CHƯƠNG 16

    
ù có nghi vấn, đối với Rojas vẫn khó có thể tin rằng một người rất chính trực và được đào tạo bài bản như Fernando de Roa lại có thể liên đới đến các vụ giết người đó. Tuy nhiên, Fernando de Roa có động cơ giết người và nhiệm vụ của Rojas là phải điều tra cho rõ. Trong trường, anh có nghe người ta bình luận rằng sau khi kết thúc tranh cử, giáo sư đi giảng lớp Triết học Luân lý như không có việc gì xảy ra. Do đó, anh đã lại gần để nghe ông giảng bài.
Trái với lệ thường, lớp học hầu như vắng học sinh. Chắc chắn, những sinh viên vắng mặt đã rời bỏ lớp học bởi không muốn gánh chịu nguy cơ cho rằng sự có mặt của họ có thể được coi là một hình thức ủng hộ. Tuy nhiên, đối với ông Roa, điều ấy hình như không có tác động gì, dường như ông đã đoán ra và có chuẩn bị trước. Khi kết thúc bài giảng, ông từ biệt học sinh và đợi họ đi ra. Rojas đứng chờ ông ở gần cái cột trong trường. Đấy là nơi các giảng viên theo thói quen thường tiếp sinh viên đến tham vấn và trả lời những thắc mắc của họ vì trong giờ học không thể ngừng lại giữa chừng.
- Hãy nói điều ta có thể giúp cậu? - Ông Roa hỏi Rojas không mấy hào hứng.
- Tôi tên là Fernando de Rojas, sinh viên luật, mặc dù cũng qua lớp y, chiêm tinh và một chút ít Thần học. Xin thưa với giáo sư rằng tôi rất lấy làm tiếc về điều đã xảy ra sáng nay.
- Ta cảm ơn cậu về lời chia buồn, nhưng vấn đề ấy không còn quan trọng nữa. Ta đã già rồi và bắt đầu phải làm quen với những việc này. Có phải cậu chính là anh chàng Rojas bị trục xuất ra khỏi trường San Bartolomé không?
- Tôi đã thấy tin tức lan rất nhanh.
- Kinh nghiệm cho ta thấy rằng những tin xấu luôn lan truyền nhanh hơn những tin tốt vì những tin tốt liên quan đến ít người, còn tin xấu thì dường như mọi người đều quan tâm. Ngoài ra, ta lấy làm mừng vì việc trục xuất không ảnh hưởng nhiều đến cậu.
- Cũng là một việc đã dự liệu đối với tôi. Đó là vấn đề thời gian như mọi người thường nói.
- Có việc gì ta có thể làm cho cậu không?
- Chỉ là tôi muốn hỏi giáo sư một vài điều thôi, không có gì đáng quan trọng. Nếu giáo sư thấy được, - Rojas gọi ý, - tôi có thể theo về nhà ông.
- Đối với ta, chưa phải là giờ để đi về nhà. Ta thường ăn tối ở một quán trọ gần đây, giữa nhà thờ Thánh Millan và cửa sông. Nếu cậu muốn, ta mời cậu đi ăn. Ta phải nói trước đó là một nơi không thoải mái lắm và không được vệ sinh sạch sẽ, nhưng thức ăn thì tuyệt và không thiếu người đồng hành tốt. Vào giờ này, quán ăn đã chật những thợ thủ công, nhà buôn và khách đi đường, một số ở vùng rất xa và ta rất thích nói chuyện với họ trong lúc ăn. Họ biết nhiều hơn về thế giới và cuộc sống so với chúng ta, những giảng viên của Học viện.
- Tôi sẽ hân hạnh nhận lời nếu như giáo sư cho phép tôi mời giáo sư.
- Ồ, không đâu, anh bạn ạ. Đối với chủ quán, ta như người nhà và không bao giờ cho phép làm như thế. Cậu sẽ có cơ hội mời ta ở một địa điểm khác.
Quán trọ nằm trên đường đến vùng San Juan del Alcazar, ở khu Do Thái cũ, và đã có lúc thuộc về một linh mục tên là Ruy Perez, ông này hiện nay vẫn được mọi người biết đến. Quán ăn nằm ở tầng một, phía bên kia vườn, bên trong bày vài bàn chữ nhật cùng một số ghế ngồi, vào giờ này không khí đã rất náo nhiệt. Khi trông thấy ông Roa xuất hiện phía ngoài cửa, họ đã dành sẵn chỗ cho ông tại một bàn ăn. Rojas quan sát thấy họ đối xử với ông bằng thái độ kính trọng và một chút nào đó ngưỡng mộ, nhưng không nhiều nghi lễ, thực sự như là đối với người trong gia đình. Ông giáo dạy Triết học Luân lý giới thiệu anh là sinh viên luật và nguyên là học sinh cũ của trường San Bartolomé, khiến tất cả mọi người rất đỗi tò mò.
