CHƯƠNG 12
39

    
ĩ nhiên không đời nào có chuyện tôi gặp Tiến sĩ Judith Bolton ở trụ sở Wyatt, ở đó tôi có thể sẽ bị bắt gặp lúc đến hoặc lúc về. Nhưng giờ tôi đang đi săn với loài thú lớn họ mèo, và tôi cần một buổi phụ đạo sâu. Wyatt nhất định bắt tôi làm thế, và tôi không phản đối.
  Vì vậy tôi gặp ả ở khách sạn Marriott vào thứ Bảy tiếp theo, trong một phòng chuyên dành cho họp công việc. Họ đã gửi thư điện tử thông báo cho tôi số phòng cần tới. Ả đã ở đó khi tôi đến, máy laptop cắm vào máy chiếu. Thật buồn cười, quý bà này vẫn làm tôi căng thẳng. Trên đường đi, tôi đã rẽ ngang làm lại tóc mất trăm đô, và tôi ăn mặc tươm tất thay cho mấy thứ lộn xộn thường mặc vào cuối tuần.
  Tôi đã quên mất ả trông dữ dội như thế nào - đôi mắt xanh lạnh như băng, mái tóc đồng đỏ, đôi môi mọng đỏ và móng tay bóng đỏ - và trông cũng vẫn cứng rắn. Tôi bắt tay ả thật chặt.
  “Anh đến vừa đúng giờ,” ả vừa cười vừa nói.
  Tôi nhún vai, hờ hững cười đáp trả để bảo tôi biết rồi, nhưng tôi không hẳn thấy thích thú lắm.
  “Anh trông khá đấy. Thành công dường như gật đầu với anh.”
  Chúng tôi ngồi ở chiếc bàn họp đẹp đẽ trông giống như thuộc về phòng ăn của nhà ai đó - nhà tôi, có lẽ thế - và ả hỏi tôi mọi chuyện như thế nào. Tôi kể hết với ả những chuyện tốt chuyện xấu, kể cả về Chad và Nora.
  “Anh sẽ có kẻ thù,” ả nói. “Cũng hợp tình thôi. Nhưng họ là mối đe dọa - anh đã bỏ lại mẩu thuốc lá âm ỉ trong đám cây, và nếu không dập chúng đi anh sẽ gặp phải cháy rừng.”
  “Tôi phải dập chúng đi như thế nào?”
  “Chúng ta sẽ nói về điều đó. Nhưng ngay lúc này tôi muốn anh tập trung vào Jock Goddard. Và nếu ngày hôm nay anh chỉ ghi nhớ được một điều duy nhất, tôi muốn anh nhớ điều này: ông ta trung thực đến bệnh hoạn.”
  Tôi không thể nhịn cười nổi. Điều này được cố vấn chính của Nick Wyatt nói ra, lão là một kẻ quanh co tới mức hẳn đi khám tuyến tiền liệt cũng cố mà gian lận.
  Mắt ả ánh lên vẻ bực bội, và ả rướn người về phía tôi. “Tôi không nói đùa. Ông ta chọn anh không phải chỉ vì ông ta thích tư duy hay ý tưởng của anh - mà dĩ nhiên chúng hoàn toàn chẳng phải ý tưởng của anh - mà vì ông ta thấy sự trung thực của anh dễ chịu. Anh nói ra suy nghĩ của mình, ông ta thích điều đó.”
  “Thế là ‘bệnh hoạn’?”
  “Trung thực gần như là chứng cuồng với ông ta. Anh càng thẳng thừng, càng tỏ ra ít tính toán, anh chơi sẽ càng hay.” Tôi thoáng tự hỏi liệu Judith có nhận thấy sự trớ trêu trong những gì mình đang làm không - tư vấn cho tôi làm thế nào để lừa Jock Goddard bằng cách giả vờ trung thực. Sự trung thực một trăm phần trăm nhân tạo, không có chút sợi tự nhiên nào. “Nếu ông ta bắt đầu phát hiện ra bất cứ điều gì gian giảo, lươn lẹo hay tính toán trong phong cách của anh - nếu Goddard nghĩ anh đang cố nịnh bợ hay chơi ông ta - ông ta sẽ hết hứng với anh rất nhanh. Và một khi mất đi sự tin tưởng đó, anh sẽ không bao giờ tìm lại được nữa.”
  “Hiểu rồi,” tôi sốt ruột nói. “Vậy từ giờ trở đi không lừa gã này nữa.”
  “Cưng ơi, cưng đang sống trên hành tinh nào vậy?” ả bật lại. “Dĩ nhiên chúng ta lừa lão già đó. Đấy là bài thứ hai trong nghệ thuật ‘xoay xở’, thôi nào. Anh sẽ làm rối tung đầu ông ta, nhưng anh phải vô cùng khéo léo khi làm điều đó. Không gì rõ rệt cả, không gì mà ông ta có thể đánh hơi ra. Cũng giống như chó có thể ngửi ra sự sợ hãi, Goddard có thể ngửi ra trò nhảm nhí. Vì vậy anh phải ra vẻ như là người trung thực tuyệt đối. Anh nói cho ông ta biết tin xấu mà người khác cố tìm cách bọc đường. Anh cho ông ta thấy một kế hoạch mà ông ta thích - rồi anh lại làm người chỉ ra khuyết điểm. Liêm chính là một món hàng khá hiếm trong thế giới của chúng ta - một khi anh biết làm giả nó, anh sẽ ở trên con tàu Kẹo Que đẹp đẽ.”
  “Đúng là nơi tôi muốn đến,” tôi lạnh nhạt nói.
  Ả không có thời gian nghe sự mỉa mai của tôi. “Người ta luôn nói rằng không ai thích kẻ nịnh bợ, nhưng sự thật thì phần lớn các lãnh đạo cao cấp yêu lũ nịnh bợ, thậm chí ngay cả khi họ biết lũ kia đang nịnh bợ. Điều đó khiến họ thấy mình đầy quyền lực, trấn an họ, củng cố cho bản ngã mỏng manh của họ. Jock Goddard lại khác, ông ta không cần điều đó. Tin tôi đi, ông ta vốn đã nghĩ rất tốt về bản thân rồi. ông ta không mù quáng trước nhu cầu hay những sự hão huyền, ông ta không phải là một Mussolini cần phải ở giữa những kẻ chỉ biết nói vâng.” Tôi muốn hỏi có thấy giống ai chúng ta cùng biết không. Cô ta tiếp tục, “Nhìn những người ông ta đem bao quanh mình xem, xán lạn, nhanh trí, có thể gay gắt và thẳng thắn.”
  Tôi gật đầu. “Theo như cô nói thì ông ta không thích tâng bốc.”
