CHƯƠNG 9


CHƯƠNG 8

    
iếng còi hiệu rú lên inh ỏi.
Lincoln Rhyme cứ đinh ninh sẽ nghe thấy hiệu ứng Doppler[42] khi chiếc xe của cảnh sát chạy vụt qua. Nhưng đúng ngay trước cửa nhà anh tiếng còi hiệu chợt hụ lên gấp gáp hơn trong giây lát và im bặt. Lát sau Thom dẫn theo một thanh niên vào phòng thí nghiệm dưới tầng trệt. Với quả đầu húi cua trông rất vui mắt và sành điệu, anh chàng cảnh sát vũ trang bang Illinois mặc một bộ cảnh phục màu xanh tím than, có lẽ hôm qua khi anh ta mới diện lên người trông nó hẳn phải rất phẳng phiu nhưng lúc này bộ quần áo đã trở nên nhàu nhĩ, lấm tấm bụi bẩn và muội đen. Trước đó anh ta đã dũi vội một chiếc máy cạo râu chạy pin qua mặt mình nhưng cũng đủ để tạo thành những vệt mờ mờ trên bộ râu quai nón đen thẫm tương phản với mái tóc màu vàng nhạt. Anh ta mang theo hai chiếc túi xách lớn bằng vải bạt, một cặp tài liệu màu nâu và Rhyme hạnh phúc khi nhìn thấy anh ta hơn là gặp bất kỳ ai trong suốt tuần qua.
“Quả bom”, anh gào toáng lên. “Quả bom đây rồi!”
Viên cảnh sát, ngỡ ngàng khi chứng kiến đội ngũ nhân viên công quyền lạ lùng tập trung trong phòng, chắc hẳn phải tự hỏi chuyện gì đang xảy ra với mình khi Cooper giằng ngay hai cái túi còn Sellitto nguệch ngoạc ký vội lên phiếu giao nhận bằng chứng rồi giúi trở lại vào tay anh ta. “Cảm ơn nhé, chờ cậu mãi”, viên thám tử thốt lên rồi quay lại với chiếc bàn để bằng chứng.
Thom nhã nhặn mỉm cười với viên cảnh sát vũ trang và dẫn anh ta ra khỏi phòng.
Rhyme gọi tướng lên, “Bắt tay vào việc thôi, Sachs. Cô lại đứng ngây ra đó rồi! Xem chúng ta có gì nào?”.
Cô giận dỗi cười nhạt rồi bước lại bên bàn của Cooper, nơi mà tay kỹ thuật viên đang thận trọng lôi những thứ có trong hai chiếc túi ra.
Hôm nay cô ấy bị làm sao thế nhỉ? Một tiếng đồng hồ là quá nhiều cho việc kiểm tra một hiện trường vụ án, nếu như đó là điều khiến cô ấy hậm hực. Chậc, anh lại thấy thích cái tính dễ nổi quạu của cô. Bản thân anh cũng luôn làm việc hiệu quả nhất theo cách đó. “Được rồi, Thom, giúp chúng tôi một chút nào. Tấm bảng đen kia kìa. Chúng ta cần lên danh sách các bằng chứng. Vẽ cho chúng tôi mấy cái biểu đồ. “HT-Một.” Dòng đầu tiên.”
“H, ừm, T là sao?”
“Hiện trường”, nhà chuyên gia tội phạm học gắt lên. “Thế cậu còn tưởng là cái gì nữa? HT-Một, Chicago.”
Trong một vụ án gần đây, Rhyme thậm chí còn sử dụng mặt sau của một tấm áp phích mềm oặt của bảo tàng Metropolitan làm bảng vẽ sơ đồ bằng chứng. Còn bây giờ anh đã ở đẳng cấp tiên tiến nhất – trên tường gắn mấy tấm bảng đen cỡ lớn, sực nức những mùi hương gợi cho anh nhớ về những ngày mùa xuân ấm áp được cắp sách đến trường ở vùng Trung Tây, háo hức trong những giờ khoa học, khinh thường môn đánh vần và tiếng Anh.