- Như vậy, anh từng là học sinh của trường San Bartolomé, - một trong số những người ngồi cùng bàn nói với Rojas - Anh hẳn biết điều mà người ta đồn đại về các anh như là: Việc mà một giám mục không thể, nhưng một học sinh Bartolomé lại làm được; điều mà ngay cả vua cũng không biết, nhưng một học sinh Bartolomé lại biết.
- Tôi thừa nhận là chưa từng nghe điều ấy bao giờ, - Rojas bình luận - và tôi không phủ nhận rằng bản thân cảm thấy rất vui được các anh đánh giá cao về chúng tôi. Về tất cả các mặt, công lao không chỉ là của học sinh, mà cũng là của Học viện.
- Anh đừng cố giảm tầm quan trọng, - một người khác nói chen vào với giọng vùng Aragon. - Anh chắc biết câu ngạn ngữ: Nếu bạn không tài cán thì Salamanca chẳng giúp gì được(1).
Đúng lúc đó, chủ quán xuất hiện để chào mọi người và thông báo có những món ăn gì. Ông ta có cái bụng rất lớn, rất khó đi lại giữa các bàn mà không làm phiền ai. Tuy nhiên, giọng nói của ông lại rất lanh lợi.
- Rất tốt, ông bạn Roa đã có mặt ở đây! - Chủ quán nói thay cho lời chào. - Tôi thấy ông còn mang đến một người bạn mới ngồi cùng bàn. Tôi hy vọng anh ta thích các món nương của chúng tôi. Trong bếp, - ông thông báo - đang chuẩn bị món xúp pho mát và chim ngói rán.
Trước khi đi, chủ quán tiến lại gần rồi nói nhỏ với ông Roa, đủ để tránh cho Rojas không nghe thấy.
- Sáng nay có một người lạ đến tìm ông. Tôi nói với anh ta rằng ông sẽ sớm đến đây. Sau đó, anh ta đề nghị cho thuê một phòng vì cần nghỉ ngơi. Anh ta khẩn khoản bảo tôi nói với ông rằng sau khi ông ăn xong, hãy lên gặp anh ta.
- Được rồi, - ông Roa nói với chủ quán tỏ ra hiểu ý - Bây giờ, hãy mang nhanh cho chúng tôi cái gì đó để uống. Tối rất khát sau khi nói nhiều với mấy bức tường, vì đó chính là việc mà các nhà giáo chúng tôi thường làm trong lớp.
- Có gì mới trong phe đối lập sáng nay không? - Một nhà buôn vải, người vùng Bejar, hỏi ông Roa. - Ông ta được mệnh danh Mặt đỏ tía tai, không biết vì màu thuốc nhuộm ông ta dùng trong kinh doanh hay vì ông uống quá chén.
- Điều đã hình dung ra từ trước, - ông Roa bắt đầu nói - Tôi bị la ó, xúc phạm; còn kẻ thuộc dòng Thánh Domingo thì giành được hầu hết số phiếu.
- Nếu được vào đó, chúng tôi sẽ cho bọn khốn nạn ấy một trận xứng đáng.
- Những kẻ bất lương ấy muốn tất cả đều thuộc về chúng - một người khác thêm vào với một tràng cười - Chúng không chỉ bằng lòng với tâm hồn, mà muốn có cả của cải của chúng ta.
- Như cậu thấy đấy, - ông giáo Roa hướng về Rojas, - không có thứ gia vị nào tốt hơn cho một bữa ăn ngon bằng một cuộc chuyện trò thoải mái với bạn bè.
- Từ khi chúng lấy trộm chức Giáo sư Thần học của Ngài Pedro de Osma tội nghiệp thi chúng không muốn nhả ra nữa, do đó, chúng đã giết người. - Nhà buôn vải nhấn mạnh.
- Thực ra, sáng nay chúng cũng công khai đổ cho tôi đã giết cha Tomas de Santo Domingo.
- Dường như việc tố cáo trầm trọng ấy không xúc phạm tới giáo sư. - Rojas đưa ra lời bình như thể một người không muốn sự việc xảy ra.
- Sao ta lại cảm thấy bị xúc phạm chỉ vì lời nói của những kẻ đần độn do chúng chỉ muốn bào chữa một cách vụng về cho quyết định của chúng trao chức Giáo sư Thần học cho một kẻ không xứng đáng? Ở đây ta không phủ nhận rằng cái tin về thằng cha ngớ ngẩn ấy chết đã làm ta vui, nhưng tiếc thay, ta chỉ là người nói suông mà không là người hành động.
- Thế còn những học trò khác của Pedro de Osma thì sao? - Rojas hỏi.
- E rằng chỉ còn mỗi một mình ta mà lại không hoàn toàn trung thành.
- Điều ấy có nghĩa rằng, - Rojas kết luận - giáo sư là nghi can chủ chốt.
