CHƯƠNG 9


CHƯƠNG 6

    
hom hiện ra trên ngưỡng cửa phòng của Lincoln Rhyme và ra hiệu cho ai đó bước vào.
 
Một người đàn ông dong dỏng, tóc cắt cua, khoảng năm mươi tuổi. Đại úy Bo Haumann, chỉ huy ESU của NYPD – tức đội SWAT[35]của cảnh sát. Tóc hoa râm, khuôn mặt gân guốc, Haumann trông vẫn giống hệt một trung sĩ huấn luyện – cương vị mà anh ta từng đảm nhiệm khi còn trong quân đội. Anh ta nói năng chậm rãi và thấu đáo, và mỗi khi nói chuyện, bao giờ cũng nhìn xoáy vào mắt bạn với một nụ cười thoảng qua trên môi. Trong các đợt thực thi nhiệm vụ chiến thuật anh ta thường mặt áo giáp chống đạn, trùm mặt nạ Nomex và cũng luôn là một trong những sĩ quan đầu tiên lao mình qua cửa trong tình huống có chướng ngại vật.
 
“Thực sự là hắn sao?”, viên sĩ quan, “Tên Vũ công ấy?”
 
“Chúng ta mới nghe nói vậy”, Sellitto nói.
 
Một cái khẽ chép miệng phát ra từ người cảnh sát kỳ cựu tóc hoa râm này chẳng khác gì một tiếng thở dài thườn thượt từ người khác. Rồi anh ta lên tiếng, “Tôi có hai đội 32-E luôn sẵn sàng”.
 
Những sĩ quan 32-E, được đặt biệt danh như vậy theo số căn phòng điều hành tác chiến của họ tại tòa nhà PolicePlaza, là một bí mật được nhiều người biết đến. Tên chính thức của họ là Sĩ quan Tình huống Đặc biệt thuộc ESU. Các thành viên của lực lượng này, cả nam lẫn nữ, hầu hết từng tham gia quân đội và kinh qua các nhiệm vụ trinh sát và do thám đầy khắc nghiệt, chưa kể nhiệm vụ chính là đột kích, bắn tỉa và giải cứu con tin. Thành viên của lực lượng này cũng không có nhiều. Mặc dù thành phố mang tiếng là có tỷ lệ tội phạm cao, trên thực tế ở New York lại có tương đối ít các hoạt động chiến thuật và các chuyên gia đàm phán con tin của thành phố – được đánh giá là những chuyên gia cừ nhất nước Mỹ – thường dùng biện pháp đàm phán kéo dài thời gian trước khi buộc phải huy động lực lượng đột kích. Hai đội mà Haumann cam kết huy động để truy lùng tên Vũ công, với khoảng mười người, coi như đã chiếm hầu hết lực lượng 32-E.
 
Lát sau một người đàn ông gầy gò và bắt đầu hói đeo cặp kính cực kỳ lỗi mốt bước vào phòng. Mel Cooper là chuyên viên khoa học hình sự giỏi nhất của IRD[36] mà Rhyme từng lãnh đạo. Mel Cooper chưa bao giờ trực tiếp kiểm tra một hiện trường vụ án, chưa từng bắt giữ một tên hung thủ và có lẽ cũng đã quên cả cách sử dụng khẩu súng ngắn bé tí mà anh miễn cưỡng đeo phía sau chiếc thắt lưng da cũ kỹ của mình. Cooper hoàn toàn không ham hố đến bất kỳ nơi nào trên thế giới ngoài việc ngồi lỳ trên chiếc ghế trong phòng thí nghiệm, căng mắt nhìn vào ống kính hiển vi và phân tích những dấu vân tay rời rạc (vâng, đúng ra là anh chỉ thích ở trong phòng thí nghiệm và trên sàn khiêu vũ cổ điển, nơi anh cũng là một vũ công tango từng giật giải).
 
