CHƯƠNG 23
73

    
gay sau ngày tang lễ tôi quay lại làm việc. Tôi làm được gì chứ, quanh quẩn ủ rũ ở nhà ư? Tôi không suy sụp đến thế, dù tôi thấy trầy trật, như đã bị tước đi một lớp da. Tôi cần ở xung quanh mọi người. Và có lẽ, giờ sau khi bố mất, ở cạnh Goddard sẽ khiến tôi được an ủi, ông bắt đầu trở thành điều gần với người bố nhất mà tôi từng có. Không phải tôi bị mụ mị đi như đang ngồi trước mặt bác sĩ tâm lý, nhưng có chuyện đã thay đổi, với tôi, sau khi ông tới lễ tang. Tôi không còn tự mâu thuẫn hay có thái độ hai chiều về cái gọi là nhiệm vụ thực của mình ở Trion, “lý do thật sự” mình ở đây - bởi nó không còn là lý do thật sự nữa.
  Ít nhất theo tính toán của tôi, tôi đã làm phần mình, trả xong nợ, và tôi xứng đáng được có một quá khứ sạch sẽ. Tôi không còn làm việc cho Nick Wyatt nữa. Tôi ngừng trả lời điện thoại hay thư điện tử của Meacham. Một lần tôi thậm chí còn nhận được thư thoại trên điện thoại di động từ Judith Bolton. Ả không để lại tên, nhưng tôi nhận được giọng ngay lập tức. “Adam,” ả bảo. “Tôi biết anh đang trải qua một gian đoạn khó khăn. Tất cả chúng tôi đều rất buồn vì bố anh qua đời, và chúng tôi xin chia buồn sâu sắc với anh.”
  Tôi có thể mường tượng cuộc họp chiến lược giữa Judith, Meacham và Wyatt, đầy tức giận và phẫn nộ vì con diều của chúng đã bứt khỏi dây. Judith sẽ nói gì đó rằng chúng nên nhẹ tay với hắn, hắn vừa mất bố, và Wyatt sẽ nói gì đó độc miệng, bảo lão chẳng thèm quan tâm, đồng hồ đã điểm rồi, và Meacham cố lấy điểm với sếp về chuyện chúng sẽ nướng tôi trên lửa và đập tôi tơi tả như thế nào; và Judith bảo không, chúng ta phải tiếp cận hắn khéo léo hơn, để tôi thử nắm bắt hắn...
  Thư thoại tiếp tục, “Nhưng việc anh tiếp tục giữ liên hệ thường xuyên cực kỳ quan trọng, thậm chí ngay cả trong lúc rối ren này. Tôi muốn tất cả chúng ta giữ thái độ tích cực và thành thật, Adam, nhưng tôi cần anh liên lạc ngay hôm nay.”
  Tôi xóa tin nhắn của cô ta cũng như của Meacham. Chúng sẽ hiểu vấn đề. Sẽ tới lúc tôi chính thức gửi thư điện tử cho Meacham để chấm dứt quan hệ, nhưng vào lúc này, tôi nghĩ mình cứ nhử chúng trong khi tình thế này thấm vào đầu chúng. Tôi không còn là con diều của Nick Wyatt nữa.
  Tôi đã cho chúng những gì chúng cần. Chúng sẽ nhận ra cứng rắn cũng chẳng để làm gì.
  Chúng có thể đe dọa, nhưng chúng không thể buộc tôi tiếp tục làm cho chúng. Miễn là tôi còn ghi nhớ chúng thực sự chẳng làm được gì, tôi có thể cứ thế bỏ đi.
  Tôi chỉ cần ghi nhớ thật kỹ. Tôi có thể cứ thế bỏ đi.

74
Sáng hôm sau, điện thoại di động reo thậm trí trước khi tôi lái vào nhà để xe của Trion. Flo gọi.
  “Jock muốn gặp anh,” chị nói, nghe khẩn cấp. “Ngay lập tức.”
   
  Goddard ngồi trong phòng họp phía sau với Camilletti, Colvin và Stuart Lurie, Phó Giám đốc cao cấp của bộ phận Phát triển Tập đoàn. Tôi từng gặp ông ở bữa tiệc ngoài trời của Jock.