- Cậu biết điều mà nhân vật Medea trong bi kịch của Seneca đã nói: Cui prodest scelus, is fecit. Để dịch cho các bạn của chúng ta hiểu, điều đó có nghĩa là: Người có lợi từ tội ác chính là người gây tội. Bản án mà cậu còn nhớ rất rõ, đã khơi nguồn cho một câu hỏi nổi tiếng mà các vị thẩm phán La Mã luôn luôn đặt ra: Ai có được lợi? Và trước mắt mọi người, - ông giáo nói thêm bằng giọng nhượng bộ - đối với ta chẳng có lợi ích gì cả.
Trong khi mọi người khác đều cười và bình luận về điều vừa xảy ra thì Rojas và Roa nhìn thẳng vào mắt nhau. Cả nhà giáo lẫn anh học trò đều biết rằng hai người vờ như không hiểu điều mà sự thật họ biết về nhau. Và họ vẫn tiếp tục với hành động dối trá ấy, có thể với hy vọng rằng đối thủ sớm rơi vào cạm bẫy hay mắc một thiếu sót nào đó.
- Thế giáo sư nói gì về cái chết của Thái tử Juan? - Rojas bỗng nhiên hỏi lại.
- Cậu sẽ không đổ lỗi cho ta là đã giết ông ta chứ? - Ông Roa đáp lại với điệu bộ vờ như ngạc nhiên.
- Tôi thấy không có lý, - Rojas đưa ra khẳng định, - vì Thái tử chết do bệnh tật.
- Thế à, - ông Roa bào chữa, - đấy là điều mà người ta đồn đại.
- Họ còn nói rằng do những người cải đạo.
- Những điều ấy không có gì là mới sẽ nói với anh rằng cha German không còn trên đời nữa hay ông vẫn còn sống, nhưng không muốn tiếp anh. Cuối cùng, khi anh quyết định gọi cửa, họ dẫn anh vào phòng của ông.
- Chào anh bạn Rojas, thật bất ngờ quá! - Cha German kêu lên khi vừa nhìn thấy anh.
- Con rất mừng thấy cha khỏe mạnh! - Rojas nói thay cho lời chào.
- Sao con lại ở đây? - Cha German dò hỏi - Đừng nói với ta là cuối cùng con cũng đến để xưng tội ở tu viện.
- Con e rằng còn sớm để làm việc đó, hoặc có thể đã quá muộn. Con thật sự không biết.
- Phục vụ Chúa thì không bao giờ là muộn cả. Không ai biết nơi mình được dành con đường riêng của Damasco(1). Trong bất cứ trường hợp nào, cha cũng khuyến khích, con có thể rất có ích đối với dòng thánh của chúng ta. Nhưng hãy nói với ta con đến đây vì cái gì vậy?
- Con đến để xin ý kiến cha, - Rojas giải thích, - vì cha là chuyên gia trong các vấn đề phù thuỷ.
- Ta mà là con, ta sẽ không dùng cái giọng chế giễu ấy. Con có biết Chiếc búa của những mụ phù thuỷ nói gì không? - Ông hỏi anh như nói chuyện với một học sinh. - Rằng không tin vào phù thuỷ là lỗi lầm lớn nhất của tà đạo và như vậy, con phải cẩn thận đấy.
- Nhưng chính cha đã nói với con đến hơn một lần rằng hầu như tất cả những điều liên quan đến thuật phù thuỷ đều không nằm ngoài sự mê tín và đơn giản hoá.
- Đúng vậy, - cha German thừa nhận, - có rất nhiều việc người ta coi là của phù thuỷ, nhưng lại là chuyện bịa đặt, kết quả của sự thiếu hiểu biết hoặc có thể được giải thích một cách tự nhiên, nhưng anh bạn ơi, điều ấy không hoàn toàn phủ nhận rằng nó tồn tại.
- Thế cha không tin rằng đằng sau nỗi ám ảnh của phù thuỷ là sự sợ hãi và thù ghét phụ nữ?
- Ta không nói, - cha German đáp với giọng bình tĩnh, - điều ấy không thể xảy ra trong một số trường hợp như trường hợp của hai người thuộc dòng Thánh Domingo không may ấy, nhưng điều dễ thấy nhất là có một số phụ nữ tôn thờ và lập thoả ước với Quỷ sứ để Quỷ sứ cho họ quyền năng ma thuật. Và chính chỗ này, - ông giải thích, - tạo nên sự khác biệt chủ yếu so với những người làm phép bùa ma, vì những người này không phụ thuộc và cũng không tôn thờ Ác quỷ để hành nghề.
- Con e rằng việc nghiên cứu đó, thay vì tạo ra sự tinh tường lại làm cho cha là người cả tin hơn, - Rojas nói đùa -, hay là do tuổi tác?