“Thám tử”, Cooper lên tiếng, vẫn sử dụng cái chức vụ mà Rhyme từng nắm giữ khi anh kéo Cooper từ Sở Cảnh sát Albany về làm cho mình cách đây vài năm, “cứ đinh ninh tôi sắp phải phân tích các mẫu cát. Nhưng giờ thì nghe nói đó là tên Vũ công”. Có một nơi duy nhất mà thông tin lan truyền nhanh hơn cả trên đường phố, Rhyme nghĩ thầm, đó chính là bên trong NYPD. “Lần này chúng ta sẽ tóm được hắn, Lincoln. Chúng ta sẽ tóm được hắn”.
 
Trong lúc Banks thông báo qua tình hình cho những người mới đến Rhyme vô tình ngẩng đầu lên. Anh nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở ngưỡng cửa phòng thí nghiệm. Cặp mắt đen quét qua căn phòng như muốn thâu tóm tất cả. Không cảnh giác. Không căng thẳng.
 
“Bà Clay phải không?”, anh hỏi.
 
Cô gật đầu. Một người đàn ông cao gầy xuất hiện trên ngưỡng cửa bên cạnh cô. Chắc là Britton Hale, Rhyme thầm đoán.
 
“Xin mời vào”, nhà hình sự học nói.
 
Cô bước hẳn vào giữa căn phòng, liếc nhìn Rhyme rồi lại nhìn dãy thiết bị khoa học hình sự chất cao như một bức tường gần Mel Cooper.
 
“Percey”, cô nói. “Cứ gọi tôi là Percey. Anh là Lincoln Rhyme?”
 
“Đúng vậy. Tôi rất tiếc về chuyện của chồng cô.”
 
Cô gật đầu một cách dứt khoát, có vẻ khó chịu với sự thông cảm đó.
 
Cũng giống tôi, Rhyme nghĩ thầm.
 
Anh hỏi người đàn ông đứng cạnh Percey. “Còn đây là ông Hale?”
 
Viên phi công cao lều nghều gật đầu và bước lên phía trước để bắt tay, rồi chợt nhận ra hai cánh tay của Rhyme đang được cột chặt vào thành chiếc xe lăn. “Ôi”, anh khẽ làu bàu rồi đỏ bừng mặt. Anh bước lùi lại.
 
Rhyme giới thiệu họ với những thành viên còn lại trong nhóm điều tra, tất cả mọi người, trừ Amelia Sachs vì, theo yêu cầu của Rhyme, cô đang thay bộ sắc phục cảnh sát của mình ra và khoác lên người chiếc quần jean cùng cái áo len ngắn tay đang treo trong tủ quần áo của Rhyme ở tầng trên. Anh đã giải thích với cô rằng tên Vũ công thường giết hoặc làm bị thương cảnh sát như một trò tiêu khiển chết người; anh muốn cô trông càng dân sự càng tốt.
 
Percey rút một cái chai bẹt trong túi áo khoác của cô, một cái màu bạc và nhấp một ngụm nhỏ. Cô ta uống thứ rượu đó – Rhyme ngửi rõ mùi whiskey đắt tiền – như thể nó là thuốc vậy.
 
Bị chính cơ thể mình phản bội, Rhyme hiếm khi để ý đến những đặc điểm thể chất của người khác, trừ hung thủ và các nạn nhân. Nhưng thật khó mà bỏ qua Percey Clay. Có lẽ cô chỉ cao hơn năm feet một chút. Mặc dù vậy ở cô vẫn toát lên một sức hút thật dữ dội. Đôi mắt đen nhánh như màn đêm của cô làm say đắm lòng người. Chỉ khi nào đủ sức dứt ra khỏi sức quyến rũ của đôi mắt đó bạn mới để ý đến khuôn mặt cô, một khuôn mặt rất không đẹp – ngắn, bè bè, trông như con trai. Cô có mái tóc đen xoăn tít bù xù, đã vậy còn được cắt rất ngắn, mặc dù Rhyme nghĩ rằng những bím tóc dài có lẽ sẽ làm mềm mại hơn những đường nét góc cạnh trên khuôn mặt cô. Ở cô không hề thấy những hành động phòng thủ vô thức thường có ở một số người hạn chế về chiều cao như: hai tay chống nạnh, tay khoanh trước ngực, những ngón tay thường trực che trước miệng. Rhyme nhận ra rằng cô hầu như không có những động tác thừa, cũng giống anh.
 