  Khi tôi vào, Camilletti đang nói.
  “... Không, theo những gì tôi nghe được thì thằng chó đó vừa bay tới Palo Alto ngày hôm qua, với bản điều khoản đã lập sẵn. Hắn ăn trưa với Hillman, Tổng Giám đốc, và đến bữa tối thì họ ký. Hắn ra giá ngang với lời chào của chúng ta từng đô một - phải nói là từng xu một - nhưng bằng tiền mặt!”
  “Sao chuyện chết tiệt này có thể xảy ra cơ chứ!” Goddard nổ tung. Tôi chưa bao giờ thấy ông giận giữ đến thế. “Delphos đã ký điều khoản hạn chế hợp tác, vì Chúa!”
  “Điều khoản hạn chế hợp tác lên lịch vào ngày mai - nó còn chưa được ký. Vì thế hắn mới bay ra đó nhanh như vậy, để hắn giành được vụ này trước khi chúng ta khóa nó.”
  “Chúng ta đang nói về ai vậy?” tôi nhỏ nhẹ hỏi và ngồi xuống.
  “Nicholas Wyatt,” Stuart Lurie trả lời. “Hắn vừa mua Delphos ngay trước mũi chúng ta bằng năm trăm triệu đô tiền mặt.”
  Bụng tôi quặn lên. Tôi nhận ra tên Delphos nhưng nhớ đúng ra mình không được biết về nó. Wyatt mua Delphos? tôi nghĩ, sửng sốt.
  Tôi quay sang Goddard, nhìn dò hỏi.
  “Đó là công ty chúng ta đang trong giai đoạn mua lại - tôi từng bảo anh về họ,” ông sốt ruột nói. “Các luật sư của chúng ta chỉ vừa mới soạn thảo xong hợp đồng mua lại lần cuối...” Ông chùng xuống, rồi đột ngột cao giọng. “Tôi thậm chí không tưởng được Wyatt lại có chừng ấy tiền trên bản cân đối kế toán!”
  “Họ có suýt soát một tỷ tiền mặt,” Jim Colvin nói. “Thực ra là tám trăm triệu. Nên năm trăm triệu gần như đã làm cạn con lợn tiết kiệm rồi, vì họ có ba tỷ nợ, và khoản trả nợ dễ phải tới hai trăm triệu một năm.”
  Goddard đập tay xuống bàn tròn. “Chết tiệt!” ông gầm lên. “Wyatt làm được cái quái quỷ gì với một công ty như Delphos chứ? Hắn không có AURORA... Wyatt mà lại mạo hiểm công ty mình như vậy, hoàn toàn không thể hiểu được, trừ phi hắn chỉ đơn thuần muốn chọc ngoáy chúng ta.”
  “Một điều hắn vừa làm thành công rồi,” Camilletti nói.
  “Vì Chúa, không có AURORA, Delphos vô dụng!” Goddard nói.
  “Không có Delphos, AURORA cũng hỏng,” Camilletti nói.
  “Biết đâu hắn biết về AURORA,” Colvin lên tiếng.
  “Không thể nào!” Goddard nói. “Và thậm chí nếu hắn biết về nó, hắn cũng không có nó!”
  “Nếu hắn có thì sao?” Stuart Lurie đưa giả thuyết.
  Im lặng rất lâu.
  Camilletti từ tốn, mạnh mẽ nói. “Chúng tôi bảo vệ AURORA với những nguyên tắc an ninh ngang với mức liên bang mà Bộ Quốc Phòng yêu cầu những nhà thầu cho chính phủ phải áp dụng khi xử lý các thông tin mật nhạy cảm.” Hắn trừng trừng nhìn Goddard gay gắt. “Tôi đang nói về tường lửa, giấy phép an ninh, bảo vệ mạng, truy cập bảo mật đa cấp - tất cả mọi phương pháp an toàn con người biết tới. Nó ở trong vùng im lặng. Hoàn toàn không có một khả năng chết tiệt nào.”
  “Chậc,” Goddard nói. “Không biết làm sao Wyatt đã biết các chi tiết về vụ đàm phán của chúng ta...”