- Con đã làm một việc không đúng là cười ta. Khi mới bắt đầu nghiên cứu vấn đề này, ta cũng nghĩ như con, nhưng từ lúc đó ta đã xem và đọc rất nhiều thứ và giờ đây ta thấy nó không rõ ràng lắm. Ta không đề cập đến vấn đề bằng cách gì chúng chống lại niềm tin Thiên Chúa giáo và chúng ta phải trừng phạt như thế nào, bởi vì chỉ có Chúa, bằng sự hiểu biết khôn cùng, Người mới có thể phán xử được điều ấy. Này anh bạn, điều làm ta lo lắng nhưng đồng thời lôi cuốn ta là có những hiện tượng bí ẩn vượt khỏi khả năng lý giải của chúng ta. Nhưng thôi, chúng ta không nói chuyện này nữa, nhỡ có kẻ nào thuộc dòng Thánh Domingo ẩn nấp đâu đây, lại đưa hai ta lên giàn hoả thiêu.
Cha German tranh thủ bất cứ dịp nào để tấn công những cha cố thuộc dòng Thánh Domingo vì ông coi họ là những kẻ huênh hoang, kiêu ngạo và rất nguy hiểm. Không một ai lại không biết rằng giữa hai dòng thánh có sự hiềm khích cũ và mối hiềm khích này ngày càng gia tăng theo thời gian. Từ khi ông tới Salamanca vào thế kỷ XIII thì cả giáo phái này lẫn giáo phái kia đều rất nổi tiếng và sau đó họ tranh nhau là chủ sự các di chúc và dĩ nhiên, giành nhau một số ghế của Học viện, mặc dù có nhiều giáo phái và tu viện trong thành phố.
- Điều con sẽ hỏi cha, - Rojas bắt đầu nói, - liên quan đến việc điều tra mà con đang tiến hành để phát hiện ra thủ phạm của một vụ án.
- Sao một người được đào tạo bài bản và thông minh như con lại đi phục vụ công việc điều tra của Hội đồng? Con có đang gặp khó khăn về tài chính không?
- Không phải như thế đâu, con xin khẳng định với cha.
- Vậy như thế nào? cha hỏi lại, mỗi lúc một nghi ngờ hơn.
Rojas có một lúc e ngại vào thời điểm ấy, thời điểm mà cuối cùng anh phải thể hiện sự chân thành với một người bạn cũ và là thầy giáo của mình, anh thận trọng không kể hết tất cả.
- Con sẽ trung thực với cha. Con đang điều tra cái chết của cha Tomas de Santo Domingo do Giám mục uỷ thác.
- Chúa ơi! - cha German, cảm thấy bị xúc phạm, kêu lên. - Con điên à hay là con đã sang phía thù địch và bây giờ đến dụ dỗ ta phải không?
- Không đâu, xin cha hãy nghe con. Có những lý do quan trọng buộc con phải chấp thuận nhiệm vụ này. Không phải nhắc chắc cha cũng nhớ điều kiện phải chấp nhận trong cái ngày mà con cứu bố mình.
- Những thằng cha dòng Domingo thật tồi tệ! - ông kêu lên, tay giơ nắm đấm - Ta đáng lẽ phải mường tượng được điều này, con không biết là ta buồn như thế nào đâu.
- Con còn buồn hơn, nhưng giờ đây con mong muốn kết thúc tất cả chuyện này sớm và trở lại học tập nghiên cứu là điều duy nhất mà thực sự con quan tâm.
- Trong trường hợp như vậy, con sẽ được cha giúp đỡ! - cha German khẳng định.
- Đầu tiên, con muốn biết tờ giấy này gọi cho cha điều gì? Cha có tin là có gì đó liên quan đến thuật phù thuỷ không?
- Cho ta xem. Cái này đây, bên dưới là chữ I, hình như là một chữ thập Hy Lạp tương đối đặc biệt. Còn hình vẽ khác bên cạnh, về hình thức cho thấy có thể là một nghĩa địa hoặc một chiếc thuyền. Những nét gạch ở đây chỉ ra đường đi cần phải tiếp tục sau một mê cung rắc rối để tới một hình tròn cuối cùng ghi dấu chữ C. Dường như tất cả đều thể hiện là một loại sơ đồ.
- Cha có nghĩ rằng chữ I kia biểu tượng cho Địa ngục(2)?
- Có thể như vậy.
- Do đó, chữ C phải chăng là Thiên đường(3)?
- Được, đó là một giả thiết có lý, cha German nhượng bộ nhưng không mấy tin tưởng.
- Như vậy, đó là một con đường khó khăn đi từ Địa ngục tới Thiên đường.