Cậu trợ lý ném một cái lườm giận dữ về phía ông chủ của mình nhưng rồi vẫn cầm viên phấn lên, phủi phủi mấy hạt bụi dính trên cái cà vạt hoàn hảo và trên những nếp quần là ly cáu cạnh của mình, bắt đầu viết.
“Chúng ta co những gì đấy, Mel? Sachs, giúp cậu ta đi.”
Họ bắt đầu mở những túi và bình bằng plastic đựng tro, những mẩu nhựa cháy, kim loại và sợi vải. Hai người dốc những mẩu bằng chứng đó vào các khay gốm. Những kỹ thuật viên kiểm tra hiện trường vụ nổ – nếu họ ở cùng đẳng cấp với những kỹ thuật viên mà Rhyme từng huấn luyện trước đây – chắc hẳn đã dùng nam châm gắn trên đầu con lăn, máy hút bụi công suất lớn và một loạt các loại lưới mắt nhỏ để lọc những mẫu vụn bắn ra sau vụ nổ.
Rhyme, một chuyên gia trong hầu hết các lĩnh vực khoa học hình sự và cũng là bậc thầy về các loại bom. Bản thân anh cũng không đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực này cho đến khi tên Vũ công để lại quả bom bé xíu trong thùng rác của tay nhân viên văn phòng phố Wall, nơi hai kỹ thuật viên của anh bị giết. Sau sự kiện đó Rhyme tự đặt cho mình nhiệm vụ phải nghiên cứu và học hỏi tất cả những gì có thể về chất nổ. Anh đã nghiên cứu với Đơn vị Thuốc nổ của FBI, một trong những phòng thí nghiệm liên bang nhỏ nhất – nhưng cũng tinh nhuệ nhất – bao gồm mười bốn chuyên gia phân tích hoạt chất và kỹ thuật viên. Họ không tìm kiếm IEDs – những thiết bị nổ tự chế – thuật ngữ để chỉ bom trong khoa học hình sự – và họ cũng không vô hiệu hóa chúng. Nhiệm vụ của họ là phân tích bom và hiện trường các vụ đánh bom để truy tìm và phân loại những kẻ chế tạo bom cùng đệ tử của chúng (trong nhiều nhóm nhất định, chế tạo bom được coi là một nghệ thuật và những kẻ mới vào nghề thường học tập rất chăm chỉ để học hỏi kỹ thuật của những kẻ chế tạo bom đã thành danh).
Sachs đang lục lọi những chiếc túi. “Chẳng phải là một qủa bom vẫn tự phá hủy hết sao?”
“Không có gì là tự phá hủy hoàn toàn cả, Sachs. Hãy nhớ điều đó.” Mặc dù vậy, khi anh đẩy xe lại gần hơn và tự mình xem xét những chiếc túi, anh cũng phải thừa nhận, “Vụ này tồi tệ thật. Thấy những mẩu vụn này không? Cả thanh nhôm phía bên trái nữa? Mẩu kim loại đã bị xé toang, chứ không bị uốn cong. Điều đó có nghĩa là quả bom có độ brisance rất cao…”
“Cái gì cao cơ?” Sellitto hỏi.
“Brisance.” Rhyme giải thích, “Thuật ngữ chỉ độ công phá của bom. Nhưng ngay cả như vậy thì vẫn có từ 60 đến 90% của quả bom còn sót lại sau khi nổ. Hừm, tất nhiên là không nói đến thuốc nổ. Mặc dù bao giờ cũng còn lại đủ dư chất để xác định xem đó là thuốc nổ gì. Chậc, những gì chúng ta có ở đây là quá nhiều rồi”.
“Nhiều ư?”, Dellray phá lên cười. “Tệ chẳng khác gì gắn Humpty-Dumpty[43] lại như cũ.”
