CHƯƠNG 19
63

    
oddard và Camilletti ngồi quanh một cái bàn tròn nhỏ cùng Giám đốc Điều hành Jim Colvin, còn một Jim nữa, Giám đốc Nhân sự Jim Sperling, và vài phụ nữ tôi không nhận ra. Sperling, một người da đen với râu cạo sát và kính gọng dây quá cỡ, đang nói về “đối tượng cơ hội”, tôi đoán ông ta muốn nói các nhân viên họ có thể cắt bỏ. Jim Sperling không mặc áo cổ lọ như Jock Goddard, nhưng cũng gần như thế - áo-khoác-thể-thao-và-áo-phông-cổ-bẻ-sẫm-màu. Chỉ có Jim Colvin mặc com lê cà vạt công sở truyền thống.
  Cậu trợ lý tóc vàng trẻ tuổi của Sperling dúi cho tôi vài tờ giấy liệt kê các phòng ban và những cá nhân khờ khạo tội nghiệp sẽ là ứng cử viên cho chiếc rìu. Tôi đọc lướt nhanh qua và thấy đội Maestro không ở trên đó. Rốt cuộc vẫn là tôi cứu được công việc cho họ.
  Rồi tôi để ý danh sách tên của bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, trong đó có Phil Bohjalian. Nhân viên có thâm niên này sẽ bị cắt giảm, cả Chad và Nora đều không ở trong danh sách, nhưng Phil đã bị nhắm vào. Vì Nora, hẳn là vậy. Mỗi giám đốc và phó giám đốc đã được yêu cầu xếp hạng cấp dưới của mình và cắt bỏ ít nhất một phần mười. Nora rõ ràng đã chọn xử tử Phil.
  Buổi họp gần gần giống một phiên đóng dấu. Sperling lên danh sách, làm “tình huống kinh doanh” cho những “vị trí” ông ta muốn loại bỏ, và ít có thảo luận. Goddard trông ủ rũ; Camilletti trông hăng hái, thậm chí hơi sôi nổi.
  Khi Sperling nhắc tới bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, Goddard quay sang tôi, im lặng chờ ý kiến của tôi. “Tôi có thể nói một chút được không?” tôi chen vào.
  “Ừm, dĩ nhiên,” Sperling nói.
  “Ở đây có một cái tên, Phil Bohjalian. Ông ta đã đi cùng công ty phải hai mươi, hai mươi mốt năm rồi.”
  “Ông ta cũng xếp hạng thấp nhất,” Camilletti nói. Tôi tự hỏi liệu Goddard đã nói gì với hắn về vụ rò rỉ tin cho tờ Nhật báo Phố Wall chưa. Tôi không thể đoán được từ thái độ của Camilletti, vì hắn xử sự với tôi cũng chẳng khó chịu nhiều hơn hay ít đi so với thường lệ. “Hơn nữa với thâm niên của ông ta ở công ty, phúc lợi cho ông ta tốn của chúng ta rất nhiều tiền.”
  “Chậc, tôi muốn hỏi về xếp hạng của ông ấy,” tôi nói. “Tôi biết cách làm việc của ông ấy, và tôi nghĩ điểm của ông ấy có lẽ nghiêng về lề lối quan hệ cá nhân hơn.”
  “Lề lối,” Camilletti nói.
  “Nora Sommers không thích tính cách của ông ấy.” Công nhận vậy, Phil không hẳn là bạn bè thân thiết với tôi, nhưng ông ta không thể gây hại gì cho tôi, và tôi thấy tệ cho ông ấy.
  “Chà, nếu đây chỉ là vấn đề xung đột về tính cách, đó là lạm dụng hệ thống xếp hạng,” Jim Sperling nói. “Anh muốn nói rằng Nora Sommers đang lạm dụng hệ thống?”
  Tôi thấy rõ chuyện có thể đi đến đâu. Tôi có thể giữ việc cho Phil Bohjalian, đồng thời vứt bỏ Nora. Thật cám dỗ nếu có thể cứ thế lên tiếng và cắt cổ Nora. Không ai trong phòng này đặc biệt quan tâm, dù về khía cạnh nào đi nữa. Tin sẽ xuống tới Tom Lundgren, hắn có lẽ sẽ không chống đối để giữ lại bà ta. Thực ra, nếu Goddard không dứt tôi ra khỏi nanh vuốt của Nora, chắc chắn trên danh sách sẽ là tên tôi chứ không phải Phil.
  Goddard sắc sảo nhìn tôi, Sperling cũng vậy. Những người khác quanh bàn đang ghi chép.
  “Không,” cuối cùng tôi nói. “Tôi không nghĩ chị ấy lạm dụng hệ thống. Đó chỉ là chuyện hợp nhau giữa hai người thôi. Tôi nghĩ cả hai đều làm được việc của mình.”
  “Rồi,” Sperling nói. “Chúng ta tiếp tục được chứ?”
  “Nghe này,” Camilletti nói: “Chúng ta đang cắt giảm bốn nghìn nhân sự. Chúng ta không thể xét kỹ từng người một được.”
  Tôi gật đầu. “Dĩ nhiên.”
  “Adam,” Goddard nói. “Giúp tôi một chuyện. Tôi cho Flo nghỉ sáng nay - anh không phiền đi lấy cho tôi, ừm, thiết bị cầm tay trong văn phòng chứ? Tôi để quên.” Mắt ông như lấp lánh. Ông muốn nói tới cuốn sổ ghi hẹn nhỏ màu đen của mình, và tôi đoán câu đùa là dành cho tôi.
  “Chắc chắn rồi,” tôi nói và nuốt mạnh. “Quay trở lại ngay.”
  Cửa văn phòng Goddard đóng nhưng không khóa. Cuốn sổ đen nhỏ đang nằm trên mặt bàn trống, ngăn nắp, cạnh máy tính.
  Tôi ngồi xuống ghế và nhìn quanh các vật dụng, những khung ảnh Margaret vợ ông, tóc bạc, trông như bà ngoại; một bức ảnh ngôi nhà ven hồ. Tôi để ý thấy không có ảnh con trai ông, Elijah: có lẽ quá đau đớn khi gợi nhớ lại.