Một ý nghĩ bất ngờ chợt hiện trong đầu anh: Trông cô chẳng khác nào một cô nàng Gypsy[37].
 
Anh nhận ra cô cũng đang chăm chú đánh giá mình. Và kể ra phản ứng của cô cũng thật đáng tò mò. Bình thường khi nhìn thấy anh lần đầu tiên, hầu hết mọi người đều cố rặn ra một nụ cười ngớ ngẩn trên mặt, rồi đỏ mặt tía tai, bắt ép mình phải dán mắt trừng trừng vào trán của Rhyme, sao cho mắt họ không vô tình đi lạc xuống phần cơ thể tàn phế của anh. Nhưng Percey thì nhìn một lần vào mặt anh – khuôn mặt đẹp trai với cặp môi thanh tú và cái mũi của Tom Cruise, một khuôn mặt trẻ hơn nhiều so với cái tuổi ngoài bốn mươi của chủ nó – rồi lại nhìn một lần vào đôi chân, hai cánh tay và phần thân trên bất động của anh. Nhưng sự chú ý của cô tập trung ngay vào mớ thiết bị lằng ngoằng – chiếc xe lăn Storm Arrow bóng loáng, ống điều khiển mút-và-hút, bộ giá đỡ đầu, chiếc máy tính.
 
Thom bước vào phòng và lại gần Rhyme để bắt đầu đo huyết áp cho anh.
 
“Không phải bây giờ”, ông chủ của anh nói.
 
“Đúng là bây giờ đấy.”
 
“Không.”
 
“Yên lặng nào”, Thom nói và cứ thế tiến hành việc đo huyết áp. Anh rút ống nghe ra. “Không tệ lắm. Nhưng anh mệt rồi và quá bận rộn trong thời gian vừa qua. Anh cần nghỉ ngơi một chút.”
 
“Biến đi”, Rhyme gầm gừ. Anh quay lại với Percey Clay. Bởi vì anh là một người tàn tật, một người tứ chi bất toại, bởi vì anh chỉ còn là một mẩu nhỏ của một con người bình thường, nên những vị khách mới đến dường như đều nghĩ rằng anh không thể hiểu nổi những gì họ nói; họ thường nói rất chậm rãi hoặc thậm chí còn nói với anh thông qua Thom. Lúc này Percey đang nói trực tiếp với Rhyme và giành được từ anh rất nhiều thiện cảm khi cô làm như vậy. “Anh nghĩ chúng tôi đang gặp nguy hiểm sao, Brit và tôi ấy?”
 
“Ồ vâng, nguy hiểm thực sự."
 
Sachs bước vào phòng rồi liếc nhìn Percey và quay lại nhìn Rhyme.
 
Anh giới thiệu hai người với nhau.
 
“Amelia?”, Percey hỏi. “Tên cô là Amelia?”
 
Sachs gật đầu.
 
Một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt Percey. Cô hơi quay người và chia sẻ nó với Rhyme.
 
“Tôi không được đặt tên theo bà ấy đâu – cái bà phi công ấy”, Sachs chợt nhớ ra và nói. Rhyme cũng nhớ ra rằng Percey là một phi công. “Tôi mang tên một trong những chị em gái của ông nội tôi. Amelia Earhart[38] là thần tượng của chị sao?”
 
“Không”, Percey nói. “Cũng không hẳn. Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi.”
 
Hale nói, “Các anh sẽ có người bảo vệ cho cô ấy chứ, đúng không? 24/24?”. Anh gật đầu về phía Percey.
 
“Chắc chắn rồi, anh yên tâm”, Dellray nói.
 
“Được rồi”, Hale nói. “Tốt lắm… Còn điều này nữa. Tôi nghĩ là các anh thực sự cần phải nói chuyện với thằng cha đó. Phillip Hansen.”
 
“Nói chuyện ư?”, Rhyme tỏ vẻ hoài nghi.
 
“Vói Hansen ấy à?”, Sellitto hỏi. “Chắc chắn rồi. Nhưng hắn đang chối phăng tất cả và nhất định không chịu nói thêm bất kỳ lời nào.” Anh ta quay sang nhìn Rhyme. “Đã cho cặp Sinh đôi quần hắn một thời gian.” Rồi quay lại với Hale. “Họ là những chuyên gia thẩm vấn giỏi nhất của chúng tôi. Vậy mà hắn cứ trơ trơ. Chưa ăn thua gì cả.”
 