  “Không, tôi không nói thế. Ai cũng thích tâng bốc, nhưng nó phải khiến ông ta cảm thấy chân thật. Một câu chuyện nhỏ: Napoleon một lần đi săn trong rừng Bois de Boulonge với Talleyrand, người cực kỳ muốn gây ấn tượng với vị tướng vĩ đại. Khu rừng nhung nhúc đầy thỏ, và Napoleon rất vui khi giết được năm mươi con. Nhưng rồi sau này khi phát hiện ra đó không phải là thỏ hoang - mà là do Talleyrand đã cho một người hầu ra chợ mua mấy chục con và thả vào rừng - thế đấy, Napoleon nổi giận, ông không bao giờ còn tin Talleyrand nữa.”
  “Tôi sẽ nhớ điều đó nếu lần sau Goddard mời tôi đi săn thỏ.”
  “Điểm mấu chốt là,” ả gắt, “khi anh tâng bốc, hãy tâng bốc gián tiếp thôi.”
  “Chà, tôi không chạy với thỏ, Judith. Với sói thì đúng hơn.”
  “Anh nói đúng rồi đấy. Biết nhiều về sói không?”
  Tôi thở dài. “Cứ nói đi.”
  “Tất cả đều rõ ràng. Dĩ nhiên luôn luôn có con đực đầu đàn, nhưng cũng có điều thú vị cần nhớ là tôn ti luôn luôn bị thử thách. Nó rất bấp bênh. Đôi khi anh sẽ thấy con sói đực đầu đàn thả một miếng thịt tươi xuống mặt đất ngay trước mắt những con khác rồi đi xa ra vài bước và chỉ quan sát. Nó thẳng thừng thách thức những con khác thậm chí chỉ là ngửi miếng mồi.”
  “Và nếu chúng làm thế, chúng thành bữa lót dạ.”
  “Sai rồi. Con đực đầu đàn thường không phải làm gì nhiều hơn trừng mắt. Có lẽ làm chút điệu bộ. Vểnh đuôi và tai lên, gầm gừ, khiến nó trông to lớn và dữ tợn. Và nếu trận chiến có nổ ra, con đực đầu đàn sẽ tấn công phần khó bị thương tổn nhất trên cơ thể của con phạm lỗi. Nó không muốn làm thương tật nghiêm trọng một thành viên trong bầy của chính nó, và chắc chắn là không muốn giết ai. Anh thấy đấy, con sói đầu đàn cần những con khác. Sói là động vật nhỏ, và không con sói nào có thể đơn độc hạ nai sừng, hươu hay tuần lộc mà không có sự trợ giúp của bầy. Điểm mấu chốt là chúng luôn luôn thử thách.”
  “Có nghĩa là tôi sẽ luôn luôn bị thử thách.” Ờ, tôi không cần bằng cử nhân quản trị kinh doanh để làm cho Goddard. Tôi cần bằng thú y.
  Ả liếc xéo tôi. “Điểm mấu chốt, Adam, là thử thách luôn luôn kín đáo. Nhưng đồng thời, con dẫn đầu bầy sói muốn bầy mình mạnh. Vì thế thỉnh thoảng thể hiện sự hung hăng là chấp nhận được - chúng minh chứng cho khả năng chịu đựng, sức mạnh và sinh lực của cả bầy. Đây là tầm quan trọng của sự trung thực, của tính bộc trực có chiến lược. Khi anh tâng bốc, hãy kín đáo và gián tiếp, và chắc chắn rằng Goddard nghĩ ông ta luôn có thể tìm được sự thật không tô vẽ ở anh. Jock Goddard nhận ra điều mà nhiều Giám đốc Điều hành khác không nhận ra, rằng tính bộc trực ở những người phụ tá là tối quan trọng nếu ông ta muốn biết trong công ty mình đang diễn ra những gì. Vì nếu ông ta không nắm bắt được điều đang thực sự xảy ra, ông ta tiêu đời rồi. Và tôi sẽ nói cho anh một điều khác anh cần phải biết. Ở trong bất cứ mối quan hệ nam nam giữa người thầy và kẻ được bảo trợ nào cũng có yếu tố cha-con, nhưng tôi cho là nó thậm chí còn phù hợp hơn trong trường hợp này. Anh rất có khả năng khiến ông ta nhớ tới con trai của mình, Elijah.”
  Tôi nhớ là Goddard đã gọi nhầm tôi như thế vài lần. “Bằng tuổi tôi à?”
  “Hẳn đã là như thế. Cậu ta chết vài năm trước ở tuổi hai mươi mốt. Vài người nghĩ rằng từ sau bi kịch đó, Goddard không còn như trước nữa, rằng ông ta mềm tính đi nhiều, vấn đề là, anh cũng có thể sẽ lý tưởng hóa Goddard như một người cha mà anh có thể hy vọng mình đã có.” - Ả cười, không hiểu tại sao ả lại biết về bố tôi. - “Anh có thể gợi ông ta nhớ về đứa con trai mà ông ta ước mình vẫn còn. Anh nên nhận thức được điều này, vì nó là chuyện anh có thể sẽ sử dụng được. Và cũng là chuyện phải cẩn thận trông chừng - ông ta đôi khi c&oc lao động của họ cho tới khi họ biến thành lũ ngu xuẩn chảy dãi, bắt họ tới các công ty và viết báo cáo, và thu hàng trăm nghìn đô cho sự thông thái giả tạo của mình. Tài liệu này có nhãn BÍ MẬT CỦA TRION. Tôi đọc lướt nó thật nhanh, và tất cả những câu rập khuôn và từ thông dụng nhảy ngay ra phía trước - “tổ chức lại quản trị tri thức”, “lợi thế cạnh tranh”, “tối ưu hóa hoạt động”, “chi phí không hiệu quả”, “những điểm không kinh tế về quy mô”, “giảm thiểu những việc không-gia-tăng-giá-trị”, vân vân vân - và tôi biết tôi thậm chí không cần phải đọc để biết chuyện gì sẽ xảy ra.
  Cắt giảm nhân sự. Gặt đầu người trên cánh đồng đầy những lô làm việc.
  Hấp dẫn ghê, tôi nghĩ. Hoan nghênh đến với cuộc sống ở tầng cao.

44
Goddard đã ngồi sẵn ở bàn tròn trong văn phòng phía sau của mình với Paul Camilletti và một người khác khi Flo dẫn tôi vào. Người thứ ba vào khoảng nửa cuối ngũ tuần, hói chỉ còn một dải tóc bạc, mặc một bộ đồ vét, sơ mi, cà vạt xám đơn điệu không hợp thời trang moi ra từ hiệu quần áo nam trong khu mua sắm nào đó, tay phải đeo một cái nhẫn lớn đồ sộ. Tôi nhận ra ông ta: Jim Colvin, Giám đốc Điều hành của Trion.