“À, nhưng đó có phải là nhiệm vụ của chúng ta đâu cơ chứ, Fred”, Rhyme nói một cách dứt khoát. “Tất cả những gì mà chúng ta cần làm là tóm cổ thằng chó đẻ đã đẩy anh ta rơi từ trên tường xuống.” Anh đẩy xe tiếp về phía cuối bàn. “Trông quả bom thế nào, Mel? Tôi nhận ra pin, cả dây điện và đồng hồ hẹn giờ. Còn gì nữa không? Có thể là những mẩu va li hoặc túi đựng đồ chăng?”
Những chiếc va li là bằng chứng vạch mặt thủ phạm đánh bom nhiều hơn cả những chiếc đồng hồ hẹn giờ và kíp nổ. Tuy người ta không nói ra nhưng thực tế là những hành lý vô thừa nhận thường được các hãng hàng không tặng lại cho FBI để cơ quan này cho nổ tung với mục đích tái tạo lại các vụ nổ và tạo thành quy chuẩn cho các chuyên gia phân tích bom. Trong vụ đánh bom chuyến bay 103 của hãng hàng không Pan Am, FBI lần ra thủ phạm đánh bom không phải từ loại thuốc nổ được sử dụng mà thông qua chiếc radio bán dẫn hiệu Toshiba được dùng làm vật giấu quả bom, chiếc va li Samsonite đựng chiếc radio, cùng mớ quần áo quấn xung quanh. Người ta lần ra nguồn gốc mớ quần áo trong chiếc va li là từ một cửa hàng ở Sliema, Malta, mà chủ nhân lại là một nhân viên tình báo của Lybia cũng giống như kẻ đã mua những món đồ này.
Nhưng Cooper lắc đầu. “Không có gì xung quanh vùng nổ cả, trừ bản thân những thành phần chính của quả bom.”
“Vậy là nó không được giấu trong va li hoặc túi xách nào cả”, Rhyme trầm ngâm. “Thú vị đây. Làm thế quái nào mà hắn mò lên máy bay được nhỉ? Hắn đã gắn nó ở đâu? Lon, đọc cho tôi cái báo cáo của Chicago.”
“Khó xác định vị trí phát nổ chính xác”, Sellitto đọc, “do quy mô đám cháy và mức độ phá hủy của chiếc máy bay. Vị trí đặt thiết bị nổ có vẻ như ở dưới và đằng sau buồng lái”.
“Bên dưới và phía sau. Tôi đang phân vân liệu ở đó có ngăn chứa hàng gì không. Có thể…” Rhyme bỗng im bặt. Đầu anh gật gù, mắt vẫn dán chặt vào những túi bằng chứng. “Khoan! Khoan đã!”, anh chợt hét lên. “Mel, cho tôi xem những mẩu kim loại đằng kia. Túi thứ ba từ bên trái ấy. Những mảnh nhôm. Cho nó vào dưới kính hiển vi.”
Cooper đã nối đường video ra từ kính hiển vi điện tử của mình với máy tính của Rhyme. Những gì Cooper nhìn thấy thì Rhyme cũng nhìn thấy. Người kỹ thuật viên bắt đầu gắp những mẩu kim loại vụn nhỏ li ti lên đế quan sát và đặt chúng dưới ống kính hiển vi.
Một lát sau Rhyme ra lệnh, “Kéo con trỏ xuống. Nháy đúp”.
Hình ảnh trên màn hình máy tính của anh được phóng to lên.
“Đấy, nhìn kìa! Vỏ của chiếc máy bay bị uốn cong vào phía trong”.
“Vào trong ư?”, Sachs hỏi. “Ý anh là quả bom được cài từ bên ngoài?”
“Tôi nghĩ vậy, đúng là như thế. Anh thấy sao, Mel?”
“Anh nói đúng. Tất cả những đầu đinh tán sáng loáng này đều bị uốn cong vào phía trong. Quả bom được đặt ở bên ngoài, chắc chắn là như vậy.”
“Một quả rocket chăng?” Dellray hỏi, “Đất đối không?”
Sellitto vừa xem bản báo cáo vừa trả lời, “Không, hệ thống radar không phát hiện được tín hiệu tên lửa nào cả”.
Rhyme lắc đầu. “Không, tất cả đều cho thấy đây là một quả bom.”