  Tôi đang ở một mình trong văn phòng của Jock Goddard, và Flo nghỉ buổi sáng. Tôi có thể ở đây bao lâu mà không khiến Goddard nghi ngờ? Liệu có thời gian tìm cách vào máy tính của ông ta không? Nếu như Flo xuất hiện khi tôi đang làm thế thì sao...?
  Không. Mạo hiểm điên rồ. Đây là văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành, và có lẽ lúc nào cũng có người ra người vào. Và tôi không thể liều lĩnh mất hơn hai hay ba phút cho việc vặt này: Goddard sẽ tự hỏi tôi đang ở đâu. Có lẽ tôi đi vệ sinh trước khi lấy cho ông cuốn sổ: như thế hẳn giải thích được năm phút, không hơn.
  Nhưng có lẽ tôi sẽ không bao giờ có được cơ hội này nữa.
  Tôi vội vã giở cuốn sổ cũ ra và thấy các số điện thoại, ghi chép nguệch ngoạc trên các ô lịch... và trên trang bên trong bìa sau là dòng chữ hoa được viết cẩn thận, “GODDARD” và bên dưới nó là “62858”.
  Đó phải là mật khẩu của ông.
  Bên trên năm con số đó, bị gạch đi là “THANGSAU 2858.” Tôi nhìn hai dãy số và đoán nó đều là ngày tháng, và chúng đều là cùng một ngày: Ngày 28 tháng Sáu năm 1958. Rõ ràng một ngày quan trọng với Goddard. Tôi không biết ngày gì. Có lẽ là ngày cưới. Và cả hai cách viết rõ ràng đều là mật khẩu.
  Tôi vớ lấy một cái bút và một mẩu giấy chép lại mã và mật khẩu.
  Nhưng tại sao không sao chép cả cuốn sổ? Rất có thể có những thông tin quan trọng khác ở đây.
  Đóng cửa văn phòng Goddard lại sau lưng tôi, tôi tới máy sao chép sau bàn Flo.
  “Anh đang định giành việc của tôi à, Adam?” giọng Flo cất lên.
  Tôi quay lại và thấy Flo cầm một cái túi Saks Đại lộ số năm. Cô ta đang nhìn tôi dữ dằn.
  “Chào buổi sáng, Flo,” tôi nói một cách tự nhiên. “Không, đừng lo. Tôi chỉ lấy đồ cho Jock thôi.”
  “Thế là tốt. Bởi vì tôi đã ở đây lâu hơn, và tôi sẽ ghét phải chèn ép anh đấy.” Ánh mắt cô ta dịu đi, và một nụ cười ngọt ngào nở trên khuôn mặt.

64
Khi buổi họp kết thúc, Goddard lách tới chỗ tôi và quàng tay qua vai tôi. “Tôi thích điều anh làm trong đó,” ông nói nhỏ.
  “Nghĩa là sao?”
  Chúng tôi bước dọc hành lang tới văn phòng của ông. “Tôi muốn nói về sự kiềm chế của anh trong trường hợp Nora Sommers. Tôi biết anh cảm thấy thế nào về chị ta. Tôi biết chị ta thấy thế nào về anh. Với anh loại bỏ chị ta hẳn sẽ là điều dễ dàng nhất trên thế giới. Và thẳng thắn thì tôi sẽ không phản đối lắm đâu.”
  Tôi hơi thấy không thoải mái trước cảm tình của Goddard, nhưng tôi cười, cúi đầu. “Đó là điều đúng đắn phải làm,” tôi nói.
  “ ‘Ai có đủ quyền hành và cái ác - Mà chẳng bắt ai đau đớn một ngày’,” Goddard nói, “ ‘Người ấy đáng được Chúa trời ban phước.’ Shakespeare. Trong tiếng Anh hiện đại: Khi anh có quyền lực để giày xéo lên người khác và anh không làm thế - chà, đó là khi anh chứng tỏ được anh thực sự là ai.”
  “Tôi cho là vậy.”
  “Và người lớn tuổi hơn mà anh muốn giúp giữ việc là ai?”
  “Chỉ là một nhân viên làm tiếp thị.”
  “Bạn bè?”
  “Không. Tôi cũng không nghĩ ông ấy đặc biệt quý mến gì tôi. Tôi chỉ nghĩ ông ấy là một nhân viên trung thành.”
  “Tốt cho anh đấy.” Goddard siết mạnh vai tôi. ông dẫn tôi vào văn phòng, dừng lại một lúc trước bàn của Flo. “Chào cưng,” ông nói. “Tôi muốn xem váy để xác nhận cho chắc nào.”
  Flo tươi cười rạng rỡ, mở túi Saks, lấy ra một chiếc váy bé gái nhỏ bằng lụa trắng và tự hào giơ lên.
  “Tuyệt diệu,” ông nói. “Đúng là tuyệt diệu.”
  Rồi chúng tôi đi vào văn phòng và ông đóng cửa lại.
  “Tôi vẫn chưa nói một lời nào với Paul,” Goddard nói, ngồi xuống đằng sau bàn. “Và tôi cũng chưa quyết định liệu tôi có nói không. Anh vẫn chưa bảo ai khác, đúng không? Về chuyện tờ Nhật báo đó?”
  “Đúng vậy.”
  “Cứ để như thế đi. Nghe này, Paul và tôi có một vài quan điểm khác nhau, và có lẽ đây là cách cậu ấy đốt lửa dưới chân tôi. Có lẽ cậu ấy nghĩ mình đang giúp công ty. Tôi không biết nữa.” Một tiếng thở dài sườn sượt. “Nếu tôi thực sự nhắc tới chuyện này với cậu ấy - chà, tôi không muốn tin lan ra xung quanh. Tôi không muốn bất cứ điều khó chịu nào. Những ngày này chúng ta có chuyện quan trọng hơn nhiều nhiều lần.”
  “Được rồi.”
  Ông liếc xéo tôi. “Tôi chưa bao giờ tới nhà hàng Auberge, nhưng tôi nghe nói nó rất tuyệt. Anh nghĩ sao?”
  Bụng tôi ọc ạch. Mặt nóng bừng lên. Camilletti đã ở đó tối hôm qua, tồi tệ đến thế là cùng.
