít nhất cũng phải mất vài tháng nữa.
Ngồi trên mép giường, mắt nhắm nghiền, hắn hình dung ra căn phòng khách và bắt đầu bước xuyên qua nó trong ý nghĩ, nhớ lại vị trí của cánh cửa lớn, từng khung cửa sổ, từng món đồ trang trí, những bức tranh phong cảnh xấu tệ trên tường, những bộ sừng hươu trưng phía trên lò sưởi, gạt tàn, vũ khí và những vũ khí tiềm năng. Jodie có trí nhớ tốt đến nỗi hắn hoàn toàn có thể bước qua căn phòng cho dù bị bịt kín mắt mà vẫn không va phải bất kỳ một chiếc bàn hay một chiếc ghế nào.
Chìm đắm trong dòng suy nghĩ, hắn đưa cái tôi tưởng tượng của mình tới chỗ chiếc điện thoại trong góc phòng và dành một khoảng thời gian cân nhắc đến hệ thống liên lạc của ngôi nhà an toàn. Hắn đã quá quen với cơ chế hoạt động của hệ thống này (phần lớn thời gian rảnh rỗi của hắn được dành vào việc đọc sách hướng dẫn vận hành các hệ thống an ninh và liên lạc) và hắn biết rằng nếu cắt đường dây điện thoại này, sự sụt giảm về điện áp sẽ gửi tín hiệu báo động tới bảng điều khiển của các cảnh sát tư pháp trong ngôi nhà và có lẽ còn tới cả một văn phòng địa bàn gần đó. Vì vậy hắn sẽ phải để nó y nguyên như vậy.
Đó không phải là một vấn đề, mà là một nhân tố.
Tiếp tục hành trình tưởng tượng. Hắn kiểm tra những chiếc camera an ninh trong phòng khách chung – mà tay cảnh sát phụ trách đã “quên” thông báo cho họ biết. Chúng được bố trí theo kiểu chữ Y mà những tay chuyên viên thiết kế an ninh thường áp dụng cho một ngôi nhà an toàn của chính phủ trong điều kiện ngân sách có hạn. Hắn cũng biết rõ hệ thống này và cả việc nó có một khiếm khuyết nghiêm trọng về thiết kế – tất cả những gì hắn phải làm là gõ thật mạnh phần giữa của các ống kính. Hành động này làm trật vị trí của các thiết bị quang học bên trong; hình ảnh trên màn hình an ninh sẽ trở nên đen ngòm nhưng vẫn không có chuông báo động, mà đây là điều chắc chắn sẽ xảy ra nếu kẻ đột nhập dại dột nào đó cắt những đường cáp truyền tín hiệu.
Lại nghĩ đến những chiếc đèn… Hắn có thể vô hiệu hóa sáu – không, năm – trong tổng số tám chiếc đèn hắn đã nhìn thấy trong ngôi nhà an toàn nhưng hơn thế thì không thể. Phải đến khi tất cả những cảnh sát canh gác đều đã chết. Hắn ghi nhớ vị trí của từng công tắc đèn, rồi tiếp tục cuộc hành trình trong tâm trí. Phòng xem ti vi, gian bếp, những phòng ngủ. Ước lượng khoảng cách, cân nhắc góc nhìn từ bên ngoài vào.
Đó không phải là một vấn đề...
Ghi nhớ vị trí của từng nạn nhân. Xem xét khả năng có thể họ đã vào phòng trong vòng mười lăm phút vừa qua.
… mà chỉ là một nhân tố.
Đến đây hắn mở choàng mắt. Hắn gật đầu với chính mình, nhét con dao vào túi áo rồi đi dần ra cửa.
Hắn khẽ khàng bước vào gian bếp, thó một chiếc thìa có xẻ rãnh từ tủ chạn phía trên bồn rửa bát. Bước lại gần tủ lạnh và tự rót cho mình một cốc sữa. Sau đó hắn bước ra phòng khách chung và nhẩn nha đi từ giá sách nào sang giá sách kia, làm ra vẻ đang tìm kiếm thứ gì đó để đọc. Cứ đi qua một chiếc camera giám sát an ninh là hắn lại rướn lên với chiếc thìa và gõ mạnh vào ống kính. Sau đó hắn đặt cốc sữa và chiếc thìa lên một chiếc bàn rồi quay người bước về phía phòng an ninh.
“Ê, kiểm tra màn hình xem nào”, một người cảnh sát càu nhàu, vặn vẹo một nút điều khiển trên màn hình ti vi trước mặt anh ta.
“Sao thế?” Người kia hỏi, cũng không thực sự quan tâm cho lắm.
Jodie bước qua người cảnh sát đầu tiên, người này ngẩng đầu lên và bắt đầu hỏi, “Này, thưa ông, ông đang làm gì vậy” thì xoẹt, xoẹt, Jodie đã gọn ghẽ mở toang cổ họng anh ta ra thành chữ V, máu từ vết đâm phun trào vẽ thành một cầu vồng đỏ rực trong không khí. Đồng đội của anh ta trợn tròn mắt và vươn tay ra chộp lấy khẩu súng, nhưng Jodie đã giật nó khỏi tay anh ta và đâm nạn nhân một nhát vào cổ họng, một nhát vào giữa ngực. Anh ta đổ sụm xuống sàn nhà giãy giụa hồi lâu. Đó là một cái chết thật ồn ào – đúng như Jodie đã biết trước là sẽ như thế. Nhưng hắn không thể đâm thêm nhát dao nào nữa vào người đàn ông; hắn cần bộ đồng phục và buộc phải giết anh ta với lượng máu dây ra ở mức tối thiểu.
Trong khi người cảnh sát nằm còng queo trên sàn, giãy giụa và hấp hối, mắt anh ta vẫn trợn trừng nhìn Jodie trong lúc hắn đang lột bỏ bộ quần áo dính đầy máu nạn nhân ra. Ánh mắt người cảnh sát liếc đến bắp tay của Jodie và dán chặt vào hình xăm rất lạ.
Trong khi cúi xuống và bắt đầu cởi bộ đồng phục trên người viên cảnh sát tư pháp, Jodie chợt nhận ra ánh mắt người đàn ông xấu số, hắn bèn nói, “Nó được gọi là Vũ điệu của Thần Chết. Thấy không? Thần Chết đang nhảy với nạn nhân tiếp theo của hắn. Quan tài của cô ta ở ngay phía sau. Mày có thích không?”.
Hắn hỏi câu này với vẻ tò mò hoàn toàn thành thực, mặc dù hắn không nghĩ sẽ có câu trả lời. Và quả thật là không có.
Chú thích

[119] Giải Vô địch Wrestling Thế giới: Một giải đấu vật mang tính biểu diễn và giải trí rất phổ biến trên truyền hình Mỹ.
[120] Nguyên văn là “ring like lead”: Ngân vang như chì.