“Nhưng được gắn ở bên ngoài là sao?” Sellitto hỏi. “Chưa bao giờ nghe nói có chuyện như thế cả.”
“Thực tế đó giải thích cho chi tiết này”, Cooper nói to. Người kỹ thuật viên đeo kính phóng to lên mắt rồi cầm lấy một que thăm bằng gốm, bắt đầu xem lướt qua những mẩu kim loại nhanh nhoay nhoáy như một chàng cao bồi đang đếm đầu số đầu gia súc trong đàn. “Những mảnh kim loại có thành phần là sắt. Nam châm. Không dính vào bề mặt nhôm nhưng bên dưới lại có khung thép. Và tôi còn thấy ở đây có những mẩu dấu vết của keo dính epoxy. Hắn dính quả bom bên ngoài vỏ máy bay được giữ bằng nam châm cho đến keo cứng lại.”
“Và hãy xem những dấu sóng chấn động trong lớp keo epoxy kìa”, Rhyme nhận xét. “Lớp keo vẫn chưa dính hoàn toàn, có nghĩa là hắn gắn nó lên máy bay không lâu trước khi máy bay cất cánh.”
“Chúng ta có thể xác định được nhãn mác loại keo epoxy đó không?”
“Không, keo dán tổng hợp. Có bán ở khắp mọi nơi.”
“Có hy vọng tìm được dấu vân tay không? Cứ nói thật đi, Mel.”
Câu trả lời của Cooper là một tiếng cười khan đầy vẻ hoài nghi. Mặc dù vậy anh vẫn tiến hành các thao tác kiểm tra và dùng dải ánh sáng PoliLight quét qua những mảnh vỡ. Không có gì hiện lên ngoài những dư chất sau vụ nổ. “Chẳng thấy gì.”
“Tôi muốn ngửi qua một chút”, Rhyme đột ngột tuyên bố.
“Ngửi ấy à?” Sachs hỏi.
“Với mức độ công phá như vậy, chúng ta biết nó là loại thuốc nổ cực mạnh. Tôi muốn biết chính xác xem đó là loại gì.”
Nhiều thủ phạm đánh bom sử dụng thuốc nổ yếu – những hợp chất có khả năng bắt lửa nhanh nhưng khó nổ trừ phi được lèn chặt, trong những ống trụ hoặc hộp cứng. Phổ biến nhất trong nhóm này chính là thuốc súng. Thuốc nổ mạnh – ví dụ như thuốc nổ dẻo và TNT – có thể nổ ở trạng thái tự nhiên và không cần phải gói hoặc lèn vào bất kỳ vật chứa nào. Chúng khá đắt tiền và cũng rất khó kiếm. Chủng loại và nguồn gốc của thuốc nổ có thể nói lên rất nhiều điều về đặc điểm của kẻ đánh bom.
Sachs mang một chiếc túi lại gần chỗ Rhyme và mở nó ra. Anh ngửi một hơi dài.
“RDX”, Rhyme thốt lên, anh nhận ra nó ngay lập tức.
“Ăn khớp với độ brisance”, Cooper nói. “Anh nghĩ đó là C3 hay C4?” Cooper hỏi. RDX là thành phần chủ yếu trong hai loại thuốc nổ dẻo nói trên, được sử dụng cho mục đích quân sự; những tổ chức và cá nhân dân sự sở hữu chúng sẽ bị coi là phạm pháp.
“Không phải C3”, Rhyme nói và lại hăm hở hít chỗ thuốc nổ như thể đó là rượu vang Bordeaux hảo hạng. “Không có mùi ngọt… Không chắc lắm. Và lạ thật đấy… Tôi còn ngửi thấy mùi gì đó… Cho phân tích bằng quang phố kế đi, Mel.”
Người kỹ thuật viên cho mẫu đó chạy qua sắc ký khí. Chiếc máy tinh vi này có khả năng phân tách từng thành phần của các hợp chất và xác định chúng. Nó có thể phân tích những mẫu chỉ nhỏ bằng một phần triệu gam, và sau khi xác định được đó là những chất nào, chiếc máy sẽ tiến hành đối chiếu thông tin qua một cơ sở dữ liệu để, trong nhiều trường hợp, tìm ra nhà sản xuất.