  “Tôi chỉ - thực ra tôi chỉ uống một ly rượu.”
  “Anh không bao giờ đoán nổi ai tối qua cũng ăn ở đó đâu,” Goddard nói. Biểu cảm của ông không thể đọc nổi. “Nicholas Wyatt.”
  Rõ ràng Camilletti đã hỏi dò xung quanh, cố phủ nhận rằng tôi đã ngồi với Wyatt sẽ là tự sát. “Ồ, chuyện đó,” tôi nói, cố tỏ ra chán chường. “Từ khi tôi nhận việc ở Trion, Wyatt đã theo tôi...”
  “Ồ, vậy à?” Goddard ngắt lời. “Vậy dĩ nhiên anh không còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận lời mời ăn tối với ông ta, hử?”
  “Không, giám đốc, không phải như vậy,” tôi nói, nuốt khan.
  “Anh thay đổi công việc không có nghĩa là anh từ bỏ bạn bè cũ, chắc vậy.”
  Tôi lắc đầu, nhíu mày. Mặt tôi cảm giác đang đỏ bừng lên y như mặt Nora. “Thực ra không phải chuyện bạn bè gì...”
  “Ồ, tôi biết chuyện như thế nào,” Goddard nói. “Người kia khiến anh thấy tội lỗi và phải gặp ông ta chỉ vì chuyện ngày xưa, còn anh không muốn thô lỗ, và rồi ông ta đề nghị mật ngọt chết ruồi...”
  “Ông biết tôi không có ý định...”
  “Dĩ nhiên là không, dĩ nhiên là không,” Goddard lẩm bẩm. “Anh không phải là loại người đó. Thôi tôi xin. Tôi biết nhìn người. Tôi thích nghĩ đó là một trong những điểm mạnh của mình.”
   
  Khi về văn phòng, tôi ngồi xuống bàn, run rẩy.
  Sự việc Camilletti báo cáo cho Goddard biết hắn thấy tôi ở Auberge cùng lúc với Wyatt có nghĩa là Camilletti ít nhất cũng nghi ngờ động cơ của tôi. Hắn hẳn phải nghĩ tối thiểu cũng là tôi để mặc ông chủ cũ nài nỉ, níu kéo mình. Nhưng hắn là Camilletti, hắn có lẽ có ý tưởng đen tối hơn thế nữa.
  Thật đúng là một tai họa chết tiệt. Tôi cũng tự hỏi liệu Goddard có thực sự nghĩ tất cả chuyện này là vô hại không. “Tôi biết nhìn người,” ông ta đã nói vậy. Ông ta ngờ nghệch đến thế sao? Tôi không biết phải nghĩ gì. Nhưng rõ ràng từ giờ trở đi tôi phải rất cẩn thận dè chừng.
  Tôi hít thở sâu, ấn mạnh đầu ngón tay lên đôi mắt nhắm. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì thôi.
  Vài phút sau, tôi tìm kiếm nhanh trên website của Trion và thấy tên người điều hành đơn vị sở hữu Trí tuệ trong bộ phận Pháp lý của Trion. Hắn tên là Bob Frankenheimer, bốn mươi tư tuổi, đã làm cho Trion được tám năm. Trước đó hắn là Tổng Cố vấn ở Oracle, và trước đó nữa làm ở Wilson, Sonsini, một công ty luật lớn ở Thung lũng Silicon. Nhìn ảnh, hắn béo phì quá mức, với tóc quăn đen, râu mọc lún phún, kính dày. Nhìn như một gã mọt sách hoàn hảo.
  Tôi gọi hắn từ bàn mình, vì tôi muốn hắn thấy mã gọi và biết tôi gọi từ văn phòng của Tổng Giám đốc. Hắn trả lời điện thoại, với giọng êm dịu đến ngạc nhiên, như giọng ca sĩ trên sóng đêm khuya của một đài rock nhẹ.
  “Anh Frankenheimer, tôi là Adam Cassidy tại văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành.”
  “Tôi giúp gì được anh?” hắn hỏi, nghe thực sự hợp tác.
  “Chúng tôi muốn xem lại tất cả bằng sáng chế của bộ phận số ba trăm hai mươi.”
  Đó là một nước đi táo bạo, và chắc chắn mạo hiểm. Nếu như hắn lại đề cập chuyện này với Goddard thì sao? Sẽ đại thể là vô phương giải thích.
  Một quãng lặng dài. “Dự án AURORA.”
  “Đúng vậy,” tôi nói tự nhiên. “Tôi biết lẽ ra chúng tôi cần phải có tất cả các bản sao hồ sơ ở đây, nhưng tôi vừa bỏ hai giờ đồng hồ qua tìm khắp mọi nơi, nhưng tôi không thể tìm được, làm Jock thực sự bực tức về chuyện này.” Tôi hạ giọng, “Tôi là người mới ở đây - tôi chỉ vừa mới bắt đầu - và tôi không muốn làm hỏng việc này.”
  Lại một khoảng lặng, giọng Frankenheimer đột nhiên trở nên lạnh hơn, ít hợp tác hơn, như thể tôi vừa bấm nhầm nút. “Tại sao anh lại gọi tôi?”
  Tôi không biết ý hắn là gì, nhưng rõ ràng tôi vừa dẫm chân vào. “Vì tôi đoán anh là người có thể giúp tôi giữ được việc,” tôi nói, hơi cười châm chọc.
  “Anh nghĩ tôi có các bản sao ở đây?” hắn sẵng giọng.
  “Chậc, vậy anh có biết các bản sao hồ sơ ở đâu không?”
  “Anh Cassidy, tôi có một đội gồm sáu luật sư hàng đầu về lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong này có thể xử lý hầu hết tất cả mọi chuyện. Nhưng hồ sơ của AURORA? Ồ, không. Chúng phải do các luật sư bên ngoài xử lý. Tại sao? Được vin vào cớ ‘an ninh tập đoàn’.” Giọng hắn cứ to dần lên, và hắn nghe thực sự phẫn nộ. “ ‘An ninh tập đoàn.’ Bởi vì có lẽ là những luật sư bên ngoài thực hiện được một loại an ninh tốt hơn người của chính Trion. Vậy tôi hỏi anh: Một thông điệp như thế nên hiểu như thế nào?” Hắn không còn nghe êm dịu nữa.