“Các anh không thể đe dọa hắn… hay gì đó được à?”
 
“Hừm, không”, viên thám tử nói. “Tôi không nghĩ thế.”
 
“Không sao”, Rhyme nói tiếp. “Đằng nào thì Hansen cũng chẳng có gì mà nói cho chúng ta biết cả. Tên Vũ công không bao giờ nhìn tận mặt thân chủ của mình và hắn cũng không bao giờ cho họ biết hắn sẽ thực hiện công việc như thế nào.”
 
“Tên Vũ công?”, Percey hỏi.
 
“Đó là biệt hiệu mà chúng tôi dùng để gọi tên sát thủ. Tên Vũ công Quan tài.”
 
“Vũ công Quan tài?”, Percey thoáng cười ruồi, như thể cái tên này có ý nghĩa gì đó đối với cô. Nhưng cô cũng không giải thích gì thêm.
 
“Hừ, nghe đáng sợ gớm nhỉ”, Hale nói với vẻ ngờ vực, cứ như thể cảnh sát không nên đặt ra những cái biệt danh kỳ quái cho những tên tội phạm của họ. Rhyme thầm nghĩ có lẽ anh ta đúng.
 
Percey nhìn thẳng vào đôi mắt của Rhyme, cũng đen gần như mắt cô. “Thế có chuyện gì xảy ra với anh vậy? Anh bị bắn à?”
 
Sachs – và cả Hale nữa – đều giật mình khi nghe những lời thẳng thừng không một chút ý tứ đó nhưng Rhyme không hề thấy phiền. Anh vẫn có cảm tình với những người giống mình – tức là những người không bận tâm đến cái trò tế nhị vô tích sự. Anh điềm đạm trả lời cô, “Tôi đang kiểm tra hiện trường vụ án tại một công trường xây dựng. Một thanh rầm rơi xuống. Tôi bị gãy cổ”.
 
“Giống tay diễn viên kia. Christopher Reeve[39] ấy”.
 
“Đúng rồi.”
 
Hale nói, “Đúng là khó khăn. Nhưng quả thật ông ấy mới dũng cảm làm sao. Tôi đã thấy ông ấy qua ti vi. Tôi nghĩ nếu ở vào cương vị của ông ấy chắc tôi sẽ tự tử mất”.
 
Rhyme liếc nhìn Sachs, cô cũng nhận ra ánh mắt của anh. Anh quay lại nhìn Percey. “Chúng tôi cần sự giúp đỡ của cô. Chúng tôi phải tìm ra cách hắn đã gài quả bom lên máy bay. Cô có ý gì không?”
 
“Không”, Percey nói rồi nhìn Hale, anh này cũng lắc đầu.
 
“Vậy cô có thấy bất kỳ ai lạ mặt lảng vảng gần máy bay trước khi chuyến bay khởi hành không?”
 
“Đêm qua tôi bị ốm”, Percey nói. “Tôi thậm chí còn không đến sân bay.”
 
Hale nói, “Còn tôi thì về miền quê, câu cá. Hôm qua tôi được nghỉ. Mãi tận tối tôi mới về nhà.”
 
“Chính xác thì chiếc máy bay được để ở đâu trước khi cất cánh?”
 
“Ở trong hangar của chúng tôi. Chúng tôi đang cho tiến hành sửa sang lại để phục vụ cho hợp đồng bay mới. Chúng tôi phải cho tháo ghế ra, lắp những giá để hàng đặc biệt có cả nguồn pin công suất cao. Phục vụ các thiết bị làm lạnh mà. Anh biết mặt hàng mà chúng tôi chuyên chở rồi, đúng không?”.
 
“Nội tạng”, Rhyme nói. “Các cơ quan nội tạng của người. Công ty cô có dùng chung cái hangar đó với công ty khác không?”
 
“Không, đó là hangar riêng của chúng tôi. Vâng, thật ra là chúng tôi thuê nó.”
 
“Việc ra vào trong đó có khó khăn không?”, Sellitto hỏi.
 