Cooper kiểm tra kết quả. “Anh nói đúng, Lincoln. Đó là chất RDX. Có cả dầu nữa. Và chi tiết này mới lạ lùng đây – tinh bột…”
“Tinh bột!” Rhyme phấn khích thốt lên. “Đúng là tôi ngửi thấy mùi đó! Mùi bột guar[44]…”
Cooper bật cười vì quả thật từ Rhyme vừa nói bỗng hiện lên trên màn hình máy tính. “Làm sao anh lại biết vậy?”
“Bởi vì nó là thuốc nổ dynamite quân sự.”
“Nhưng không thấy có nitroglycerine”, Cooper phản đối. Hoạt chất chủ yếu trong thuốc nổ dynamite.
“Không, không, nó không hẳn là dynamite”, Rhyme nói. “Đó là hỗn hợp của RDX, TNT, dầu động cơ và bột guar. Không mấy khi được sử dụng đâu.”
“Quân sự à?”, Sellitto ngẫm nghĩ. “Đó là Hansen.”
“Thì đã hẳn rồi.”
Kỹ thuật viên tiếp tục gắp mẫu vật lên đế quan sát của chiếc kính hiển vi điện tử.
Những hình ảnh cũng đồng thời hiện lên trên màn hình máy tính của Rhyme. Các mẩu sợi, dây điện, mảnh vụn, mẩu rác, bụi bẩn.
Anh chợt nhớ lại một hình ảnh tương tự cách đây nhiều năm, mặc dù trong những hoàn cảnh hoàn toàn khác. Khi ngắm nhìn qua một ống kính vạn hoa bằng đồng nặng trịch mà anh mua làm quà tặng sinh nhật cho một người bạn. Cho Claire Trilling, xinh đẹp và phong cách. Rhyme đã tìm thấy chiếc kính vạn hoa trong một cửa hàng ở SoHo. Cả hai đã thức trọn đêm để uống hết một chai vang đỏ Merlot và cố đoán xem những viên pha lê hiếm có hoặc đá quý đang tạo ra trước mắt họ vô số hình ảnh đẹp ngỡ ngàng đến nhường nào. Cuối cùng thì Claire, vốn cũng có tính tò mò khoa học không kém gì Rhyme, đã quyết định vặn mở đáy của ống trụ và dốc những thứ trong đó lên mặt bàn. Cả hai đã cười nghiêng ngả. Hoàn toàn không có gì ngoài những mẩu vụn kim loại, vỏ bào gỗ, một chiếc ghim giấy đã gãy, những mẩu giấy xé vụn ra từ một cuốn Những Trang Vàng, đinh bấm.
Rhyme gạt những ký ức đó qua một bên và tập trung vào những gì anh đang nhìn thấy trên màn hình máy tính: Một mẩu giấy làm từ sợi cây chuối sợi có tráng sáp – đó là loại giấy bọc đặc trưng cho thuốc nổ dynamite quân sự. Những mẩu sợi – tơ nhân tạo và bông tự nhiên – từ sợi dây dẫn nổ mà tên Vũ công đã buộc xung quanh khối thuốc dynamite vốn rất mềm và dễ dàng bám chặt vào sợi dây. Một mẩu nhôm và một sợi dây điện màu bé tí – văng ra từ kíp nổ điện. Thêm những mẩu dây điện và một mẩu than chì kích thước bằng cục tẩy từ nguồn pin của quả bom.
“Đồng hồ hẹn giờ”, Rhyme chợt nói to. “Tôi muốn xem cái đồng hồ.”
Cooper cầm một chiếc túi nhựa nhỏ trên bàn lên.
Bên trong là con tim bất động, lạnh lùng của quả bom.