  “Thật không phải,” tôi nói. “Vậy ai xử lý các hồ sơ.”
  Frankenheimer thở hắt ra. Hắn chua chát, giận dữ, có thể làm ứng cử viên sáng giá cho bệnh đau tim. “Tôi ước mình giúp được anh. Nhưng rõ ràng người ta cũng không thể tin cậy trao cho chúng tôi thông tin đó. Các biểu trưng văn hóa của chúng ta nói gì chứ, ‘Truyền Thông Mở’? Tôi thích nó quá đi mất. Tôi nghĩ chắc mình phải in nó lên áo phông mặc trong Giải đấu Tập đoàn mất thôi.”
  Sau khi dập máy, tôi đi ngang qua văn phòng của Camilletti trên đường tới nhà vệ sinh nam, và rồi tôi lộn ngược lại.
  Ngồi trong văn phòng của Paul Camilletti với vẻ mặt nghiêm trọng, là anh bạn cũ của tôi.
  Chad Pierson.
  Tôi rảo bước nhanh hơn, không muốn bị ai trong hai người đó nhìn thấy qua tường kính văn phòng của Camilletti. Dù tại sao tôi không muốn bị thấy thì tôi chẳng rõ. Giờ tôi chạy theo bản năng.
  Chúa ơi, Chad mà biết Camilletti ư? Hắn chưa bao giờ nói hắn quen, và cứ xét thái độ nhún nhường và khiêm tốn của Chad, điều đó chính là loại chuyện mà hắn hẳn sẽ huênh hoang với tôi. Tôi không nghĩ ra được bất cứ lý do hợp lý - hay ít nhất là vô hại - nào giải thích được việc hai người đó có thể đang nói chuyện. Và chắc chắn không phải chuyện bạn bè: Camilletti sẽ không phí thời gian với hạng sâu bọ như Chad.
  Lý do hợp lý duy nhất là lý do tôi sợ nhất: Chad đã đem nghi ngờ về tôi thẳng lên cấp trên cao nhất, hay cao nhất mà hắn có thể với tới. Nhưng tại sao lại là Camilletti?
  Không nghi ngờ gì rằng Chad muốn làm hại tôi, và một khi hắn nghe được về người mới được tuyển từ Viễn thông Wyatt, hắn có lẽ đã lựa Kevin Griffin ra để tìm thông tin bôi nhọ tôi. Và hắn đã gặp may.
  Nhưng có thật hay không?
  Ý tôi là, Kevin Griffin thực sự biết được bao nhiêu về tôi? Hắn biết các tin đồn, chuyện ngồi lê đôi mách; hắn có thể bảo biết gì đó về quá khứ của tôi ở Wyatt. Nhưng đây là một kẻ mà thanh danh của chính mình còn phải xem xét. Dù bộ phận An ninh của Wyatt đã nói gì với Trion, rõ ràng người ở Trion tin điều đó - nếu không họ đã không đá hắn đi nhanh như thế.
  Vậy liệu Camilletti có thực sự tin vào những lời buộc tội gián tiếp từ một nguồn tin có vấn đề, rất có thể là một đống rác rưởi, như Kevin Griffin không?
  Mặt khác... giờ hắn đã thấy tôi đi ăn với Wyatt, trong một nhà hàng kín đáo, có lẽ hắn sẽ tin.
  Bụng tôi bắt đầu đau quặn. Tôi tự hỏi liệu mình có bị loét dạ dày không.
  Thậm chí nếu như đúng vậy, cũng sẽ chỉ là rắc rối nhỏ bé nhất mà thôi.

65
Ngày hôm sau, thứ Bảy, là bữa tiệc ngoài trời của Goddard. Tôi mất một tiếng rưỡi để đến ngôi nhà ven hồ của Goddard, phải đi qua nhiều đoạn đường làng hẹp. Trên đường đi, tôi gọi cho bố bằng điện thoại di động, một sai lầm. Tôi nói vài câu với Antwoine, rồi bố chen vào, hổn hển cáu gắt, vẫn con người lôi cuốn như mọi khi, và đòi tôi tới ngay lập tức.
  “Không thể đâu, bố ạ,” tôi nói. “Con có công chuyện cần phải làm.” Tôi không muốn nói mình phải tới bữa tiệc ngoài trời ở ngôi nhà nông thôn của Tổng Giám đốc Điều hành. Đầu tôi lướt qua tất các phản ứng mà ông có thể có và bị quá tải. Nào là bài diễn văn về các Tổng Giám đốc Điều hành thối nát, nào là bài diễn văn về Adam-thằng-liếm-gót-thảm-hại, rồi bài mày-không-biết-mày-là-ai, bài bọn-nhà-giàu-bắt-mày-nhớ-là-chúng-giàu-có, bài cái-gì-chứ- mày-không-muốn-bỏ-thời-gian-ở-với-thằng-bố-đang-chết-dần-của- mày-à...
  “Bố cần gì không?” tôi nói thêm, biết ông sẽ không bao giờ thừa nhận mình cần gì.
  “Tao không cần gì cả,” ông gắt gỏng. “Không cần nếu mày quá bận.”
  “Sáng mai con đến, được chứ?”
  Bố im lặng, cho tôi biết mình đã chọc giận ông, rồi để Antwoine nói chuyện, ông đã lại biến thành con người khó chịu thường lệ.
  Tôi chấm dứt cuộc gọi khi tới ngôi nhà. Nơi này được cắm biển gỗ đơn giản trên cọc, chỉ có chữ GODDARD và một con số. Rồi một con đường đất dài đầy vết xe qua đám cây cối rậm rạp, đột ngột mở rộng vào đường lái xe vòng tròn đầy vỏ sò vỡ. Một thằng nhóc mặc áo xanh đang tạm thời đóng vai trò người phục vụ. Tôi miễn cưỡng đưa cho nó chìa khóa chiếc Porsche.