  Căn phòng này cùng cỡ với văn phòng phía trước của Goddard, mỗi bề ba mét, và chỉ có bốn người ở đây mà cái bàn tròn rộng đã thấy chật chội. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không họp ở phòng hội nghị nào đó, một nơi lớn hơn đôi chút, phù hợp hơn cho những lãnh đạo quyền cao chức trọng này. Tôi chào, cười căng thẳng, ngồi vào ghế cạnh Goddard, đặt xuống văn bản của hãng Bain và tách cà phê in chữ Trion Flo đã đưa cho tôi. Tôi lấy ra tập giấy màu vàng và bút, sẵn sàng ghi chép. Goddard và Camilletti đều mặc mỗi sơ mi, không áo khoác, - và không áo cổ lọ đen. Goddard trông thậm chí còn già nua và mệt mỏi hơn lần trước tôi nhìn thấy ông ta. Ông đeo một cặp kính gọng đen ngoắc vào sợi dây qua cổ. Trải trên bàn là vài bản sao chép bài báo trên tờ Nhật báo phố Wall, một bài được đánh dấu bằng mực vàng và xanh.
  Camilletti cau có nhìn tôi khi tôi ngồi xuống. “Ai đây?” hắn hỏi. Không hẳn là “Rất mừng có anh cùng tham gia.”
  “Anh vẫn nhớ anh Cassidy đây chứ?”
  “Không.”
  “Từ buổi họp về Maestro? Chuyện về quân sự ấy?”
  “Trợ lý mới của anh,” hắn nói không nhiệt tình. “Phải rồi. Xin chào đến với trung tâm kiểm soát thiệt hại, Cassidy.”
  “Jim, đây là Adam Cassidy,” Goddard nói. “Adam, còn đây là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành của chúng ta.”
  Colvin gật đầu. “Chào Adam. Chúng tôi vừa mới nói về cái bài chết tiệt trên tờ Nhật báo này, và làm thế nào để giải quyết nó.”
  “Chà,” tôi nói vẻ từng trải, “chỉ là một bài báo thôi mà. Nó sẽ chóng qua trong vài ngày tới, chắc chắn vậy.”
  “Vớ vẩn,” Camilletti gắt, trừng mắt nhìn tôi với biểu cảm đáng sợ tới mức tôi nghĩ mình sẽ hóa đá. “Đây là tờ Nhật báo. Nó ở ngay trang đầu. Ai cũng đọc nó. Thành viên hội đồng, nhà đầu tư mang danh nghĩa tổ chức, các nhà phân tích, tất cả mọi người. Đây đúng là một vụ lật tàu chết tiệt.”
  “Không tốt chút nào,” tôi đồng ý. Tôi tự bảo mình từ giờ phải ngậm miệng lại.
  Goddard thở ra thành tiếng.
  “Điều rất không nên làm là xoay quá đà,” Colvin lên tiếng. “Chúng ta không muốn làm bốc lên tín hiệu khói hốt hoảng trong ngành.” Tôi thích từ “xoay quá đà”. Jim Colvin rõ ràng là dân chơi gôn.
  “Tôi muốn có bộ phận Quan hệ Nhà đầu tư ở đây ngay, cả Truyền thông Tập đoàn nữa, và thảo phản hồi, một lá thư cho biên tập viên,” Camilletti nói.
  “Quên tờ Nhật báo đi,” Goddard bảo. “Tôi nghĩ tôi sẽ đề nghị một bài phỏng vấn trực tiếp độc quyền với tờ Thời báo New York. Một cơ hội để đề cập những vấn đề quan ngại nổi cộm tới toàn ngành, tôi sẽ nói vậy. Họ sẽ cắn câu thôi.”
  “Thế nào cũng được,” Camilletti nói.
  “Dù thế nào chúng ta cũng đừng phản đối ầm ĩ quá. Chúng ta không muốn buộc tờ Nhật báo viết một bài tiếp theo, càng khuấy bùn đục thêm nữa.”
  “Tôi nghe cứ như là phóng viên tờ Nhật báo hẳn có nói chuyện với người ở trong nội bộ này,” tôi nói, quên mất là phải ngậm miệng lại. “Chúng ta có manh mối nào xem ai có thể đã để lộ thông tin không?”
  “Tôi có nhận được thư thoại từ tay phóng viên vài ngày trước, nhưng tôi đang ra nước ngoài,” Goddard nói. “Vì vậy tôi ‘không thể có ý kiến’.”
  “Tay này có thể đã gọi tôi - tôi không biết nữa, tôi có thể kiểm tra hộp thư thoại của mình - nhưng tôi chắc chắn không trả lời cuộc gọi của anh ta,” Camiletti nói.
  “Tôi không thể tưởng tượng nổi có ai ở Trion lại cố ý có phần trong chuyện này,” Goddard nói.
  “Một trong những đối thủ cạnh tranh của chúng ta,” Camilletti nói, “Wyatt, có thể lắm.”
  Không ai nhìn tôi. Tôi tự hỏi liệu hai người kia có biết tôi từ Wyatt đến không.
  Camilletti tiếp tục. “Có rất nhiều đoạn ở đây trích dẫn lời những đại lý phân phối của chúng ta - British Tel, Vodafone, DoCoMo - về việc điện thoại di động mới không bán chạy. Bụt chùa nhà không thiêng. Vậy làm thế nào mà một phóng viên với dòng ghi tên tác giả có địa chỉ ở New York lại biết mà gọi cho DoCoMo ở Nhật Bản? Hẳn Motorola, Wyatt hay Nokia đã chỉ điểm.”
  “Dù sao đi nữa,” Goddard nói, “đó cũng là chuyện đã qua rồi. Việc của tôi không phải là quản lý báo chí, mà là quản lý cái công ty đáng nguyền rủa. Và mẩu tin ngu xuẩn này nữa, dù có xuyên tạc và không đúng thế nào - chà, nó thì tệ được đến thế nào? Ngoại trừ dòng tít tử thần ra, trong này có bao nhiều điều mới mẻ chứ? Quý nào chúng ta cũng luôn đạt được đúng chỉ tiêu, không bao giờ trượt cả, có lẽ còn vượt qua một hai đồng gì đó. Chúng ta được phố Wall yêu quý. Rồi, tăng trưởng doanh thu hơi lẹt đẹt, nhưng trời ạ, cả ngành này đang lao đao! Tôi không thể không phát hiện ra một chút cái sự cười trên nỗi đau khổ của người khác trong mẩu tin này. Ngài Homer vĩ đại đã gật đầu.”