Nó ở trạng thái gần như nguyên vẹn, khiến Rhyme ngạc nhiên. À, sai lầm đầu tiên của mày đây rồi, anh thầm nghĩ, như thể đang nói chuyện với tên Vũ công. Hầu hết những kẻ đánh bom đều bọc thuốc nổ quanh hệ thống kích nổ để phá hủy bằng chứng. Nhưng ở đây tên Vũ công lại vô tình đặt đồng hồ hẹn giờ đằng sau một gờ thép dày trên tấm kim loại có tác dụng đỡ quả bom. Gờ thép đã bảo vệ thiết bị hẹn giờ khỏi sức công phá của vụ nổ.
Cổ Rhyme đau buốt khi anh cố nhoài người về phía trước, chăm chú nhìn mặt đồng hồ bị vênh.
Cooper săm soi thiết bị hẹn giờ. “Tôi đã tìm thấy số model và tên nhà sản xuất.”
“Rà soát tất cả qua ERC[45].”
ERC là cơ sở dữ liệu đầy đủ nhất trên thế giới về các thiệt bị gây nổ. Nó bao gồm thông tin về tất cả các vụ đánh bom từng xảy ra tại Mỹ, cùng với bằng chứng cụ thể của rất nhiều vụ trong đó. Một số mẫu vật và bằng chứng trong bộ sưu tập này đáng được coi là đồ cổ, được lưu trữ từ những năm 1920.
Cooper lúi húi gõ trên bàn phím máy tính. Một lát sau modem kết nối của anh kêu tít tít và bắt đầu hoạt động.
Hai phút sau, kết quả của lệnh kiểm tra được hiển thị.
“Không tốt rồi”, anh chàng hói nói, hơi nhăn mặt, đây là hình thức biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ nhất ở người kỹ thuật viên. “Không có bất kỳ hồ sơ lưu trữ cụ thể nào ăn khớp với quả bom này.”
Hầu như tất cả những kẻ đánh bom đều đi theo một khuôn mẫu nhất định khi chế tạo thiết bị nổ của mình – chúng học một kỹ thuật nào đó và tuân thủ theo nó rất nghiêm túc. (Xuất phát từ đặc điểm của loại sản phẩm mà chúng chế tạo, tốt nhất là không nên mạo hiểm thử nghiệm quá nhiều.) Nếu những bộ phận trong quả bom của tên Vũ công trùng khớp với một Thiết bị nổ tự chế trước đó, ví dụ như Florida hay California chẳng hạn, nhóm điều tra có thể lần thêm đầu mối bổ sung từ những hiện trường đánh bom đó để tìm ra phạm vi hoạt động của thủ phạm. Quy tắc bất di bất dịch ở đây là nếu hai quả bom có ít nhất bốn điểm chung về kết cấu – ví dụ như những mối nối được hàn lại thay vì dán băng dính, hoặc dùng đồng hồ dạng analog thay vì đồng hồ kỹ thuật số – thì rất có thể chúng được chế tạo bởi cùng một người hoặc ít ra là cũng là dưới sự kèm cặp của hắn. Quả bom của tên Vũ công ở phố Wall cách đây vài năm khác hẳn với quả bom này. Nhưng Rhyme biết rằng quả bom này được chế tạo cho một mục đích hoàn toàn khác. Quả bom kia được gài lại để gây khó khăn cho quá trình khám nghiệm hiện trường vụ án; còn quả này là để làm nổ tung một chiếc máy bay lớn trên bầu trời. Và nếu như Rhyme có biết điều gì về tên Vũ công Quan tài, thì đó chính là việc hắn “đo ly đóng giày” cho những dụng cụ của hắn trong từng phi vụ.
“Còn tệ hơn nữa cơ à?”, Rhyme hỏi, anh đọc được ngay vẻ mặt của Cooper trong khi tay kỹ thuật viên vẫn chằm chằm nhìn vào màn hình máy tính.
“Thiết bị hẹn giờ.”
Rhyme thở dài. Anh hiểu. “Có hàng tỷ tỷ cái đã được sản xuất?”
“Riêng năm ngoái công ty Daiwana ở Seoul đã bán một trăm bốn mươi nghìn chiếc đồng hồ như vậy. Cho các cửa hàng bán lẻ, các nhà chế tạo thiết bị cơ bản, cho cả những doanh nghiệp nhượng quyền. Hoàn toàn không có mã số phân biệt từng lô hàng được đưa tới đâu.”