“Bình thường nếu không có ai thì được khóa kín nhưng trong mấy ngày vừa rồi chúng tôi có những kíp thợ thay nhau làm việc 24/24 để bố trí lại chiếc Lear.”
 
“Các vị biết rõ những kíp thợ đó chứ?”, Sellitto hỏi.
 
“Họ cũng như người nhà cả thôi”, Hale nói với vẻ đề phòng.
 
Sellitto nhướng mắt nhìn Banks. Rhyme đoán viên thám tử đang nghĩ rằng người nhà bao giờ cũng là đối tượng tình nghi số một trong các vụ giết người.
 
“Dù sao chúng tôi củng phải ghi lại tên tuổi những người đó, nếu các vị không phiền. Phải kiểm tra toàn bộ.”
 
“Sally Anne, người quản lý văn phòng của công ty, bà ấy sẽ cho các anh một danh sách.”
 
“Công ty sẽ phải cho niêm phong hangar”, Rhyme nói. “Cấm không một ai được ra vào.”
 
Percey lắc đầu dứt khoát. “Chúng tôi không thể…”
 
“Niêm phong đi”, anh nhắc lại. “Không một ai được ra vào. Không… một… ai”.
 
“Nhưng…”
 
Rhyme nói dứt khoát, “Chúng ta phải làm thế”.
 
“Oa”, Percey nói, “cứ biết vậy đã”. Cô nhìn Hale. “Foxtrot Bravo?”
 
Anh nhún vai. “Ron nói ít nhất cũng phải mất thêm một ngày nữa.”
 
Percey thở dài. “Chiếc Learjet mà Ed bay đêm qua là chiếc duy nhất đã được sửa sang lại cho hợp đồng mới. Theo lịch trình thì đêm mai chúng tôi sẽ có một chuyến bay nữa. Chúng tôi sẽ phải làm việc liên tục để chuẩn bị sẵn sàng chiếc máy bay còn lại cho chuyến bay đêm mai. Chúng tôi không thể đóng cửa hangar được.”
 
Rhyme nói, “Tôi rất tiếc. Nhưng không còn lựa chọn nào khác”.
 
Mắt Percey long lên, “Hừ, tôi không biết anh là ai mà lại có quyền bắt tôi phải chọn lựa…”.
 
“Tôi là kẻ đang tìm cách cứu mạng cô đấy”, Rhyme gằn giọng.
 
“Tôi không thể chấp nhận đánh mất hợp đồng này được.”
 
“Khoan đã, thưa cô”, Dellray nói. “Cô không hiểu tên khốn kiếp này đâu…”
 
“Hắn đã giết chồng tôi”, cô trả lời bằng một giọng đanh lại. “Tôi hiểu hắn quá rõ là khác. Nhưng tôi sẽ không để hắn đe dọa đến mức đánh mất công việc này đâu.”
 
Bất giác Sachs đưa hai tay lên chống nạnh. “Này, đừng có quá quắt thế. Nếu như có ai đó có thể cứu mạng cho chị thì đó chính là Lincoln Rhyme. Tôi không nghĩ chúng tôi cần có người làm mình làm mẩy ở đây đâu”.
 
Giọng nói của Rhyme vang lên xen vào cuộc cãi vã. Anh hỏi một cách bình tĩnh, “Cô có thể cho chúng tôi một giờ cho việc kiểm tra không?”.
 
“Một giờ ư?”, Percey vừa hỏi vừa suy nghĩ thật nhanh.
 
Sachs cười phá lên và hướng đôi mắt ngỡ ngàng vào sếp của mình. Cô hỏi, “Kiểm tra một cái hangar trong vòng một giờ sao? Thôi đi, Rhyme”. Vẻ mặt cô như muốn nói: Tôi đang bảo vệ anh đây này, vậy mà anh có thể nói như thế sao? Rốt cuộc thì anh đứng về bên nào đây?
 