  “Homer?” Colvin hỏi lại, bối rối.
  “Nhưng tất cả mớ nhảm nhí này về việc chúng ta có thể phải đối diện với quý thất thu đầu tiên trong mười lăm năm,” Goddard nói, “hoàn toàn là bịa đặt...”
  Camilletti lắc đầu. “Không,” hắn nói khẽ. “Thậm chí còn tệ hơn nữa.”
  “Anh đang nói gì vậy?” Goddard hỏi. “Tôi vừa quay về từ hội nghị bán hàng của chúng ta ở Nhật, mọi chuyện đều tuyệt cú mèo!”
  “Đêm qua khi nhận được thư điện tử thông báo về bài viết này,” Camilletti nói, “tôi đã gửi thư tới Phó Chủ tịch Tài chính khu vực châu Âu và châu Á/Thái Bình Dương, bảo họ tôi muốn xem tất cả số liệu doanh thu cho tới tuần này, số liệu doanh thu bán hàng của quý này cho tới ngày hiện tại, phân ra theo khách hàng.”
  “Và?” Goddard thúc.
  “Covington ở Brussels vừa trả lời tôi cách đây một giờ, Brody ở Singapore vào nửa đêm, và các con số nhìn rất thảm hại. Con số bán hàng cho đại lý khá tốt, nhưng con số bán thực thì kinh khủng. Châu Á/Thái Bình Dương và châu Âu, Trung Đông, châu Phi, đó là sáu mươi phần trăm doanh thu của chúng ta, và chúng ta đang rơi khỏi vách núi. Jock, sự thật thì chúng ta sẽ không đạt chỉ tiêu quý này, thậm chí còn cách một khoảng rất lớn. Đây thực sự là một thảm họa.”
  Goddard liếc sang tôi. “Rõ ràng là anh đang nghe một số thông tin mật, không được công bố, Adam, hãy rõ ràng về chuyện đó, không một lời...”
  “Dĩ nhiên rồi.”
  “Chúng ta có,” Goddard lên tiếng, ngập ngừng rồi nói, “vì Chúa, chúng ta có AURORA...”
  “Phải vài quý nữa mới bắt đầu có doanh thu từ AURORA,” Camilletti nói. “Lúc này chúng ta phải xoay xở. Cho những hoạt động hiện tại. Và tôi phải nói với ông là khi những con số này được công bố, cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề,” Camilletti tiếp tục. Hắn nói nhỏ. “Doanh thu của chúng ta trong quý bốn sẽ dưới chỉ tiêu vào khoảng hai mươi lăm phần trăm. Chúng ta sẽ phải chịu gánh nặng lớn vì hàng tồn kho.”
  Camilletti ngừng lời, nhìn Goddard đầy hàm ý. “Tôi ước tính lỗ trước thuế vào khoảng gần nửa tỷ đô.”
  Goddard nhăn mặt. “Chúa ơi.”
  Camilletti tiếp tục. “Tôi được biết ngân hàng CS First Boston đã muốn hạ chúng ta từ ‘mua nhiều hơn bình thường’ xuống ‘mua ở mức thị trường’ rồi. Thế là chuyển từ ‘mua’ về ‘giữ’. Và đó còn là trước khi có chuyện này xảy ra.”
  “Ôi Chúa ơi,” Goddard nói, rên lên và lắc đầu. “Thật lố bịch khi chúng ta biết mình đang có thứ gì chờ ra lò.”
  “Vì vậy chúng ta cần phải nhìn vào cáKỳ lạ quá!”
  Đôi lúc chúng tôi im lặng ngượng nghịu khi tôi lái tới nhà hàng Thái cô ta yêu thích. Alana liếc lên nhìn đồng hồ tốc độ, rồi lại nhìn đường. “Anh nên cẩn thận ở khu này,” cô ta nói. “Đây là một cái bẫy tốc độ. Bọn cảnh sát chỉ đợi anh đi quá năm mươi dặm là sẽ dần anh nhừ tử ngay.”
  Tôi cười, gật đầu, rồi nhớ đoạn ngắn trong một phim cô ta yêu thích, Bồi thường gấp đôi, tôi vừa thuê xem ngay đêm trước. “Anh đi nhanh bao nhiêu, sĩ quan?” tôi nói bằng giọng thẳng thừng như trong phim đen, giống Fred MacMurray.
  Alana hiểu ngay. Thông minh lắm. Cô ta cười. “Em sẽ nói là khoảng chín mươi.” Cô ta bắt chước giọng mồi chài của Barbara Stanwyck một cách hoàn hảo.
  “Cứ cho là em xuống xe máy và cho anh vé phạt.”
  “Cứ cho là em thả anh đi lần này với một lời cảnh cáo,” Alana trả miếng, nhập trò chơi, mắt sáng lên tinh nghịch.
  Tôi chỉ nao núng vài giây rồi lại nhớ ra câu tiếp theo. “Cứ cho là nó không thành công.”
  “Cứ cho là em phải cho anh nếm một nắm tay.”
  Tôi cười. Cô ta khá lắm, và rất nhập vai. “Cứ cho là anh bật khóc và ngả đầu vào vai em.”
  “Cứ cho là anh thử ngả vào vai chồng em.”
  “Thế là quá đủ,” tôi nói. Hết cảnh. Cắt, in, xong một cảnh quay.
  Alana cười vui vẻ. “Sao anh biết nó?”
  “Lãng phí quá nhiều thời gian xem các phim đen trắng cũ.”
  “Em cũng thế! Và Bồi thường gấp đôi có lẽ là phim em thích nhất.”
  “Với anh thì ngoài nó ra còn có cả Đại lộ hoàng hôn.” Lại một bộ phim cô ta thích nhất.
  “Chuẩn quá! ‘Tôi vẫn lớn. Chỉ có màn ảnh là nhỏ đi.’ ”
  Tôi muốn dừng lại khi vẫn còn dẫn trước, bởi tôi đã gần kiệt quệ kho chuyện vặt vãnh ghi nhớ từ phim đen. Tôi chuyển chủ đề sang quần vợt, an toàn hơn. Tôi đỗ lại trước cửa nhà hàng, và mắt cô ta lại sáng lên. “Anh biết nơi này à? Chỗ tốt nhất đấy.”
  “Về đồ ăn Thái, đây là chỗ duy nhất, ít nhất là theo như anh biết.” Một người phục vụ đưa xe đi đỗ - tôi không tin nổi tôi đang đưa chìa khóa chiếc Porsche mới tinh cho một thằng nhóc mười tám tuổi, một đứa dám lấy nó đi dạo quanh khi nhà hàng rỗi việc lắm - và thế là Alana sẽ không bao giờ thấy miếng dán của Trion nữa.