“Tuyệt thật. Quá tuyệt.”
Cooper vẫn dán mắt vào màn hình. “Hừm. Mấy tay ở ERC nói là họ rất quan tâm đến thiết bị này và hy vọng chúng ta sẽ bổ sung nó vào cơ sở dữ liệu của họ.”
“Ối trời, cứ như thể đó là ưu tiên số một của chúng ta lúc này vậy”, Rhyme lầm bầm.
Những cơ vai của anh đột nhiên căng cứng lại và anh phải ngã đầu ra phía sau, dựa vào giá đỡ gắn trên xe lăn. Anh thở sâu trong vòng vài phút cho tới khi cơn đau tưởng chừng như không thể nào chịu nổi cũng dịu đi, rồi biến mất. Sachs, người duy nhất nhận ra vội bước lại gần, nhưng Rhyme lắc đầu về phía cô, nói, “Anh tìm được mấy sợi dây điện, Mel?”
“Chỉ hai thôi, có vẻ thế.”
“Dây nhiều lõi hay sợi quang?”
“Không, chỉ là dây điện bình thường cỡ trung bình thôi.”
“Không có dây mạch nhánh à?”
“Không.”
Dây mạch nhánh là một sợi dây điện riêng biệt, có vai trò hoàn thành kết nối trong trường hợp dây nối với nguồn pin hoặc với thiết bị hẹn giờ bị cắt trong một nỗ lực nhằm vô hiệu hóa quả bom. Tất cả những quả bom phức tạp đều có cơ chế dây mạch nhánh.
“Chà”, Sellitto thốt lên, “đó chẳng phải là tin tốt sao? Có nghĩa là hắn bắt đầu làm ăn cẩu thả”.
Nhưng Rhyme lại tin vào điều hoàn toàn ngược lại. “Tôi không nghĩ vậy, Lon. Tác dụng duy nhất của dây mạch nhánh là gây khó khăn cho việc vô hiệu hóa qủa bom. Không có dây mạch nhánh tức là hắn thừa tự tin rằng không ai tìm thấy quả bom và nó sẽ phát nổ đúng như hắn dự đoán – trên không trung.”
“Cái của này”, Dellray hỏi với vẻ khinh bỉ, mắt nhìn vào những mảnh vụn của quả bom. “Thằng nhóc của chúng ta phải giao du với những loại người như thế nào để có thể tạo ra được cái của như thế này? Tôi có một số cơ sở mật biết khá rõ về những bọn chuyên cung cấp bom.”
Bản thân Fred Dellray cũng đã phải học rất nhiều về các loại bom, hơn cả những gì anh định biết. Người cộng sự và cũng là bạn thân lâu năm của anh, Toby Doolittle, đã ở tầng trệt của tòa nhà liên bang tại thành phố Oklahoma cách đây vài năm. Anh bị giết ngay lập tức trong vụ khủng bố bằng bom tự chế từ nguyên liệu sản xuất phân bón[46].
Nhưng Rhyme lắc đầu. “Đây toàn là những thứ có bán nhan nhản trên thị trường ấy mà, Fred. Chỉ trừ thuốc nổ và dây cháy chậm. Có thể Hansen đã cung cấp những thứ này. Mẹ kiếp, có lẽ tên Vũ công đã kiếm được tất cả những gì hắn cần tại Radio Shack[47]”.
“Sao cơ?”, Sachs hỏi với vẻ ngạc nhiên.
“Ồ, vâng”, Cooper nói và giải thích thêm, “chúng tôi gọi đó là Cửa hàng của dân đánh bom”.
Rhyme lăn xe dọc theo thành bàn tới gần một mẩu vỏ thép xoắn tít trông như một mảnh giấy nhàu nát, anh chăm chú nhìn nó hồi lâu.