- Ít ra thì đấy là điều mà các mũi tên chỉ ra, mặc dù có thể hiểu nghĩa khác: chữ I có thể là Nhà thờ(4), như một con đường duy nhất có thể đi tới Thiên đường sau khi chết; từ đấy mà có chữ thập và nghĩa địa. Đường mê cung thể hiện sự cám dỗ và những khó khăn cần phải chiến thắng để giành được nó. Trong bất cứ trường hợp nào, rõ ràng đây là một bức vẽ tượng trưng, về nguyên tắc, không thể hiện có gì liên quan đến thuật phù thuỷ. Nhưng, hãy nói cho cha biết việc này liên quan như thế nào đến cái chết của cha Tomas?
- Cái đấy, con chưa thể nói vào lúc này! - Rojas đáp sau một chút do dự.
- Thế còn việc gì khác ta có thể biết được không? - cha German hỏi lại với giọng hơi xúc phạm.
- Vâng còn, kẻ sát nhân đã đặt một đồng tiền trong miệng của cha Tomas.
- Một đồng tiền à?
- Chính xác là một đồng tiền như thế này. - Rojas nói tay đưa cho cha xem đồng bạc kẽm maravedi.
- Ta thấy rồi, ở Học viện, họ không dạy cho con một chút gì về thần thoại à, - cha German bắt đầu nói - Nếu không, con nên biết rằng ở Hy Lạp cổ, người ta chôn người chết với một đồng tiền, chính xác là một đồng bằng bạc đặt ở dưới lưỡi hay bên trên mắt để linh hồn người chết có thể trả cho Charon, người đưa họ bằng thuyền qua bờ bên kia của Suối vàng. Như con biết, cõi ấy ngăn cách giữa thế giới của người đang sống với người đã chết hay là cõi Âm phủ, ở đó Diêm vương thay Chúa trị vì nơi ấy…
- Con biết rõ về Diêm vương và sự cai quản của ông ta. - Rojas nói xen vào - Điều mà con không thấy rõ là mối quan hệ…
- Tất cả đều tuỳ từng lúc, anh bạn thân mến. - cha German bình luận - Giờ đây, điều rõ ràng duy nhất là tội phạm là kẻ có học.
- Con cũng đã kết luận như vậy vì người duy nhất bị nghi ngờ là một sinh viên, mặc dù con mường tượng rằng điều ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với cha.
- Thế con còn chờ gì mà không kể cho cha? - cha German hỏi với giọng trách móc.
- Con chờ cha khẳng định lại, con cám ơn cha điều đó.
- Được rồi. Mặt khác, việc đồng tiền, - cha German nói tiếp, - là một đồng bạc kẽm nên có rất ít giá trị. Ta nghĩ điều ấy chỉ cho chúng ta thấy phẩm chất ít ỏi và sự giả dối của nạn nhân, trong khi nạn nhân là thành viên của Nhà thờ nên trở thành hành động cáo buộc trầm trọng.
- Con phải thừa nhận là không mảy may suy nghĩ tới điều ấy, - Rojas ngạc nhiên bình luận trước lý lẽ của cha cố - Con nghĩ việc đặt đồng tiền là một sự lăng mạ, báng bổ Chúa, một sự sỉ nhục đối với niềm tin Thiên Chúa giáo.
- Được, cái này không thay thế cho cái kia. Việc thay một hình thức thiêng liêng bằng một đồng tiền có ít giá trị, không nghi ngờ gì nữa, là một sự xúc phạm đối với tôn giáo chúng ta, và ở mức độ cao nhất, cái đó lại được làm đối với thi thể của một nhà Thần học danh tiếng mà có thể chúng không để cho ông ta có thời gian thú tội.
- Còn một chi tiết nữa - Rojas thông báo - Thi thể có một vết xước trên mặt.
- Con nói đó là một vết xước cố ý chứ không phải là một vết thương bình thường?
- Đúng vậy! - Rojas khẳng định - Con nghĩ đó có thể là một loại chữ ký hoặc đánh dấu nhằm để lại danh tính an toàn khi mọi người biết vụ giết người. Hoặc có thể là một bức thông điệp gửi cho ai đó. Con chưa biết.
- Có thể là con có lý. Nhưng chữ ký đó, - cha German nói thêm như thể suy xét với giọng to hơn, - chỉ có ý nghĩa nếu tội phạm đã thực thi giết người trước đó hoặc suy tính trở lại hành sự. Còn trường hợp này thì không biết có đúng như thế hay không? - Ông bất ngờ hỏi lại với giọng câu nệ.
Rojas không còn cách gì hơn là phải thừa nhận vị cha cố đã bắt được lỗi của anh. Thực tế, chính anh đã khai ra mà không hay biết. Như vậy, anh không còn cách nào hơn là phải thú nhận nếu như muốn có được sự giúp đỡ của ông.
- Không chỉ riêng cái chết của cha Tomas, - Rojas bắt đầu nói, - mà cũng như thế với cái chết của Thái tử Juan và cô gái nhà chứa, người thi hành trực tiếp hoặc là kẻ đồng loã cần thiết cho vụ án thứ hai.