  Cuộc hẹn hò tốt đẹp được một thời gian. Chuyện về phim Bồi thường gấp đôi dường như đã khiến Alana thư giãn, làm cô ta cảm thấy mình như đang ở cùng một người đồng cảm. Hơn nữa một gã đàn ông thích Ani DiFranco, cô ta còn đòi hỏi gì hơn được chứ? Có lẽ một chút sâu sắc - phụ nữ luôn tỏ ra thích sự sâu sắc của đàn ông, hay ít nhất là thỉnh thoảng có khoảnh khắc tự ngẫm về mình, nhưng tôi đã đủ chuyện đó rồi.
  Chúng tôi gọi xa lát đu đủ xanh và gỏi cuốn cho người ăn chay. Tôi đã định nói rằng tôi cũng là một người ăn chay như cô ta, nhưng rồi tôi quyết định thế sẽ là quá đà, hơn nữa tôi không biết liệu mình có thể chịu được trò bịp đó quá một bữa ăn không. Vì vậy tôi gọi ca ri gà Masaman và cô ta gọi ca ri chay không có sữa dừa - tôi nhớ đã đọc rằng cô ta bị dị ứng tôm - và chúng tôi đều uống bia Thái.
  Chúng tôi chuyện trò từ quần vợt sang Câu lạc bộ Tennis và Quần vợt sân tường, nhưng tôi nhanh chóng lái cả hai ra khỏi bãi cát ngầm nguy hiểm đó, nó hẳn sẽ làm phát sinh câu hỏi vì sao và làm thế nào tôi lại ở đó ngày hôm ấy, rồi đổi đề tài sang gôn và các kỳ nghỉ hè. Alana dùng từ “hè” như một động từ. Cô ta nhanh chóng nhận ra chúng tôi có gốc gác khác biệt, nhưng như thế cũng được. Cô ta sẽ không lấy tôi hay giới thiệu tôi với bố mình, và tôi không muốn phải giả tạo cả gia cảnh nữa, như thế quá nhọc công. Và thêm vào đó, nó có vẻ không cần thiết - đằng nào cô ta dường như cũng đã ưng tôi lắm rồi. Tôi kể với Alana vài chuyện về khi làm việc ở câu lạc bộ quần vợt và làm ca đêm ở trạm xăng. Thực ra cô ta hẳn phải cảm thấy có phần không thoải mái vì sự nuôi dạy đầy đặc quyền mình được hưởng, bởi cô ta có mấy lời nói dối vô hại về việc bố mẹ buộc mình bỏ ra ít thời gian trong hè làm việc vặt vãnh “ở công ty nơi bố em làm việc”, quên không kể rằng bố cô ta là Giám đốc Điều hành. Mà tôi cũng biết là Alana chẳng bao giờ làm việc ở công ty của bố mình cả. Những mùa hè của cô ta là ở nông trại du lịch miền Tây ở Wyoming, đi săn ở Tanzania, ở với vài cô nàng khác trong căn hộ được bố trả tiền ở quận 6 Paris, thực tập nội trú tại bảo tàng Peggy Guggenheim ở Kênh Lớn Venice. Cô ta không bơm xăng.
  Khi Alana nhắc tới công ty nơi bố mình “làm việc,” tôi chuẩn bị tinh thần đón nhận chủ đề không tránh khỏi về anh-làm-gì, anh-làm-ở-đâu. Nhưng nó không xảy ra, cho đến mãi một lúc lâu sau. Tôi thấy ngạc nhiên khi cô ta đề cập tới nó một cách lạ lùng, gần như là biến nó thành trò chơi. Alana thở dài. “Chà, em đoán giờ chúng ta phải nói về công việc, đúng không?”
  “À...”
  “Như thế để chúng ta có thể miên man bất tận về những gì chúng ta làm ban ngày, đúng không? Em trong ngành công nghệ cao, rồi đấy. Còn anh - đợi đã, em biết rồi, đừng nói với em là thế nhé.”
  Bụng tôi thắt lại.
  “Anh là nông dân nuôi gà.”
  Tôi bật cười. “Sao em đoán được?”
  “Phải rồi. Một nông dân nuôi gà lái xe Porsche và mặc đồ hiệu Fendi.”
  “Thực ra là Zegna.”
  “Cái gì cũng được. Em xin lỗi, anh là đàn ông, vậy công việc có lẽ là chủ đề duy nhất anh muốn nói.”
  “Thực ra là không.” Tôi uốn giọng mình thành vẻ chân thật rụt rè. “Anh thực sự thích sống trong khoảnh khắc hiện tại, biết tỉnh thức hết sức có thể. Em biết không, có một nhà sư người Việt Nam sống ở Pháp, tên là Thích Nhất Hạnh, ông ta nói...”
  “Ôi Chúa ơi,” Alana lên tiếng. “Thật là kỳ lạ! Em không tin được anh lại biết Thích Nhất Hạnh.”
  Tôi chưa thực sự đọc bất cứ cái gì nhà sư này viết, nhưng sau khi thấy cô ta đặt mua bao nhiêu sách của ông từ Amazon, tôi đã tìm hiểu ông trên một vài website về Phật giáo.
  “Chắc chắn rồi,” tôi nói cứ như thể ai cũng đã từng đọc đầy đủ các tác phẩm của Thích Nhất Hạnh. “Điều thần kỳ không phải là đi được trên mặt nước, điều thần kỳ là được đi trên mặt đất xanh tươi.” Tôi chắc chắn mình đã nói đúng câu đó, nhưng ngay lúc ấy điện thoại di động rung lên trong túi áo vét. “Xin lỗi,” tôi nói, lấy nó ra và liếc nhìn mã người gọi.
  “Một giây nhanh thôi,” tôi xin lỗi và trả lời điện thoại.
  “Adam,” Giọng trầm của Antwoine vang lên. “Cậu tốt nhất nên đến đây đi. Là chuyện bố cậu.”

41
Chúng tôi chưa ăn được một nửa bữa tối. Tôi lái xe đưa Alana về nhà, xin lỗi rối rít suốt cả đường đi. Cô ấy thông cảm đến mức không thể hơn được nữa. Thậm chí còn đề nghị tới bệnh viện với tôi, nhưng tôi không thể cho bố thấy cô ấy, không sớm như thế: sẽ quá kinh khủng.