Cuối cùng anh lùi xe lại và ngửa mặt lên trần nhà. “Nhưng tại sao lại gắn ở bên ngoài?”, anh trầm ngâm. “Percey nói lúc nào cũng có rất nhiều người xung quanh. Và chẳng phải tay phi công nào cũng phải đi quanh máy bay trước khi cất cánh để kiểm tra bánh xe và các chi tiết khác còn gì?”
“Tôi nghĩ thế”, Sellitto nói.
“Vậy tại sao Ed Carney và tay phi công bay cùng anh ta không nhìn thấy?”
“Bởi vì”, đột nhiên Sachs lên tiếng xen vào, “tên Vũ công không không thể gài quả bom lên máy bay cho đến khi hắn biết chắc những ai sẽ có mặt trên đó”.
Rhyme quay chiếc xe lại về phía cô. “Chính xác, Sachs! Hắn đã có mặt ở đó để thao dõi. Khi nhìn thấy Carney lên máy bay hắn biết ít nhất hắn đã có được một nạn nhân. Hắn đã cài bom ở đâu đó sau khi Carney lên máy bay và trước khi chiếc máy bay cất cánh. Cô phải tìm ra xem hắn làm việc này ở chỗ nào, Sachs. Và kiểm tra nơi đó. Tốt hơn là cô nên bắt đầu đi.”
“Chỉ có một tiếng đồng hồ – hừ, bây giờ, thậm chí lại còn ít hơn”, cô nàng Amelia Sachs mắt sắc lạnh nói và quay người bước ra phía cửa.
“Có chuyện này”, Rhyme nói.
Cô dừng lại.
“Tên Vũ công hơi khác so với tất cả những kẻ mà cô từng phải đương đầu.” Anh không biết phải giải thích như thế nào nữa? “Với hắn, những gì cô nhìn thấy cũng chưa chắc đã là sự thật.”
Cô sốt ruột nhướng mày lên, ý muốn nói: Cứ nói toạc ra đi.
“Có lẽ hắn không có ở đó, ở sân bay ấy. Nhưng nếu cô nhìn thấy bất kỳ ai lại gần mình, hừm… hãy bắn trước.”
“Cái gì cơ?”, cô phá lên cười.
“Hãy lo cho bản thân mình trước, hiện trường chỉ là chuyện phụ.”
“Tôi chỉ là người khám nghiệm hiện trường”, cô vừa trả lời vừa rảo bước qua ngưỡng cửa. “Hắn sẽ không bận tâm tới tôi đâu.”
“Amelia, nghe đã…”
Nhưng anh nghe thấy tiếng bước chân của cô xa dần. Những âm thanh quen thuộc: tiếng cồm cộp trên sàn gỗ sồi, những bước chân bịch bịch khi cô bước qua tấm thảm phương Đông và rồi tiếng lách cách trên ngưỡng cửa lát đá cẩm thạch. Cuối cùng, hồi kết – khi cánh cửa trước đóng lại đánh rầm một tiếng.
Chú thích

[42] Hiệu ứng mang tên nhà Vật lý người Áo Christian J. Doppler (1802-1853), diễn tả sự thay đổi tần số âm thanh do chuyển động.
[43] Humpty-Dumpty: Nhân vật thường được miêu tả như quả trứng bị rơi từ trên bức tường rất cao xuống đất trong một bài đồng dao rất phổ biến ở Anh, Mỹ.
[44]Cây guar: Một loại thực vật có nguồn gốc Ấn Độ, hạt được sử dụng làm chất dẻo.
[45] ERC (viết tắt của Explosives Reference Collection): Cơ sở Dữ liệu Tham khảo về thuốc nổ của FBI.
[46] Ngày 19 tháng 4 năm 1995, một quả bom khổng lồ giấu trong xe tải đã phát nổ trước tòa nhà liên bang ở thành phố Oklahoma làm 168 người thiệt mạng, phần lớn tòa nhà bị phá sập. Thủ phạm đánh bom là Timothy McVeigh, kẻ sau đó bị kết án tử hình.
[47] Radio Shack: Hệ thống cửa hàng bán lẻ đồ điện và điện tử gia dụng rất nổi tiếng tại Bắc Mỹ và châu Âu.