- Chúa ơi! Tại sao con không nói điều ấy với ta trước?
- Con xin lỗi, - Rojas nhận sai lầm - Con đã hứa với Giám mục là không nói điều này với ai. Về mặt chính thức, Thái tử chết do bị bệnh. Còn đối với cô gái, cô ta chết cách đây vài ba ngày; chính xác đúng vào ngày mà tờ giấy bí hiểm này đến tay con. Tờ giấy được cất giấu trong cái rương đựng quần áo của cô ta ở nhà chứa. Con thực lòng xin lỗi cha…
- Được rồi, được rồi. Giờ chúng ta không nhắc cái đó nữa. Ta hiểu là cả ba nạn nhân đều mang dấu vết ấy có phải không?
- Trong trường hợp của Thái tử, kẻ đầu độc là cô gái tội nghiệp ấy, có thể do bị gã sinh viên kia ép buộc. Nhưng Thái tử vài ngày sau mới chết ở dinh thự của Giám mục. Sau khi an táng, kẻ đó đã bật hầm mộ để đặt đồng tiền và đánh dấu ở mặt, chính bản thân con đã kiểm chứng. Còn đối với cô gái, người ta tìm thấy cô ta bị chét chìm dưới đáy giếng vào một buổi sáng, bị đánh dấu như thế và đồng tiền cũng ở trong mồm, nhưng trong trường hợp này, nằm bên dưới lưỡi.
- Điều này khẳng định giả thiết của ta. - cha German tỏ ra hài lòng.
- Vết đánh dấu ở mặt có gọi cho cha điều gì không? - Rojas hỏi lại.
- Có thể đó là dấu ấn của Quỷ sứ.
- Dấu ấn của Quỷ sứ à?
- Theo như người ta kể, Quỷ thường đánh dấu bằng móng vuốt của mình trên thân thể nạn nhân, thường ở trên mặt. Có thể kẻ giết người muốn chúng ta hiểu rằng, với dấu vết ấy, chúng đã hành động nhân danh Ác quỷ hay chúng có thoả ước với Quỷ sứ.
- Thực sự cha có tin rằng có gì đó ma quỷ đằng sau tất cả những chuyện này không? - Rojas hoài nghi hỏi.
- Điều quan trọng không phải là chúng ta tin, mà là thủ phạm vụ án tin như thế.
- Hay là điều chúng muốn chúng ta tin như vậy.
- Có thể thế, - cha German nhượng bộ. - Thế con có tin vào Quỷ không?
- Không đâu, con không dễ tin như vậy. Con cảm thấy nó không nằm ngoài tật xấu có ở tất cả chúng ta, nhưng chúng ta lại thích nhìn nó bằng một hình hài.
- Giờ con muốn nói với ta rằng chưa một lần nào con bị Quỷ cám dỗ có phải không?
- Giờ khi cha nói điều ấy, con lại nhớ một lần cha khuyên con trở thành thầy tu dòng Thánh Domingo, - Rojas bông đùa, - nhưng con đã thắng sự cám dỗ đó, cha đừng có vội nhé.
- Một ngày nào đó Quỷ dữ thực sự sẽ xuất hiện đối với con, - cha German nhắc nhở với dấu hiệu nghiêm khắc, - mà con không nhận ra nó, lúc ấy ta mới là người cười đấy.
- Quỷ chẳng qua là một hình tượng ví von hay là hiện thân của cái ác.
- Nhưng con biết rõ học thuyết của Nhà thờ về vấn đề này.
- Tuy nhiên, cha nên nhớ rằng sự tồn tại của Quỷ chưa được đề cập như một niềm tin giáo lý của Nhà thờ cho đến Hội nghị Giáo hội Letran lần thứ tư, vào khoảng năm 1215, cách đây gần ba trăm năm.
- Làm sao mà ta quên được khi chính hội nghị đó đã khẳng định quy chế của dòng thánh chúng ta. Con cũng biết người sáng lập của chúng ta có mặt trong hội nghị ấy.
- Và cả Thánh Domingo de Guzman. - Rojas đáp.
- Đúng vậy, ở đấy họ quen nhau; tuy nhiên không thể làm bạn tốt của nhau, như con có thể hình dung thấy được. Theo như người ta kể, ông này mạnh bạo đề nghị với Thánh Francisco sáp nhập hai giáo phái làm một, nhưng Francisco cho rằng đối với Nhà thờ, tốt hơn là cần duy trì hai phái. Từ lúc ấy, sự thù địch và bất hoà nảy sinh giữa chúng ta. Mặt khác, không một ai lại không biết rằng Thánh Domingo de Guzman là một trong những người có trọng trách lập ra Toà án Giáo hoàng ở một số vương quốc. Từ đấy về sau, những người thuộc dòng Thánh Domingo triển khai những khía cạnh thực tế của toà án.