  “Trừ phi,” Camilletti ngắt lời, “hắn có tay trong.” Dường như có ý tưởng nảy ra trong đầu hắn, và hắn nhìn tôi. “Anh từng làm cho Wyatt, phải không?”
  Tôi thấy như máu dồn lên đầu, và để giấu điều đó, tôi giả vờ tức giận. “Tôi từng làm ở Wyatt,” tôi gắt.
  “Anh còn giữ liên lạc với hắn không?” hắn hỏi, mắt khoan sâu vào tôi.
  “Anh định ám chỉ gì?” tôi đứng lên.
  “Tôi chỉ hỏi anh một câu hỏi có-hay-không đơn giản - anh còn giữ liên lạc với Wyatt không?” Camilletti đốp lại. “Anh từng ăn tối với hắn ở nhà hàng Auberge cách đây không lâu, đúng chứ?”
  “Paul, đủ rồi,” Goddard nói. “Adam, anh ngồi ngay lập tức xuống đi. Adam không được tiếp cận chút nào với AURORA. Hay kể cả chi tiết về vụ đàm phán với Delphos. Tôi tin rằng hôm nay là lần đầu tiên Adam nghe nhắc tới tên công ty.”
  Tôi gật đầu.
  “Tiếp tục nào,” Goddard nói. Ông đã hạ hỏa đi đôi chút. “Paul, tôi muốn anh nói chuyện với các luật sư của chúng ta, xem có thể trông cậy được gì. Xem chúng ta liệu có ngăn được Wyatt không. Giờ tới việc này, theo kế hoạch, AURORA được công bố trong bốn ngày nữa. Ngay khi thế giới biết chúng ta vừa làm được gì, người người sẽ điên loạn tranh giành mua nguyên vật liệu và hãng sản xuất suốt dọc chuỗi cung ứng chết tiệt này. Hoặc chúng ta hoãn ra mắt, hoặc... Tôi không muốn trở thành một phần của cuộc tranh giành đó. Chúng ta sẽ phải chụm đầu vào nhau và tìm kiếm cơ hội mua lại phù hợp nào khác...”
  “... Không ai có công nghệ đó ngoài Delphos!” Camilletti nói.
  “Chúng ta đều là những người thông minh,” Goddard nói. “Luôn có khả năng khác.” Ông đặt tay lên tay ghế và đứng dậy. “Các anh biết không, Ronald Reagan thường kể một câu chuyện về cậu bé tìm thấy đống phân và bảo, ‘Hẳn có ngựa ở quanh đây.’ ” Ông cười, và những người khác cũng lịch sự cười theo. Họ tỏ ra tán thưởng nỗ lực yếu ớt nhằm xoa dịu căng thẳng đó. “Chúng ta cùng làm việc thôi. Đi tìm con ngựa nào.”

75
Tôi biết chuyện gì đã xảy ra.
  Tôi nghĩ kỹ về mọi chuyện khi lái xe về nhà đêm đó, và càng nghĩ kỹ, tôi càng giận dữ, càng giận giữ tôi lại càng lái nhanh và ẩu hơn.
  Nếu không phải vì tờ điều khoản tôi lấy từ hồ sơ của Camilletti, Wyatt đã không biết về Delphos, công ty Trion sắp mua. Càng nhắc mình điều này, tôi càng thấy tệ hại.
  Chó chết, đến lúc phải cho Wyatt biết mọi chuyện kết thúc rồi. Tôi không còn làm việc cho chúng nữa.
  Tôi mở khóa cửa căn hộ, bật đèn lên và đi thẳng ra máy tính để gửi thư điện tử.
  Nhưng không.
  Arnold Meacham đang ngồi ở máy tính để bàn, trong khi hai gã tóc đầu đinh bặm trợn đang lục tung nhà tôi. Đồ rải khắp mọi nơi. Sách đều bị lấy khỏi giá, máy chơi đĩa CD và DVD bị gỡ tung ra, thậm chí cả ti vi cũng vậy. Trông như thể ai đó vừa đập phá, ném mọi thứ lung tung, phá càng nhiều càng tốt, cố gây ra nhiều hư hại nhất.
  “Cái quái gì...” tôi nói.
  Meacham bình tĩnh nhìn lên từ màn hình máy tính. “Đừng bao giờ định lờ tao đi.”