  Ngôi nhà nằm trải dài, ấm cúng, ván lợp màu xám, trông giống như xây từ cuối thế kỷ mười chín gì đó. Nó tọa lạc trên một mũi đất nhìn ra hồ, với bốn ống khói đá lớn và cây thường xuân leo trên các tấm ván lợp. Mặt trước là bãi cỏ mênh mông, tỏa mùi như vừa được cắt, và đây đó là những cây sồi già khổng lồ và cây thông khẳng khiu.
  Hai ba mươi người đang đứng trên khắp bãi cỏ, mặc quần ngắn áo phông và trên tay cầm đồ uống. Một đám trẻ con chạy qua lại, la hét và ném bóng, chơi đùa. Một cô bé tóc vàng xinh xắn ngồi tại bàn phát thẻ trước hiên nhà. Cô bé cười, tìm thẻ tên và đưa cho tôi.
  Hoạt động chính có lẽ ở mặt bên kia nhà, bãi cỏ đằng sau thoai thoải xuống cầu tàu bằng gỗ trên mặt nước, ở đó mọi người đông đúc hơn. Tôi nhìn quanh tìm gương mặt quen thuộc, nhưng không thấy ai. Một người phụ nữ mập mạp khoảng sáu mươi mặc áo captan đỏ tía, da nhăn nheo và tóc bạc trắng, tiến đến chỗ tôi.
  “Anh lạc đường thì phải,” bà ta tử tế nói. Giọng bà trầm và khàn, và mặt cũng dãi dầu sương gió và gây ấn tượng mạnh như ngôi nhà.
  Tôi biết ngay lập tức bà hẳn phải là vợ của Goddard. Bà trông thô kệch y như được quảng cáo. Mordden nói đúng: bà thực sự trông giống như một chú chó nhăn.
  “Tôi là Margaret Goddard. Anh chắc là Adam.”
  Tôi chìa tay ra, hãnh diện không biết vì sao bà lại nhận được tôi, rồi nhớ ra tên mình nằm ở trước ngực áo. “Rất vui được gặp bà, bà Goddard,” tôi nói.
  Bà không chỉnh lại tôi, bảo tôi gọi mình là Margaret. “Jock kể với tôi khá nhiều về anh.” Bà bắt tay tôi rất lâu và gật đầu. Đôi mắt nâu nhỏ mở rộng. Bà trông kinh ngạc, trừ phi tôi tưởng tượng ra điều đó. Bà lại gần hơn. “Chồng tôi là một ông già lẩm cẩm hay hoài nghi, và không dễ gây được ấn tượng với ông ấy. Vậy nên anh hẳn phải giỏi lắm.”
  Một hành lang dưới mái hiên ôm lấy phía sau ngôi nhà. Tôi đi qua vài vỉ nướng Cajun lớn màu đen với hàng cuộn khói bốc lên từ than hồng. Vài cô gái mặc đồng phục trắng đang đứng trông đống bánh kẹp, thịt nướng và thịt gà cháy xèo xèo. Một quầy dài được đặt gần đó với khăn trải bàn vải lanh trắng, một số thanh niên ở độ tuổi học cao đẳng đang ở đó, rót đồ uống thập cẩm, nước ngọt và bia vào các cốc nhựa trong. Tại bàn khác, một người đang mở vỏ hàu và trải chúng ra trên lớp đá lạnh.
  Khi tiến đến mái hiên, tôi bắt đầu nhận ra mọi người, phần lớn họ là các lãnh đạo cấp khá cao ở Trion, đi cùng vợ con. Nancy Schwartz, phó giám đốc cao cấp của bộ phận Giải pháp Kinh doanh, một người phụ nữ nhỏ bé, tóc sẫm màu, dáng vẻ lo lắng, mặc áo phông Day Glo màu vàng của Trion được may trong Giải đấu Tập đoàn năm ngoái, đang chơi bóng vồ với Rick Durant, Giám đốc Tiếp thị, cao, mảnh khảnh, rám nắng với mái tóc sấy tạo kiểu, cả hai đều trông u sầu. Nhân viên hành chính của Goddard, Flo, mặc váy Hawaii bằng lụa, đầy hoa và rất ấn tượng, đang lượn quanh như thể chính mình là bà chủ nhà.
  Rồi tôi thấy Alana, cặp chân dài rám nắng nổi bật trên nền cái quần lửng trắng. Cô cũng thấy tôi đúng lúc đó, và mắt như sáng bừng lên. Cô có vẻ ngạc nhiên. Cô ngấm ngầm vẫy tay nhanh và cười với tôi rồi quay đi. Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì, nếu nó có nghĩa. Có lẽ cô muốn kín đáo về quan hệ giữa chúng tôi, chuyện đừng-mang-quan-hệ-cá- nhân-vào-công-ty cũ rích.
  Tôi đi qua sếp cũ của mình, Tom Lundgren, hắn mặc một chiếc áo sơ mi chơi gôn xấu xí với các dải xám và hồng tươi. Hắn đang vừa cầm một chai nước và căng thẳng xé lớp vỏ nhãn thành một dải dài hoàn hảo vừa cười gượng gạo nghe một người phụ nữ da đen hấp dẫn nói, có lẽ là Audrey Bethune, Phó Giám đốc và người đứng đầu đội Guru. Đứng hơi lùi về đằng sau là một người phụ nữ tôi cho là vợ của Lundgren, mặc đồ chơi gôn giống hệt, mặt cũng gần như đỏ ửng và bực bội hệt ông ta. Một cậu nhóc cao gầy đang nắm lấy khuỷu tay bà ta và léo nhéo nài nỉ gì đó.
  Cách đấy khoảng mươi mười lăm mét, Goddard đang cười phá lên giữa một đám người trông quen thuộc. Ông đang uống một chai bia và mặc áo sơ mi xanh mở khuy, ống tay áo cuộn lên, quần kaki gấp nếp phẳng lì, thắt lưng vải xanh hải quân với hình cá voi trên mặt, và giày da nâu cũ kỹ. Một vị nam tước miền quê vừa lập dị vừa kiểu cách điển hình. Một cô bé chạy ra chỗ ông, thế là ông cúi người rồi như ma thuật lấy ra một đồng xu từ sau tai nó. Nó kêu ré lên ngạc nhiên. Ông đưa cho cô bé đồng tiền và nó chạy đi, la hét vui sướng.