- Con xin nhắc cha rằng những người thuộc dòng Thánh Francisco cũng có cái phải nhìn nhận trong đó.
- Nhưng cái đó mãi về sau, - cha German chỉnh lại - và với ý đồ duy nhất là chống lại sự thô bạo và tàn ác của những kẻ thuộc giáo phái Domingo.
- Trở lại với vấn đề Quỷ sứ…
- Ta thấy điều ấy vẫn đeo đuổi con, ông đáp với giọng châm biếm. Con có định thảo luận về điều mà người ta khẳng định bởi những chữ viết trên đó không?
- Nhưng ở đó không nói cho chúng ta về tính chất và điều kiện gì cả.
- Đấy là điều xấu của những người đọc Kinh thánh bằng cách riêng nguy hiểm của mình và không có sự chuẩn bị chu đáo. Họ không bao giờ vươn tới ý nghĩa đích thực của từ ngữ và chỉ tìm những gì mà họ muốn thấy.
- Dù thế nào chăng nữa, cha đã thống nhất với con là đôi khi nên quay trở lại với văn bản gốc.
- Không, chỉ khi nào điều người ta đề cập là một số giáo lý cơ bản của lòng tin.
- Giờ đây cha đang nói, - Rojas cảnh báo, - y như một trong những thầy tu của dòng Domingo, giáo phái mà cha ghét cay ghét đắng. Chỉ còn thiếu là cha yêu cầu phải đưa lên giàn thiêu đối với những kẻ không suy nghĩ giống như cha.
- Điều ấy thì con nhầm rồi, thầy tu dòng Thánh Francisco bào chữa. Điều chỉnh không phải là trừng phạt.
- Bất đồng cũng không có nghĩa là phạm phải tà giáo hay bỏ đạo! - Rojas lên án mạnh mẽ.
- Ta đã quên, - cha German thừa nhận, - là con rất giỏi trong tranh luận pháp lý và Thần học. Không ai han được con. Nhưng trong trường hợp này, ta rất tiếc là con không đúng sự thật.
- Dù sao chăng nữa, điều giờ đây con quan tâm không phải là vấn đề Thần học, mà là tóm được kẻ sát nhân đã giết hại vài người và còn có thể tiếp tục hành sự nữa.
- Vậy chúng ta hãy xem xét có thể lập ra mối liên hệ giữa vết đánh dấu, đồng tiền và sơ đồ để phát hiện ra kẻ sát nhân mà theo con, chúng ta chỉ biết đó là một gã sinh viên hay không, về vết đánh dấu, ta vừa nhớ ra trong tiếng Hy Lạp có từ óbolo (như con biết, từ này xuất xứ từ từ óbolo trong tiếng Tây Ban Nha, thông qua từ obôlus của La tinh và ta vừa chỉ cho con nó giống từ abolus, trong tiếng Hy Lạp là apolo(5). Với từ này, trong thời Helena, người ta đặt tên cho một ký hiệu mà các nhà ngôn ngữ học thời Alexandria thường dùng trong các ghi chép cổ. Đó là từ obole tiếng La tinh là obelus, tiếng Tây Ban Nha là óbelo hay obelo. Ký hiệu ấy gồm một nét ngang ở lề trái của tờ giấy mà người ta dùng để chỉ một đường giả mạo hay đoạn thêm giả tạo trong các tác phẩm của Homero và sau đó là của các tác giả khác. Như vậy, một lần nữa, dường như tội phạm nói với chúng ta rằng nạn nhân là những kẻ giả dối hay thối nát và, do vậy, xứng đáng nhận một cái chết ô nhục nhất.
- Thế có cách gì làm cho tất cả những điều này khớp với sơ đồ không?
- Như con đã thấy, kẻ tội phạm dường như rất tường tận thế giới Hy Lạp và từ đấy chúng ta cần tìm ra sợi dây liên hệ. Ngay từ đầu, việc xuất hiện một chữ thập Hy Lạp thay vì chữ thập La tinh trên tờ giấy là có ý nghĩa, mặc dù việc này có thể là ngẫu nhiên và chẳng nói lên điều gì cả. Dĩ nhiên, điều dường như không còn nghi ngờ là hai dấu vết để lại trên thi thể nạn nhân đưa ra bài học hoặc ý nghĩa kép vì có thể hiểu chúng qua ký hiệu Hy Lạp, cũng như ký hiệu Thiên Chúa giáo. Như vết đánh dấu trên mặt có thể là chữ ký của Alexandria để chỉ sự giả dối của một văn bản hay là vết đánh dấu nổi tiếng của Quỷ sứ. Trong khi đó, đồng tiền trong miệng nạn nhân có thể hiểu như một dịch vụ trả cho Charon hay một sự xúc phạm đối với Chúa Jesus hoặc cả hai cùng một lúc. Ta biết điều này đối với con như đánh đố, nhưng theo tất cả các dấu hiệu cho thấy, sơ đồ đề cập đến một nơi trong thành phố có liên quan đến thế giới Hy Lạp hay thế giới không tín ngưỡng và đồng thời cũng liên quan đến đạo Thiên Chúa và, cụ thể hơn, đến Quỷ sứ.