  Tôi phải ra khỏi đây. Tôi quay người, lao tới cửa, ngay lập tức một gã đầu đinh khác đóng sầm cửa lại và đứng trước nó, nhìn tôi cảnh giác.
  Không còn đường thoát nào khác, trừ khi tính tới cửa sổ, một cú rơi hai-mươi-bảy-tầng-lầu không được hấp dẫn cho lắm.
  “Mày muốn gì?” tôi nói với Meacham, hết nhìn hắn lại liếc ra cửa.
  “Mày nghĩ mày giấu được tao cái chết tiệt gì sao?” Meacham nói. “Tao không nghĩ vậy đâu. Mày không có két an toàn hay lỗ kín nào thoát được bọn tao. Tao thấy mày lưu lại tất cả thư tao. Tao không ngờ mày quan tâm cơ đấy.”
  “Dĩ nhiên,” tôi căm phẫn. “Tao giữ lại mọi thứ để phòng hờ.”
  “Chương trình mã hóa mày dùng để ghi lại các cuộc gặp với Wyatt, Judith và tao - mày nên biết, nó đã bị phá cách đây hơn năm rồi. Có những chương trình mạnh hơn nhiều.”
  “Hay quá, cảm ơn,” tôi nói, nặng ngữ điệu mỉa mai. Tôi cố tỏ ra không bối rối. “Giờ sao mày và bọn đàn em của mày không xéo khỏi đây trước khi tao gọi cảnh sát.”
  Meacham khịt mũi và ra dấu tay như thể bảo tôi lại gần.
  “Không,” tôi lắc đầu. “Tao nói mày và bọn đàn em của mày...”
  Qua khóe mắt, tôi thấy một chuyển động đột ngột, nhanh như chớp giật, rồi cái gì đó đập mạnh vào sau đầu tôi. Tôi khuỵu đầu gối, miệng ứa máu. Mọi thứ nhuốm màu đỏ đen. Tôi với tay ra bắt lấy kẻ tấn công, nhưng khi tay vừa vung ra sau lưng, tôi đã bị chân người ta đá mạnh vào thận phải. Cơn đau thắt chạy dọc thân, khiến tôi ngã sóng soài trên tấm thảm Ba Tư.
  “Không,” tôi hắt ra.
  Lại một cú đá, lần này vào sau đầu, đau kinh khủng. Những đốm sáng lấp lóe trước mắt tôi.
  “Bảo họ tránh xa tao ra,” tôi rên lên. “Bảo đàn em - của mày - dừng lại. Nếu tao mụ người đi, tao có thể lắm lời đấy.”
  Đó là tất cả những gì tôi nghĩ được. Đồng bọn của Meacham chắc không biết nhiều về những việc mà Meacham và tôi làm. Chúng chỉ là bọn cơ bắp. Meacham sẽ không bảo chúng, không muốn chúng biết. Có lẽ chúng chỉ biết chút ít, đủ để hiểu phải tìm cái gì. Nhưng Meacham sẽ muốn giữ chúng ngoài vòng càng nhiều càng tốt.
  Tôi co rúm, chuẩn bị tinh thần lại bị đá vào sau đầu, mọi thứ trắng lóa và hoa lên, miệng tôi sặc vị kim loại. Trong một lúc, phòng im ắng; dường như Meacham đã ra dấu cho chúng ngừng lại.
  “Mày muốn gì ở tao?” tôi hỏi.
  “Chúng ta sẽ làm một chuyến đi,” Meacham nói.

76
Meacham và bọn khủng bố của hắn thúc tôi ra khỏi căn hộ, đi thang máy xuống gara rồi theo cửa cho nhân viên phục vụ ra ngoài phố. Tôi sợ chết khiếp. Một chiếc xe Suburban đen với cửa sổ phủ màu đang đỗ ở cổng. Meacham dẫn đường, hai gã kia ở cạnh tôi, vây lấy tôi, chắc để không cho tôi chạy, hay tấn công Meacham gì đó. Một gã mang máy tính xách tay của tôi; một gã mang máy tính để bàn.