  Sau khi thả Alana xuống, tôi phóng chiếc Porsche đi tám mươi dặm một giờ và đến bệnh viện trong mười lăm phút - thật may mắn, không bị cảnh sát tóm. Tôi lao tới phòng cấp cứu mà suy nghĩ biến đổi liên tục: cực kỳ cảnh giác, sợ hãi, hạn chế tầm nhìn. Tôi chỉ muốn tới chỗ bố và gặp ông trước khi ông mất. Mỗi một giây chết tiệt phải đợi ở bàn tiếp phòng cấp cứu, tôi lại đoán chắc rằng đó là giây bố tôi mất, và tôi không có cơ hội được nói lời vĩnh biệt. Tôi gần như gào tên ông lên với y tá sàng lọc ưu tiên thứ tự bệnh nhân, và rồi khi bà ta bảo nơi ông nằm, tôi chạy vội đi. Tôi nhớ đã nghĩ rằng nếu ông mất rồi thì bà sẽ phải nói thêm gì đó, vậy ông hẳn phải còn sống.
  Tôi nhìn thấy Antwoine đầu tiên, đứng ở bên ngoài cái rèm xanh. Mặt anh ta không biết vì sao mà trầy xước và rướm máu, và anh trông sợ hãi.
  “Sao rồi?” tôi gọi. “Ông ấy đâu?”
  Antwoine chỉ vào tấm rèm xanh, phía sau tôi nghe được giọng nói. “Đột nhiên ông ấy thở rất vất vả. Rồi mặt ông ấy tím tái lại, hơi xanh. Ngón tay xanh mét ra. Thế là tôi gọi cấp cứu.” Anh nghe như tự bào chữa.
  “Ông vẫn...?”
  “Phải, ông ấy vẫn sống. Trời ạ, với tư cách một ông già què quặt thì ông vẫn còn chống đỡ được tốt lắm.”
  “Ông làm anh như thế à?” tôi hỏi, chỉ khuôn mặt anh.
  Antwoine gật đầu, cười ngượng nghịu. “Ông từ chối vào xe cấp cứu. Ông bảo mình vẫn ổn. Tôi mất phải đến nửa giờ xoay xở với ông ấy khi mà lẽ ra phải cứ thế nhấc ông lên và ném vào xe. Tôi hy vọng tôi không chờ quá lâu mới gọi xe cấp cứu.”
  Một thanh niên dáng người nhỏ nhắn, da sẫm màu mặc áo y tá xanh bước lại chỗ tôi. “Anh là con của ông ấy à?”
  “Phải!” tôi nói.
  “Tôi là b&ai những kẻ lười biếng, những kẻ xuống dốc hay nhẩn nhơ chờ nghỉ hưu sớm. Cứ thẳng tay với bọn họ đi. Nhưng cắt giảm nhân sự ở quy mô này chỉ dẫn tới tình trạng vắng mặt không lý do chính đáng, nghỉ ốm, rồi người ta đứng quanh máy làm lạnh nước hỏi nhau về tin đồn mới nhất. Chứng tê liệt. Để tôi nói theo cách anh có thể hiểu được, Paul, thì đó gọi là giảm năng suất.”
  “Jock...” Colvin lên tiếng.
  “Tôi sẽ cho anh luật tám mươi - hai mươi,” Goddard nói. “Nếu chúng ta làm điều này, tám mươi phần trăm trong số những nhân viên còn ở lại sẽ không thể tập trung quá hai mươi phần trăm tâm lực vào công việc. Adam, anh thấy các dự đoán như thế nào?”
  “Ông Goddard.”
  “Tôi đã sa thải người cuối cùng gọi tôi như thế.”
  Tôi cười. “Jock. Xem nào, tôi sẽ không quanh co. Tôi không biết phần lớn các số liệu, và tôi sẽ không nói thiếu suy xét. Không phải về một điều quan trọng như thế này. Nhưng tôi biết về số liệu của Maestro, và tôi có thể nói thẳng với ông là nó lạc quan quá mức. Cho tới khi chúng ta chuyển hàng tới Lầu Năm Góc - cứ cho là chúng ta nhận được vụ đó - thì những con số này vẫn còn quá cao.”
  “Cũng có nghĩa là tình huống thậm chí còn tồi tệ hơn những gì mà các nhà tư vấn trăm-nghìn-đô của chúng ta nói.”
  “Phải, thưa giám đốc. Ít nhất nếu như những con số Maestro nói lên điều gì.”
  Ông gật đầu.
  Camilletti nói, “Jock, để tôi nói với ông theo khái niệm của con người. Bố tôi chỉ là một giáo viên khốn khổ, được chứ? Cho sáu đứa con đi học đại học bằng tiền lương của giáo viên, đừng hỏi tôi làm thế nào, nhưng ông ấy đã làm được. Giờ ông ấy và mẹ tôi đang sống bằng khoản tiết kiệm cả đời ít ỏi, phần lớn trong số đó đã đổ vào cổ phiếu của Trion, bởi tôi nói với ông ấy đây là một công ty rất tuyệt vời. Theo chuẩn mực của chúng ta thì số tiền đó không nhiều, nhưng ông ấy đã mất đi hai mươi sáu phần trăm tiền dự trữ, và ông ấy sắp mất đi còn nhiều hơn thế nhiều. Quên quỹ tài chính Fidelity và TIAACREF đi. Phần đông những cổ đông của chúng ta là những người như bố tôi, Tony Camilletti, và chúng ta phải nói gì với họ?”
  Bản năng mách bảo tôi rằng Camilletti đang dựng lên chuyện này, rằng trên thực tế thì ông bố chủ ngân hàng đầu tư của hắn sống trong một khu nhà có cổng gác ở Boca và rất hay chơi gôn, nhưng mắt Goddard dường như ngân ngấn.
  “Adam,” Goddard nói, “anh hiểu quan điểm của tôi chứ, phải không?”
  Trong một khoảnh khắc tôi cảm thấy như con nai cứng người lại dưới ánh đèn pha. Điều Goddard muốn nghe được từ tôi đã rõ ràng. Nhưng sau vài giây, tôi lắc đầu. “Theo tôi,” tôi chậm rãi nói, “tình hình có vẻ là nếu ông không làm thế bây giờ, một năm sau có thể ông sẽ phải cắt giảm thậm chí còn nhiều lao động hơn nữa. Vậy tôi phải nói là tôi đồng ý với ông... - à, với Paul.”
  Camilletti đưa tay ra vỗ vào vai tôi. Tôi hơi co người lại. Tôi không muốn tỏ ra như tôi đang lựa chọn bên chống lại sếp của mình. Không phải cách hay để bắt đầu một công việc mới.
  “Anh đề xuất những điều khoản như thế nào?” Goddard thở dài nói.
  Camilletti cười. “Bốn tuần trợ cấp mất việc.”
  “Dù họ có làm với chúng ta bao lâu chăng nữa? Không. Hai tuần trợ cấp mất việc cho mỗi năm làm với chúng ta, cộng với hai tuần phụ thêm cho mỗi năm sau mười năm.”