Một số nhà hình sự học thường phân công các đội tiến hành kiểm tra hiện trường vụ án. Nhưng Rhyme luôn khăng khăng bắt Amelia Sachs phải kiểm tra một mình, đúng như anh vẫn làm trước kia. Một chuyên gia kiểm tra hiện trường vụ án hoạt động độc lập có khả năng tập trung mà bình thường sẽ không thể có được khi làm chung với những người khác. Một tiếng đồng hồ quả thật là quãng thời gian quá ngắn ngủi cho một người tiến hành kiểm tra hiện trường quá rộng như chiếc hangar. Rhyme biết điều đó nhưng anh không trả lời Sachs. Anh vẫn chăm chú nhìn Percey. Cô nói, “Một giờ ư? Được rồi. Ngần đó thì tôi có thể chấp nhận được.”
 
“Rhyme”, Sachs phản đối, “tôi sẽ cần nhiều thời gian hơn thế”.
 
“À, nhưng cô là người xuất sắc nhất mà, Amelia”, anh trêu cô. Điều đó có nghĩa là quyết định đã được đưa ra.
 
“Ở đó có ai có thể giúp đỡ chúng tôi không?”, Rhyme hỏi Percey.
 
“Ron Talbot. Anh ấy là cổ đông chính trong công ty và là giám đốc điều hành của chúng tôi.”
 
Sachs nguệch ngoạc ghi lại cái tên đó trong cuốn sổ của cô. “Tôi nên đi ngay bây giờ chứ?”, cô hỏi.
 
“Không”, Rhyme trả lời, “tôi muốn cô chờ đến khi chúng ta có kết quả về quả bom trong chuyến bay tới Chicago. Tôi cần cô giúp tôi phân tích nó”.
 
“Tôi chỉ có một tiếng đồng hồ”, cô gắt gỏng. “Anh nhớ chứ?”.
 
“Cô sẽ phải đợi.” Anh càu nhàu, rồi quay sang hỏi Fred Dellray, “Thế còn ngôi nhà an toàn thì sao?”.
 
“Ồ, chúng tôi có một chỗ chắc chắn quý vị sẽ thích”, viên đặc vụ nói với Percey. “Trong khu Manhattan. Những đồng đô la đóng thuế của quý vị được sử dụng triệt để đâu vào đấy. Chẹp, chẹp. Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ chỉ sử dụng nó cho những chương trình bảo vệ nhân chứng quan trọng nhất. Vấn đề duy nhất là, chúng ta cần có ai đó ở NYPD cho công việc giữ trẻ. Ai đó biết và đánh giá đúng mức tên Vũ công.”
 
Và đúng lúc đó Jerry Banks ngước lên, và tự hỏi tại sao tất cả mọi người đều đang chằm chằm nhìn mình. “Gì cơ?”. Anh chàng hỏi “Gì cơ?” và lúng túng cố gắng một cách vô ích vuốt cho mảng tóc bò liếm ương bướng của mình xẹp xuống.
 
Stephen Kall, kẻ chuyên nói bằng ngôn ngữ của quân nhân, kẻ sử dụng những loại vũ khí quân dụng, thực tế chưa bao giờ là một quân nhân.
 
Tuy nhiên lúc này hắn đang nói với Sheila Horowitz, “Tôi tự hào vì con đường binh nghiệp của mình. Và đó là sự thật”.
 
“Một số người không…”
 
“Không”, hắn ngắt lời cô ta, “một số người không biết tôn trọng những ai lựa chọn con đường đó. Nhưng đấy là vấn đề của họ”.
 
“Đấy là vấn đề của họ”, Sheila phụ họa.
 
“Chỗ của cô đẹp thật”. Hắn nói và nhìn quanh căn hộ tồi tàn, dán đầy những phiếu mua hàng giảm giá của hệ thống cửa hàng giá rẻ Conran.
 
“Cám ơn anh, anh bạn. E hèm, anh có thích, muốn chút gì đó để uống không? Ối trời, tôi lại sử dụng cái giới từ đó hơi lộn rồi thì phải. Mẹ tôi lúc nào cũng bắt bẻ tôi ghê lắm. Tại xem ti vi nhiều quá. Lúc nào cũng phải nói thế này, thế này, thế kia. Nói ra thật phát ngượng.”
 
Cô ả đang lải nhải cái quái gì thế nhỉ?
 
“Cô sống ở đây một mình à?”, hắn hỏi với nụ cười giả lả đầy vẻ tò mò.
 