  Ông nói gì đó, và người nghe cười phá lên như thể ông là Jay Leno, Eddie Murphy và Rodney Dangerfield đồng thời nhập lại thành một. Paul Camilletti đứng ở bên cạnh, mặc quần jean phẳng phiu, bạc mầu và áo sơ mi trắng mở khuy, tay áo cũng xắn lên. Hắn chọn đúng bản ghi nhớ cách ăn mặc, dù tôi thì không - tôi mặc quần kaki ngắn và áo phông cổ bẻ.
  Đối diện hắn là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành, hai cẳng chân trắng nhợt lẻo khẻo như chim chích lộ ra phía dưới cái quần ngắn hiệu Bermuda màu xám giản dị. Đúng là một cuộc trình diễn thời trang thực thụ. Goddard ngước lên, bắt gặp ánh mắt tôi và ra hiệu bảo tôi tới.
  Khi tôi bắt đầu bước đến, một người tự dưng từ đâu xuất hiện và bắt lấy cánh tay tôi. Nora Sommers, mặc áo đan màu hồng với cổ đứng và quần kaki rộng cỡ, trông sướng rơn khi gặp tôi. “Adam!” Mụ kêu lên. “Tôi mừng thấy anh ở đây quá! Chỗ này không tuyệt sao?”
  Tôi gật đầu, cười lịch sự. “Con gái chị có đến không?”
  Trông mụ đột nhiên không thoải mái. “Megan đang trải qua một thời kỳ khó khăn, con bé tội nghiệp. Nó chẳng bao giờ muốn dành thời gian với tôi.” Thật buồn cười, tôi nghĩ, tôi cũng đang trải qua đúng thời kỳ như thế đấy. “Nó thích đi cưỡi ngựa với bố nó còn hơn lãng phí một buổi chiều với mẹ và hội bạn buồn chán ở chỗ làm của mẹ.”
  Tôi gật đầu. “Xin phép...”
  “Anh đã bao giờ có dịp thấy bộ sưu tập xe của Jock chưa? Nó ở trong nhà để xe đằng kia.” Mụ chỉ về một ngôi nhà trông giống như kho thóc cách khoảng trăm mét bên kia bãi cỏ. “Anh phải thấy những chiếc xe đó. Chúng thật lộng lẫy!”
  “Tôi sẽ xem, cảm ơn,” tôi nói, rồi bước một bước về phía nhóm của Goddard.
  Nora tóm chặt cánh tay tôi hơn. “Adam, tôi luôn muốn nói với anh, tôi rất vui trước thành công của anh. Nó thực sự nói lên rằng Jock sẵn lòng đánh cược vào anh, đúng không? Đặt niềm tin vào anh? Tôi thật mừng cho anh!” Tôi nồng nhiệt cảm ơn mụ và gỡ cánh tay tôi ra khỏi móng vuốt mụ.
  Tôi tới chỗ Goddard và lịch sự đứng sang một bên cho tới khi ông thấy tôi và vẫy tôi lại. Ông giới thiệu tôi với Stuart Lurie, người lãnh đạo bộ phận Giải pháp Doanh nghiệp, ông ta bảo, “Chuyện thế nào, anh bạn?” và siết thật chặt tay tôi. Ông ta trông khá điển trai, khoảng bốn mươi tuổi, đã sớm hói và cạo sát ở hai bên nên trông vừa kỹ tính vừa hay ho.
  “Adam là tương lai của Trion,” Goddard nói.
  “Chà, này, rất vui được gặp tương lai!” Lurie nói với một thoáng châm chọc. “Anh sẽ không rút đồng xu nào ra từ tai cậu ấy chứ, Jock?”
  “Không cần làm thế,” Jock nói. “Adam luôn lấy thỏ ra khỏi mũ, đúng không, Adam?” Goddard quàng tay qua vai tôi, một hành động lúng túng vì tôi cao hơn ông nhiều. “Đi với tôi,” ông khẽ khàng nói.
  Ông dẫn tôi đi tới hành lang dưới mái hiên. “Một chút nữa tôi sẽ thực hiện một nghi lễ truyền thống nho nhỏ,” Ông nói trong khi chúng tôi leo lên những bậc thang gỗ. Tôi giữ cửa che mở cho ông. “Tôi đem tặng những món quà nhỏ, những vật be bé ngốc nghếch - quà đùa giỡn thôi, thật đấy.” Tôi cười, tự hỏi tại sao ông lại kể cho tôi điều này.
  Chúng tôi đi qua hành lang dưới mái hiên, với đồ đạc cũ kỹ làm bằng liễu gai, vào tiền phòng, rồi vào phần chính của ngôi nhà. Sàn làm bằng gỗ thông bản rộng cũ, nó kêu cót két khi chúng tôi bước qua. Tường đều được sơn màu trắng sữa, và mọi thứ đều toát lên vẻ sáng sủa, vui vẻ và ấm cúng. Nó tỏa ra thứ mùi không thể miêu tả nổi của các ngôi nhà cũ. Tất cả đều thoải mái, gần gũi và sống động. Đây là ngôi nhà của một người giàu có không tự phụ, tôi nghĩ. Chúng tôi đi xuống một hành lang rộng, qua phòng khách có lò sưởi bằng đá lớn, rồi quành ở góc vào hành lang hẹp lát gạch. Cúp và đồ trưng bày xếp trên giá hai bên hành lang. Rồi chúng tôi vào một phòng sách nhỏ với bàn đọc dài ở chính giữa, trên đặt máy tính và máy in, cùng vài hộp các tông lớn. Đây rõ ràng là phòng làm việc của Goddard.
  “Bệnh viêm xương khớp cũ lại tái phát,” ông xin lỗi, chỉ những hộp các tông lớn trên bàn đọc, đầy quà đã được gói sẵn. “Anh là thanh niên lực lưỡng. Nếu anh không phiền mang những thứ này ra chỗ dãy ghế, gần quầy...”