  “Như thế thật điên rồ, Jock! Trong vài trường hợp, chúng ta có thể sẽ trả một năm trợ cấp mất việc, có thể là hơn.”
  “Đấy không phải là bồi thường nữa,” Jim Colvin lẩm bẩm. “Đấy là phúc lợi.”
  Goddard nhún vai. “Hoặc chúng ta cắt giảm với những điều khoản đó, hoặc không cắt giảm gì hết.” ông ta nhìn tôi buồn rầu. “Adam, nếu anh có bao giờ ra ngoài ăn tối với Paul, đừng để anh ta chọn rượu.” Rồi ông quay lại Giám đốc Tài chính của mình. “Anh muốn đợt cắt giảm này có hiệu lực vào mùng một tháng Sáu đúng không?”
  Camilletti gật đầu thận trọng.
  “Đâu đó trong thâm tâm,” Goddard nói, “tôi lờ mờ nhớ là chúng ta đã ký một hợp đồng thôi việc có thời hạn một năm với bộ phận CableSign chúng ta mua được từ năm ngoái, nó sẽ hết hạn vào ba mươi mốt tháng Năm. Một ngày trước đó.”
  Camilletti nhún vai.
  “Chà, Paul, như vậy là gần một nghìn nhân viên sẽ có một tháng lương cộng thêm một tháng tiền trợ cấp cho mỗi năm làm việc - nếu chúng ta cho họ thôi việc một ngày trước đó. Một gói trợ cấp mất việc tươm tất. Một ngày này làm nên cả sự khác biệt với những người đó. Giờ họ sẽ chỉ nhận được vẻn vẹn hai tuần.”
  “Mùng một tháng Sáu là bắt đầu quý mới…”
  “Tôi sẽ không làm như vậy. Xin lỗi. Đặt vào ngày ba mươi tháng Năm đi. Và với những người đang bị thiệt vì cổ phiếu họ có quyền chọn mua đang mất giá, chúng ta sẽ cho họ mười hai tháng để giải quyết. Và tôi sẽ tự nguyện giảm lương - xuống còn một đô thôi. Anh thì sao, Paul?”
  Camilletti cười căng thẳng, “Ông có nhiều quyền chọn cổ phiếu hơn tôi.”
  “Chúng ta sẽ làm điều này một lần,” Goddard nói. “Làm một lần, và làm cho đúng. Tôi sẽ không cắt giảm hai lần đâu.”
  “Hiểu rồi,” Camilletti nói.
  “Được rồi,” Goddard thở dài. “Như tôi lúc nào cũng bảo các anh, đôi khi các anh phải vào xe, thực hiện chương trình. Nhưng đầu tiên tôi muốn công bố điều này cho toàn bộ đội ngũ quản lý, tập trung họ vào hội nghị càng đông càng tốt. Tôi cũng muốn gọi điện thoại cho các ngân hàng đầu tư của chúng ta. Nếu chuyện này được chấp thuận, như tôi sợ rằng sẽ như vậy, tôi sẽ thu một thông báo đăng trên web cho toàn công ty,” Goddard nói, “và chúng ta sẽ công bố nó vào ngày mai, sau khi đóng phiên giao dịch. Và thông báo với công chúng cùng lúc đó. Tôi không muốn một lời nào của chuyện này bị tiết lộ ra ngoài trước khi đó - nó sẽ gây mất tinh thần.”
  “Nếu ông thích, tôi sẽ thông báo,” Camilletti nói. “Như thế tay ông vẫn sạch sẽ.”
  Goddard trừng mắt nhìn Camilletti.
  “Tôi sẽ không đổ chuyện này cho anh. Tôi không làm thế. Đây là quyết định của tôi - tôi đã nhận công, nhận vinh quang, có mặt trên bìa tạp chí, và tôi cũng sẽ nhận cả lời trách móc. Cũng phải thôi.”
  “Tôi chỉ nói vậy vì ông đã tuyên bố quá nhiều điều trước đây. Ông sẽ hứng chịu mũi rìu...”
  Goddard nhún vai, nhưng trông khổ sở. “Giờ tôi đoán tất cả mọi người sẽ đều gọi tôi là Goddard Lưỡi Cưa hay gì đó.”
  “Tôi nghĩ ‘Jock Neutron’ nghe khá hơn.” Tôi nói, và lần đầu tiên Goddard thực sự đã mỉm cười.

45
Tôi rời văn phòng của Goddard vừa thấy nhẹ nhõm, vừa thấy nặng nề.
  Tôi đã qua được cuộc họp đầu tiên với ông ta, không tự biến mình thành trò hề. Nhưng tôi cũng biết được một bí mật lớn của công ty, một tin nội bộ xác thực sẽ làm thay đổi cuộc sống của nhiều người.
  Vấn đề là thế này: tôi đã quyết định rằng mình sẽ không chuyển thông tin này cho Wyatt và công ty của lão. Nó không nằm trong nhiệm vụ của tôi, không ở trong mô tả công việc. Nó chẳng có liên quan gì tới dự án bí mật cả. Cứ để bọn họ biết về vụ cắt giảm nhân sự của Trion khi tất cả những người khác biết.
  Khi tôi vừa lơ đãng bước ra khỏi thang máy trên tầng ba của Cánh A để ăn trưa muộn trong phòng ăn thì tôi thấy một khuôn mặt quen thuộc tới gần. Một gã thanh niên cao, gầy, gần ba mươi, tóc cắt xấu xí, gọi với lên, “Này, Adam!” khi bước vào thang máy.
  Thậm chí trong một tích tắc trước khi tôi có thể nhớ ra cái tên của khuôn mặt đó, bụng tôi đã thắt lại. Não sau bản năng đã nhận thấy nguy hiểm khi não trước còn chưa kịp nhận ra.
  Tôi gật đầu, tiếp tục đi. Mặt đỏ bừng.
  Tên hắn là Kevin Griffin, một anh chàng nhã nhặn, nếu không nói là trông ngốc nghếch, và là một tay bóng rổ khá được. Tôi thường chơi bóng rổ với hắn ở hãng Viễn thông Wyatt. Hắn là nhân viên bán hàng ở Bộ phận Kinh doanh, về thiết bị định tuyến. Tôi còn nhớ hắn rất sắc sảo, rất tham vọng đằng sau cách hành xử thoải mái đó. Hắn luôn làm vượt doanh số của mình, và hắn thường đùa với tôi, theo kiểu tử tế, về thái độ thiếu trách nhiệm của tôi trong công việc.
  Nói cách khác, hắn biết tôi thực sự là ai.
  “Adam!” hắn kiên trì. “Adam Cassidy! Này, ông làm gì ở đây thế?”