“Vâng, chỉ có tôi với bộ ba năng động kia thôi. Tôi không biết tại sao chúng lại trốn biệt như thế. Mấy con quỷ nhỏ ngốc nghếch kia.” Sheila hồi hộp mân mê đường viền chiếc áo gi lê của mình. Và vì hắn chưa trả lời nên cô ta lại hỏi, “Thế nào? Chút gì đó để uống chứ?”.
 
“Nhất định rồi?”
 
Hắn nhìn thấy đúng một chai vang duy nhất, bụi bám thành mảng, nằm lăn lóc trên nóc tủ lạnh của cô ta. Chắc để dành cho một dịp đặc biệt. Liệu có phải dịp này không nhỉ?
 
Hình như là không phải. Cô ta bật một lon soda Dr. Pepper dành cho người ăn kiêng.
 
Hắn bước lại gần cửa sổ và nhìn ra ngoài. Không còn thấy bóng dáng cảnh sát trên con phố này. Và chỉ cách đây có nửa khối phố là một ga tàu điện ngầm. Căn hộ nằm trên tầng hai và mặc dù cô ta có gắn thêm lưới sắt trên những khung cửa sổ phía sau, chúng đều không có khóa. Nếu nguy cấp hắn có thể trèo xuống theo đường cầu thang cứu hỏa và biến mất vào Đại lộ Lexington, một nơi vốn lúc nào cũng đông đúc…
 
Cô ta cũng có cả máy tính để bàn và điện thoại. Tốt.
 
Hắn liếc nhìn một tờ lịch treo tường – hình ảnh những thiên thần. Có một số ký hiệu đánh dấu nhắc việc, nhưng cho cuối tuần này thì trống trơn.
 
“Sheila này, không biết cô…”, nói đến đây hắn bỗng ngừng lại và lắc đầu, rồi im lặng.
 
“Vâng, chuyện gì cơ?”
 
“À không, chỉ là… tôi biết hỏi thế này thật ngớ ngẩn. Ý tôi là kể cũng hơi đường đột và này nọ. Tôi chỉ đang tự hỏi không biết cô có kế hoạch gì cho mấy ngày sắp tới không.”
 
Bắt đầu có vẻ thận trọng rồi. “Ồ, tôi, à ừ, tôi đang định về thăm mẹ”.
 
Stephen nhăn mặt tỏ vẻ thất vọng. “Tệ thật. Chẳng là, tôi có một ngôi nhà ở Cape May…”
 
“Bên bờ biển Jersey!”
 
“Đúng rồi. Tôi chuẩn bị tới đó…”
 
“Sau khi anh đón Buddy về?”
 
Buddy là thằng chó chết nào nhỉ”
 
À, con mèo. “Vâng. Nếu cô không bận chuyện gì, tôi cứ nghĩ chắc cô sẽ muốn ghé qua chơi.”
 
“Anh có…?”
 
“Mẹ tôi cũng sẽ tới đó, cùng với một số bà bạn.”
 
“Hừm, trời ơi, tôi cũng không biết nữa.”
 
“Vậy tại sao cô không gọi điện cho mẹ mình và bảo bà ấy rằng bà ấy sẽ phải sống mấy ngày cuối tuần này không có cô nhỉ?”
 
“À, ừ… thực ra tôi cũng không nhất thiết phải gọi điện. Nếu tôi không đến, chắc cũng không có chuyện gì to tát đâu. Vì thật ra, cũng chưa chắc, có thể tôi sẽ về, có thể không”.
 
Vậy là cô ta nói dối. Một cuối tuần trống trơn. Trong vài ngày tới sẽ không có ma nào để ý tới sự biến mất của cô ta.
 
Một con mèo nhảy lên bên cạnh hắn, dụi mặt nó vào người hắn. Hắn hình dung ra cảnh hàng nghìn con giòi đang lổm ngổm bò khắp cơ thể mình. Hắn hình dung ra lũ giòi đang quằn quại trong mái tóc của Sheila. Những ngón tay giòi bọ của cô ta. Stephen bắt đàu thấy căm thù người phụ nữ. Hắn chỉ muốn hét toáng lên.
 