- Thế cha có nghĩ đến một địa danh nào đó trong đầu không? - Rojas hỏi, cố che giấu sự sốt ruột.
- Từ một lúc lâu rồi, có một địa danh cứ luẩn quẩn trong óc ta.
- Liệu con có thể biết đó là nơi nào không?
- Ta xin lỗi vì đã hứa với tội phạm là sẽ không kể với ai. - ông nói vờ như giận dữ.
- Con biết cha chẳng vừa ý chút nào việc con muốn duy trì lời hứa giữ bí mật.
- Nhưng con còn chờ đợi gì nữa? Con đến đây gặp ta sau khi chúng ta không gặp nhau, ta không biết đã bao lâu rồi, để yêu cầu ta giúp giải quyết điều bí ẩn và sau đó ta biết là con đã giấu ta điều quan trọng nhất. Thế mà con lại muốn ta vui được sao?
- Con đã xin lỗi cha rồi và cuối cùng con đã kể tất cả với cha. Con có thể làm gì hơn nữa? Con nghĩ lài. Con không thể đoán được điều Cha bề trên đã nói với ta đâu. “Ngươi rất may mắn vì ta không tố cáo với Toà Công giáo rằng ngươi có quan hệ với Quỷ sứ”. Con hiểu không?
- Cuối cùng, điều chúng ta lo ngại nhất đã xảy ra, - Rojas lên tiếng - Những người anh em của cha bị ám ảnh đến mức họ phải đốt tất cả những gì mà họ không thích vì khi nhìn thấy khói thuốc bay ra, họ luôn nghĩ đến Quỷ sứ. Về các hạt giống, cha đừng lo, chúng ta sẽ viết thư cho Columbus để ông ta gửi thêm cho cha.
- Con nói đến Columbus à? Ông ta cũng có nhiều rắc rối riêng. Ta được nghe giờ đây các vị Vua muốn cướp của ông ta một số quyền đã được thoả thuận trong Hiệp ước Santa Fe. Đối với Columbus, ông ấy đã cống hiến cả cuộc đời, tài năng và của cải vào dự án ấy đấy. Chúng ta đang sống trong thời điểm nghiệt ngã, Rojas thân mến, thời điểm không có sự khoan dung và luôn bị cướp giật.
- Thôi mà cha, nếu không họ sẽ tống chúng ta vào nhà tù mọt kiếp.
- Còn hơn là ở trong một tu viện mà người ta truy đuổi tất cả những gì mới mẻ. Nhưng con có lý, chúng ta không nên cho họ tuỳ ý muốn làm gì chúng ta thì làm một cách quá dễ dàng. Ở ngoài kia họ đang đồn rằng quyết toán cho chỉ phí ở Salamanca về việc đón tiếp, phục vụ, chữa bệnh, chôn cất tạm thời, ma chay, tang lễ và di chuyển linh cữu của Thái tử tới Avila, là rất lớn dài đến hàng trăm trang giấy. Theo như lời họ khẳng định với ta, chỉ riêng bằng tiền mua rìu và sáp nến, Hội đồng thành phố có thể nuôi sống hàng chục gia đình trong cả năm. Và người ta kể rằng để sản xuất nến, phải tập trung lượng sáp không những của thành phố mà còn của cả Medina del Campo, Arevalo, Avila, Segovia và Thánh Maria la Real de Nieva, tổng cộng khoảng sáu mươi arroba(4). Nếu đúng như vậy, vào lúc này, họ đã phải vét sạch tất cả các tổ ong trong vương quốc để lấy sáp. Và điều tệ hại nhất là ở Salamanca hầu như không còn nến để thắp sáng. Như vậy, có thể nói rằng cái chết của Thái tử đã để lại cho chúng ta bóng tối và không còn một đồng bạc kẽm. Nhưng, con đang nghe ta chứ?
- Con đang nghe, vâng, con đang nghe. - Rojas sốt ruột trả lời.
- Sao con chẳng nói gì cả…
- Thế cha muốn con nói gì nếu như cha đã nói tất cả rồi? Dù sao, xin cha thứ lỗi vì con có chút công chuyện. Chúa phù hộ cho cha.
- Con hãy đi cùng Chúa vì con cần tới Người hơn ta.
Chú thích

(1) Dịch từ tiếng La tinh: Quod natura non dat Salmantica non praestat.
(2) Từ năm 1479, Castilla và Aragon thống nhất thành Tây Ban Nha ngày nay.
(3) Dịch từ tiếng La tinh: puer senex.
(4) Đơn vị đo trọng lượng, tương đương 11,5 kg.