  Đầu tôi nhức nhối, dưới lưng và ngực đau buốt. Tôi hẳn trông tệ lắm, thâm tím và bầm dập.
  “Chúng ta sẽ làm một chuyến đi” thường có nghĩa là đổ xi măng vào giày quẳng xuống sông Đông, ít nhất là trong phim Mafia. Nhưng nếu chúng muốn giết tôi, tại sao không làm thế trong căn hộ?
  Sau một lúc tôi đoán được bọn đầu gấu từng là cảnh sát, được bộ phận An ninh Tập đoàn Wyatt thuê. Chúng chắc được tuyển chỉ vì vai u thịt bắp. Chúng là loại công cụ mềm.
  Một gã lên lái xe, và Meacham ngồi ở ghế trước, ngăn cách tôi bằng một tấm kính chống đạn, nói chuyện điện thoại suốt dọc đường đi.
  Rõ ràng hắn đã làm được việc. Hắn dọa tôi sợ vãi tè ra quần, và hắn cùng bọn đàn em ;u cho chuyện này? Nhưng tôi làm sao có thể bỏ lỡ cơ hội? Nó có thể sẽ không bao giờ tới một lần nữa.
  Alana là người cực kỳ có óc tổ chức. Máy tính em được sắp xếp theo hệ thống thứ bậc rõ ràng và lô gic. Một thư mục có tên AURORA.
  Tất cả ở đây. Chà, có lẽ không phải tất cả, nhưng đây là mỏ vàng đầy ắp đặc tả kỹ thuật của vi mạch quang học, những bản tóm tắt về tiếp thị, bản sao thư điện tử đã gửi và nhận, lịch họp, bảng phân công nhân sự với mã truy cập, thậm chí cả sơ đồ tầng...
  Có nhiều đến nỗi tôi không đủ thời gian để đọc qua tên tệp tin. Máy tính xách tay có ổ đĩa CD; trong ba lô tôi cất một cọc đĩa CD trắng. Tôi lấy một chiếc, đẩy vào ổ đĩa.
  Thậm chí trong máy mạnh như máy Alana, cũng phải mất tới năm phút để sao tất cả tệp tin của AURORA vào đĩa. Chúng nhiều như thế đấy.
   
  “Sao anh đi lâu vậy?” em hờn dỗi khi tôi quay lại.
  Em nằm trong chăn, để lộ bầu ngực trần, trông buồn ngủ. Bản ballad của Stevie Wonder - “Tình yêu cần tình yêu hôm nay” - vang lên nhẹ nhàng từ máy chơi đĩa CD nhỏ chắc em mang theo.
  “Anh không đoán nổi chìa khóa nào là chìa khóa thùng xe em.”
  “Một người mê xe như anh? Em còn tưởng anh lái xe đi và bỏ em ở đây rồi chứ?”
  “Bộ anh trông ngu sao?”
  “Vẻ ngoài dễ nhầm lắm,” em nói. “Lên giường đi.”
  “Anh không hề biết em hâm mộ Stevie Wonder đấy,” tôi nói. Thật tình tôi không đoán được, vì bộ sưu tập nhạc các ca sĩ nữ nhạc đồng quê đáng bực mình của em.
  “Anh còn chưa biết hết em đâu,” em trả lời.
  “Chưa, nhưng cho anh ít thời gian.” Tôi biết mọi thứ về em, tôi nghĩ, thế mà tôi chẳng biết điều gì. Tôi không phải người duy nhất giữ bí mật. Tôi đặt máy tính xách tay xuống bàn gỗ sồi cạnh phòng tắm. “Anh để đây này,” tôi bảo, trở lại phòng ngủ, cởi đồ ra. “Phòng khi em lại nảy ra cảm hứng xuất sắc nào đó, ý tưởng sáng tạo bất chợt tuyệt vời lúc nửa đêm chẳng hạn.”
  Trần trụi, tôi tiến đến giường. Người phụ nữ lõa thể xinh đẹp trên giường, cô ấy đang đóng vai quyến rũ trong khi tôi mới thực là kẻ dụ dỗ. Em không biết tôi đang chơi trò gì, và tôi thoáng bừng xấu hổ, kỳ quặc thay, hòa lẫn với chút phấn khích. “Lên đây đi,” em thì thầm đầy xúc cảm, nhìn tôi. “Em vừa có ý tưởng sáng tạo bất chợt đây.”