“Ôi, nói xin chào với người bạn mới của chúng ta đi, Andrea. Nó thích anh đấy, Sam.”
 
Hắn đứng dậy và nhìn quanh căn hộ. Suy nghĩ:
 
Hãy nhớ lấy, chàng trai, bất kỳ thứ gì cũng có thể giết.
 
Một số thứ giết nhanh và một số thứ giết chậm. Nhưng bất kỳ thứ gì cũng có thể giết.
 
“Này”, hắn hỏi, “cô có cuộn băng dính gói đồ nào không nhỉ?”
 
“À, để…?” Cô ta bối rối không hiểu. “Để…?”
 
“Để cho mấy thứ nhạc cụ trong ba lô của tôi ấy mà. Tôi cần băng dính để buộc chặt mấy cái trống lại với nhau”.
 
“Ồ, có chứ, tôi có một ít trong này.” Cô ta bước vào gian sảnh giữa. “Giáng sinh nào tôi cũng gửi những gói quà cho các dì của mình. Bao giờ tôi cũng mua một cuộn băng dính mới. Tôi không bao giờ nhớ được là trước đó tôi đã mua rồi thành thử cuối cùng tôi có cả tấn băng dính trong nhà. Chẳng biết tôi có ngốc nghếch không?”
 
Hắn không trả lời vì hắn còn bận nghiên cứu gian bếp và quyết định rằng đó là khu vực tiêu diệt tốt nhất trong căn hộ.
 
“Của anh đây.” Cô ta tung cho hắn cuộn băng dính một cách tinh nghịch. Theo bản năng hắn giơ tay bắt lấy. Hắn bục mình vì chưa có lúc nào thuận tiện để đeo găng tay. Hắn biết đã để lại dấu vân tay trên cuộn băng dính. Người hắn run lên vì giận dữ và khi hắn nhìn thấy Sheila cười toe toét cười nói, “Ê, bắt tốt đấy, anh bạn”, thì thực sự trước mắt hắn lúc này chỉ còn là một con giòi khổng lồ đang tiến lại gần hơn, gần hơn nữa. Hắn đặt cuộn băng dính xuống và xỏ găng tay vào.
 
“Găng tay ư? Anh lạnh à? Nói đi, anh bạn, anh đang…?”
 
Hắn phớt lờ cô ả và mở cánh cửa tủ lạnh, bắt đầu lôi thức ăn trong đó ra ngoài.
 
Cô ta bước thêm bước nữa vào trong phòng. Nụ cười ngớ ngẩn của cô ta bắt đầu biến mất. “À ừm, anh đói à?”
 
Hắn bắt đầu lôi những ngăn giá để đồ ra.
 
Một cái nhìn lướt qua giữa hai người và bất thình lình, từ sâu trong cổ họng cô ta, bật ra một tiếng ré khản đặc, “Eeeeeeee”.
 
Stephen chộp được con giòi béo đúng lúc cô ta mới chạy được nửa đường và ra đến cửa trước.
 
Nhanh hay chậm đây?
 
Hắn lôi cô ta vào trong bếp. Về phía chiếc tủ lạnh.
Chú thích
 

[35] SWAT (viết tắt của Special Weapons anhd Tactics): Đội Chiến thuật và Vũ khí Đặc biệt.
[36] IRD (viết tắt của Investigation and Resources Division): Bộ phận Điều tra và Nguồn lực thuộc NYPD.
[37] Gypsy là từ dùng để chỉ chung những người sống lang thang, du mục tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại châu Âu và Bắc Mỹ, và chuyên làm nghề nhạc công, xem bói… Họ được coi là những người có cá tính phóng khoáng, nổi loạn.
[38] Amelia Earhart (1897-1937): Nữ phi công Mỹ, nổi tiếng với những chuyến bay một mình vượt Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cùng nỗ lực bay vòng quanh thế giới nhưng không thành công.
[39] Christopher Reeve (1952-2004): Diễn viên điện ảnh người Mỹ, nổi tiếng với loạt phim Superman (Siêu nhân) trong giai đoạn 1978-1987. Ông bị tai nạn năm 1995, liệt toàn thân và phải ngồi xe lăn cho đến khi qua đời.