  “Không phiền chút nào,” tôi nói, thất vọng nhưng không để lộ ra. Tôi nâng một cái hộp to tướng lên, nó không chỉ nặng mà còn kềnh càng, sức nặng không cân và cồng kềnh đến mức tôi gần như không thấy nổi đường phía trước khi bước đi.
  “Tôi sẽ dẫn anh ra khỏi đây,” Goddard nói. Tôi theo ông ta vào hành lang hẹp. Cái hộp cọ xát vào giá hai bên, và tôi phải quay nó hơi nghiêng lên trên để luồn kéo nó qua. Tôi cảm thấy cái hộp huých phải gì đó. Rồi một tiếng loảng xoảng lớn, tiếng kính vỡ.
  “Thôi chết,” tôi thốt lên.
  Tôi quay cái hộp để thấy được chuyện gì vừa xảy ra. Tôi trân trối nhìn: tôi hẳn đã gạt một cái cúp rơi khỏi giá. Giờ nó biến thành chục mảnh vỡ màu vàng rải rác trên sàn gạch. Đó là loại cúp trông như bằng vàng ròng nhưng thực ra là đồ gốm được mạ vàng gì đó.
  “Chúa ơi, tôi xin lỗi,” tôi nói, đặt cái hộp xuống và cúi mình nhặt các mảnh vỡ. Tôi đã rất thận trọng với cái hộp, thế mà không hiểu sao tôi lại va phải nó, tôi không biết sao lại thế nữa.
  Goddard quay đi chỗ khác, mặt trắng bệch. “Quên nó đi,” ông nói gượng gạo.
  Tôi cố nhặt hết những mảnh vỡ mình nhặt được. Nó là - nó từng là - bức tượng của một cầu thủ bóng bầu dục. Có một mảnh mũ, một mảnh nắm tay, một quả bóng nhỏ. Bệ bằng gỗ có tấm biển đồng ghi VÔ ĐỊCH NĂM 1995 - TRƯỜNG LAKEWOOD - ELIJAH GODDARD - VỊ TRÍ CHỦ CÔNG.
  Elijah Goddard, theo lời Judtih Bolton, là người con trai đã mất của Goddard.
  “Jock,” tôi nói. “Tôi rất xin lỗi.” Một mảnh lởm chởm khía vào tay tôi đau đớn.
  “Tôi nói quên chuyện đó đi,” Goddard nói, giọng cứng rắn. “Không sao đâu. Giờ thôi nào, ta đi thôi.”
  Tôi không biết phải làm gì, tôi thấy thật tệ vì đã phá hủy kỷ vật của cậu con trai đã mất. Tôi muốn dọn dẹp đống đổ vỡ, nhưng tôi cũng không muốn làm ông tức giận thêm. Quá nhiều chuyện cho tất cả mớ thiện ý tôi xây dựng được với người đàn ông già này. Vết rách trong lòng bàn tay tôi giờ ứa máu.
  “Bà Walsh sẽ dọn chỗ này,” ông nói, giọng có phần gay gắt. “Đi nào, hãy mang các món quà này ra.” Ông đi xuống hành lang và biến mất đâu đó. Trong lúc ấy, tôi nâng cái hộp lên mang nó đi, cực kỳ cẩn thận, qua hành lang hẹp ra khỏi ngôi nhà. Tôi để lại một dấu tay dính máu trên hộp các tông.
  Khi quay lại lấy hộp thứ hai, tôi thấy Goddard ngồi trên ghế trong góc phòng làm việc, ông ngồi khom vai, đầu chìm trong bóng tối, và ông cầm cái đế cúp gỗ bằng cả hai tay. Tôi do dự, không chắc mình nên làm gì, liệu tôi nên rời khỏi đây, bỏ ông lại một mình, hay tôi nên tiếp tục chuyển mấy cái hộp và giả bộ như không thấy ông.
  “Nó là một thằng nhóc dễ chịu,” Goddard đột nhiên lên tiếng, nhẹ giọng đến nỗi đầu tiên tôi cứ ngỡ mình tưởng tượng. Tôi dừng bước. Giọng ông trầm, khàn khàn và bé, không to hơn một tiếng thì thầm. “Một vận động viên thể thao, cao lớn, ngực vạm vỡ, cũng như anh. Và nó có... có tài mang lại hạnh phúc. Khi nó bước vào phòng, anh sẽ thấy tâm trạng khá hẳn lên. Nó khiến người ta cảm thấy tốt đẹp. Nó điển trai, và tử tế, và có - có ánh lấp lánh trong mắt nó.” Ông chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn xa xăm. “Thậm chí khi nó chỉ là một đứa bé, nó hầu như không bao giờ khóc hay nhặng xị lên hay...”
  Goddard dứt giọng, và tôi đứng đó giữa phòng, cứng người lại, chỉ lắng nghe. Tôi đã vo một cái khăn ăn vào trong bàn tay để thấm máu, và tôi cảm thấy nó bắt đầu ướt. “Anh hẳn sẽ thích nó,” Goddard nói. Ông nhìn về phía tôi, nhưng không hẳn vào tôi, như thể ông đang thấy con trai mình tại chỗ tôi đứng. “Đúng vậy. Anh với nó hẳn sẽ trở thành bạn.”
  “Tôi rất tiếc không gặp được cậu ấy.”
  “Ai cũng yêu nó. Đây là một thằng bé được đặt vào thế gian này để làm mọi người hạnh phúc - nó có tia sáng, nó có nụ...” Giọng ông vỡ ra. “Nụ cười-đẹp nhất...” Goddard cúi đầu xuống, và vai ông rung lên. Một phút sau ông nói, “Rồi một ngày ở công ty, tôi nhận được một cuộc gọi từ Margaret. Bà ấy hét lên... Bà ấy thấy nó trong phòng ngủ. Tôi lái xe về, tôi không suy nghĩ minh mẫn được nữa... Elijah đã bỏ trường Haverford vào năm thứ ba - thật ra là, họ tống cổ nó, điểm số nó sụt thảm hại, nó không tới trường nữa. Nhưng tôi không thể bắt nó nói về chuyện đó được. Tôi ngờ là nó dùng thuốc, dĩ nhiên, và tôi cố nói chuyện với nó, nhưng giống như nói với bức tường vậy. Nó chuyển về nhà, hầu hết thời gian ở lì trong phòng hay ra ngoài với bọn nhóc mà tôi không biết. Sau này tôi nghe được từ một người bạn của nó là nó đã hút heroin vào đầu năm thứ ba. Nó không phải bọn thanh niên phạm pháp, nó là một anh chàng tài năng, tính dễ chịu, một đứa con ngoan... Nhưng rồi đến một lúc nó bắt đầu... từ đó là gì nhỉ, tiêm chích? Và điều đó làm nó thay đổi. Không còn ánh sáng trong mắt nó nữa. Nó bắt đầu suốt ngày nói dối. Cứ như thể nó đang cố xóa bỏ tất cả con người cũ của nó. Anh hiểu tôi nói gì không?”