  Tôi không thể cứ tảng lờ hắn đi mãi, nên tôi quay lại. Hắn để một tay ở cánh cửa thang máy để giữ nó không đóng lại.
  “Ồ, chào Kevin,” tôi nói. “Ông giờ làm ở đây à?”
  “Phải, về kinh doanh.” Hắn trông rất vui sướng, như thể đây là một cuộc họp lớp trung học hay gì đó. Hắn hạ giọng. “Không phải bọn họ đá ông khỏi Wyatt vì bữa tiệc đó à?” Hắn phát ra âm thanh như l&ag thì đây là câu anh ta hay nói với tôi khi tôi về rất muộn, trông mệt lả.
  “Cũng vất vả, ông Cassidy,” anh ta cười nói rồi quay lại bản tin trên ti vi.
  Tôi lái xe đi qua vài khu tới quán Starbucks, nó chỉ vừa mở cửa, và mua một tách cà phê latte cỡ lớn, và trong khi đang đợi thằng nhóc muốn-hát-nhạc-grunge-Seattle nạn-nhân-bị-xỏ-khuyên-quá-nhiều đun nóng cả một lít sữa hai phần trăm, tôi cầm tờ Nhật báo phố Wall lên và bụng tôi thắt lại.
  Đấy, ngay ở trang đâu là một bài báo nói về Trion. Hay như họ viết, “Tai ương Trion”. Có một bức vẽ Goddard trông giống như tượng điêu khắc, với vẻ hoạt bát không phù hợp, cứ như thể hoàn toàn mê mụ hay ngấm thuốc. Một trong những dòng tít nhỏ nói “Có phải thời kỳ của nhà sáng lập Augustine Goddard sắp chấm dứt hay không?” Tôi phải đọc nó lại tới hai lần. Óc tôi không hoạt động ở hiệu suất cao nhất, và tôi cần tách cà phê latte cỡ lớn mà thằng nhóc mê nhạc grunge vẫn còn đang vật lộn. Bài báo là một bản tường thuật sắc sảo và mạnh mẽ do một nhà báo kỳ cựu của tờ Nhật báo là William Bulkeley viết, hắn rõ ràng phải có các mối quen biết tốt ở Trion. Ý chính của nó đại khái là giá cổ phiếu của Trion đang sụt giảm, sản phẩm đã cổ lỗ sĩ, công ty (“được rộng rãi cho rằng là nhà dẫn đầu trong lĩnh vực đồ điện tử tiêu dùng trên nền tảng truyền thông”) gặp rắc rối, và Jock Goddard, người sáng lập của Trion, dường như lại không còn liên hệ. Nhiệt huyết không còn đặt vào đó nữa. Có cả đoạn nhạc nền “truyền thống lâu đời” về những nhà sáng lập của các công ty công nghệ cao đã bị thay thế khi công ty của họ phát triển tới một tầm cỡ nào đó. Nó nêu câu hỏi rằng liệu có nhầm người không khi để ông lãnh đạo thời kỳ ổn định diễn ra sau thời kỳ bùng nổ tăng trưởng. Bài báo nhắc nhiều tới những chuyện về lòng bác ái của Goddard, những nỗ lực từ thiện, thú vui sưu tầm và phục chế xe ô tô Mỹ cổ, việc ông tái tạo lại hoàn toàn chiếc ô tô mui trần Buick Roadmaster sáng giá năm 1949. Goddard, theo như bài báo nói, đang tiến thẳng tới bờ thất thế.
  Hay thật, tôi nghĩ. Nếu Goddard thất thế, thử đoán xem ai sẽ thất thế cùng ông ta.
  Rồi tôi nhớ ra: Đợi chút nào, Goddard không phải ông chủ thực sự của tôi. Ông ta là mục tiêu, sếp thực sự của tôi là Nick Wyatt. Thật dễ quên mất lòng trung thành thực sự của tôi nên nằm ở đâu, với tất cả những chuyện như sự hào hứng của ngày đầu tiên.
  Cuối cùng thì cốc cà phê latte của tôi cũng xong, tôi khuấy vào vài gói đường Turbinado, uống một ngụm lớn khiến cổ họng bỏng rát, và ấn lên cái nắp nhựa. Tôi tìm bàn ngồi xuống để đọc nốt bài viết. Tay nhà báo có vẻ có nhiều thông tin về Goddard. Người ở Trion có nói chuyện với hắn. Mũi dùi chĩa vào ông ta rồi.
  Trên đường lái xe, tôi cố nghe đĩa CD của Ani DiFranco tôi mua tại Tháp như một phần trong cuộc nghiên cứu Alana, nhưng chỉ sau vài bài tôi đã phải bật đĩa ra. Tôi chịu không nổi. Một vài bài hoàn toàn chẳng phải là bài hát mà chỉ là những đoạn phát biểu. Nếu tôi thích thế, tôi đã nghe nhạc rap của Jay-Z hoặc Eminem rồi. Thôi, xin cảm ơn.
  Tôi nghĩ về bài trên tờ Nhật báo và cố gắng nặn óc ra một quan điểm phòng trường hợp có ai đó hỏi tôi về nó. Tôi có nên nói rằng đó là mớ rác một đối thủ cạnh tranh tung ra để ngầm phá hoại không? Tôi có nên bảo là tay nhà báo không hiểu thực chất vấn đề (dù cái thực chất đó có là gì đi nữa)? Hay tôi nên bảo hắn đã đưa ra một số câu hỏi hay cần phải giải quyết? Tôi quyết định theo bản chỉnh sửa của phương án cuối cùng này - rằng cho dù sự thật của luận điệu đó thế nào, điều quan trọng là các cổ đông của chúng ta nghĩ gì, và tất cả bọn họ hầu như đều đọc Nhật báo phố Wall, vì vậy chúng ta phải coi bài báo là vấn đề nghiêm chỉnh, dù có phải sự thật hay không.
  Và thầm trong lòng tôi tự hỏi kẻ địch của Goddard có phải là những kẻ đang gây chuyện không - liệu Jock Goddard có thật sự đang gặp rắc rối không, và phải chăng tôi đã lên một con tàu đang chìm. Hay đúng hơn, liệu có phải Nick Wyatt đã ném tôi lên một con tàu đang chìm. Tôi nghĩ: ông ta hẳn phải trong tình trạng tệ lắm - ông ta thuê tôi cơ mà, không phải sao?
  Tôi uống một ngụm cà phê, nhưng cái nắp không đóng chặt lắm, thế là chất lỏng nâu đục màu sữa ấm áp hắt lên lòng tôi. Trông như thể tôi vừa có “sự cố” vậy. Cách bắt đầu công việc mới thật hay làm sao. Đáng ra tôi nên coi nó là lời cảnh báo.