  Goddard ngước lên. Nước mắt giờ chảy xuống mặt ông.
  Tôi gật đầu.
  Một vài giây chậm chạp trôi qua, rồi ông tiếp tục. “Nó đang tìm kiếm gì đó, tôi đoán vậy. Nó cần thứ mà thế giới này không thể cho nó. Hoặc có lẽ nó quá đa cảm và nó quyết định mình cần loại bỏ phần đó trong mình.”
  Giọng ông lại trở nên nặng nề. “Và sau đó là phần còn lại.”
  “Jock,” tôi lên tiếng, muốn ông dừng lời.
  “Nhân viên điều tra y tế kết luận đó là dùng thuốc quá liều, ông ta bảo không nghi ngờ gì chuyện đó là có chủ ý, rằng Elijah biết mình đang làm gì.” Bàn tay múp míp áp lên mắt. “Tôi tự hỏi mình, liệu tôi đã có thể làm gì khác đi? Tôi đã làm hỏng nó như thế nào? Tôi thậm chí từng dọa sẽ để nó bị bắt. Chúng tôi cố đưa nó đi cai nghiện. Tôi đã chuẩn bị đẩy nó tới đó, bắt nó phải đi, nhưng tôi không bao giờ có cơ hội. Và tôi tự hỏi mình hết lần này đến lần khác: Tôi có quá cứng rắn, quá nghiêm khắc với nó không? Hay không đủ cứng rắn? Tôi có quá bù đầu vào công việc của mình không? - Tôi nghĩ là tôi có như vậy đấy. Hồi đó tôi quá tham vọng. Tôi quá bận rộn xây dựng Trion đến nỗi chẳng thể cho nó một người cha thực sự.”
  Giờ ông nhìn thẳng vào tôi, và tôi thấy được nỗi đau khổ trong mắt ông. Nó như một lưỡi dao đâm vào bụng tôi. Mắt tôi ươn ướt.
  “Anh đi làm và xây dựng vương quốc nho nhỏ của mình,” ông nói, “rồi anh quên mất điều gì thực sự đáng giá.” Ông chớp mắt liên hồi. “Tôi không muốn anh quên mất, Adam. Không bao giờ.”
  Goddard trông càng nhỏ hơn, héo hon hơn, và như đã một trăm tuổi. “Nó nằm trên giường dính đầy dãi và nước tiểu như trẻ nhỏ, và tôi ôm nó trong tay như một đứa bé sơ sinh. Anh biết nhìn thấy con mình nằm trong quan tài là như thế nào không?” ông thì thầm. Tôi nổi da gà, phải quay đầu đi. “Tôi nghĩ mình không bao giờ quay lại làm việc nổi. Tôi cứ ngỡ mình không thể vượt qua điều đó. Margaret nói tôi chưa bao giờ vượt qua được. Trong gần hai tháng liền tôi ở nhà. Tôi không thể tìm ra lý do để sống nữa. Một chuyện như thể này xảy ra và anh - anh sẽ nghi ngờ giá trị của mọi thứ.”
  Ông dường như nhớ ra mình có khăn tay trong túi, và ông lấy nó lau mặt. “Ôi chao, nhìn tôi xem,” ông nói với một tiếng thở dài sườn sượt, và bất ngờ ông cười. “Nhìn lão già ngu xuẩn này xem. Khi tôi ở tuổi anh, tôi tưởng tượng khi mình già như bây giờ tôi hẳn đã tìm ra ý nghĩa của cuộc đời.” Ông cười buồn bã. “Và giờ tôi không đến được gần ý nghĩa cuộc đời hơn bất cứ khi nào trước kia. Ồ, tôi biết nó không phải là cái gì. Bằng quá trình loại bỏ. Tôi đã phải mất một đứa con để biết được điều đó. Anh có nhà to xe đẹp, và có lẽ họ đưa anh lên trang bìa tờ tạp chí Fortune, và anh cho rằng mình đã hiểu được hết tất cả, phải không? Cho tới khi Chúa gửi cho anh một bức điện tín nho nhỏ nói, ‘Ồ, quên không nhắc, chẳng thứ nào trong số đó có ý nghĩa. Và tất cả mọi người ngươi yêu quý trên thế gian này, thực ra chỉ là ta cho ngươi mượn họ thôi, hiểu chưa. Và tốt nhất là ngươi nên yêu thương họ khi còn có thể.’ ” Một giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống má ông. “Tới ngày hôm nay tôi vẫn hỏi mình, tôi đã bao giờ hiểu Elijah chưa? Có lẽ chưa. Tôi từng nghĩ mình hiểu. Tôi biết mình yêu nó, hơn tôi nghĩ mình có thể yêu bất cứ ai. Nhưng tôi có thực sự hiểu con trai mình không? Tôi không thể nói chắc.” Ông lắc đầu chậm rãi, và tôi thấy ông bắt đầu bình tĩnh lại. “Bố anh thật rất may mắn, dù ông ấy là ai, vô cùng may mắn, và ông sẽ không bao giờ hiểu đâu. Ông ấy có được một người con như anh, một người con vẫn còn ở bên ông ấy. Tôi biết ông ấy hẳn phải tự hào vì anh.”
  “Tôi không chắc điều đó lắm,” tôi nói nhỏ.
  “Ồ, tôi thì chắc đấy,” Goddard nói. “Vì tôi biết tôi hẳn sẽ tự hào.”