   
  Tôi và em đều dậy sau tám giờ sáng, muộn bất thường đối với những kẻ mê việc quá mức A như chúng tôi - và chơi đùa với nhau một lúc trên giường trước khi đi tắm và xuống ăn bữa sáng đồng quê. Tôi không tin người ở nông thôn thực sự ăn kiểu này, không thì tất cả bọn họ đều đã nặng tới hai trăm cân rồi: những lát thịt xông khói (chỉ ở bữa-sáng-trên-giường ở nông thôn thịt xông khói mới được phục vụ thành “lát”), hàng ụ yến mạch, bánh nướng xốp việt quất vừa làm nóng hôi hổi, trứng, bánh mì nướng kiểu Pháp, cà phê đánh kem... Alana ăn ngốn ngấu, khiến tôi ngạc nhiên vì em vốn mảnh mai như cây bút chì. Tôi thích nhìn em ăn ngấu nghiến như thế. Trông em ăn uống thật ngon lành, và tôi thích vậy.
  Chúng tôi về phòng mơn trớn nhau thêm lúc nữa, rồi vơ vẩn nói chuyện phiếm. Tôi nhắc mình không nói về quy trình an ninh hay thẻ vào cửa rắc rối nữa. Em muốn nói về cái chết và lễ tang của bố tôi, và dù chủ đề này khiến tôi xuống tinh thần, tôi vẫn nói một chút. Khoảng mười một giờ, chúng tôi miễn cưỡng đi về, cuộc hẹn kết thúc.
  Tôi nghĩ cả hai đều muốn tiếp tục, nhưng chúng tôi cũng cần về nhà, cuộn trong cái ổ của riêng mình một lúc, làm ít việc, rồi quay lại cái mỏ muối kia, làm bù cho đêm trốn việc tuyệt vời này.
  Trong khi lái xe đi, tôi mê mẩn nhìn những con đường quê, cây cối lổ đổ nắng, nghĩ về chuyện tôi vừa qua đêm với người phụ nữ tuyệt đẹp, quyến rũ nhất, vui vẻ nhất và phong cách nhất tôi từng gặp.
  Trời ạ, tôi đang làm gì thế này?

82
Đến trưa tôi về tới nhà và lập tức gọi Seth.
  “Tao cần thêm ít tiền nhé,” Seth nói.
  Tôi đã đưa cậu ta vài nghìn đô rút từ tài khoản Wyatt chuyển vào, hay tiền đến từ bất cứ nguồn nào khác. Tôi ngạc nhiên vì Seth đã dùng hết sạch.
  “Tao không muốn qua loa, mua đồ rẻ,” Seth bảo. “Tao chọn toàn đồ chuyên nghiệp thôi.”
  “Tao nghĩ mày phải làm vậy thôi,” tôi nói. “Dù chúng chỉ được dùng một lần.”
  “Mày muốn tao mua đồng phục không?”
  “Có.”
  “Còn thẻ thì sao?”
  “Tao đang làm,” tôi nói.
  “Mày căng thẳng không?”
  Tôi do dự một lúc, định nói dối để củng cố lòng can đảm của Seth, nhưng tôi không thể. “Cực kỳ,” tôi nói.
  Dù vậy tôi vẫn không muốn nghĩ xem chuyện gì có thể xảy ra nếu việc không như ý. Một vùng đất chính nào đó trong óc tôi giờ đây đã bị nỗi lo lắng xâm chiếm, điên cuồng với kế hoạch tôi vạch ra sau buổi gặp sếp của Seth.
  Vậy mà vẫn có một phần óc khác chỉ muốn thoát ly mơ mộng. Tôi muốn nghĩ về Alana. Tôi nghĩ về sự trớ trêu của tình cảnh hiện tại - âm mưu được tính toán để quyến rũ em giờ rẽ sang con đường bất ngờ này, tôi cảm thấy như được bồi hoàn, dù sai trái, cho sự phản bội của mình.
  Tôi giằng xé giữa một đằng là thấy tội lỗi, bẩn thỉu vì điều tôi làm với em với một đằng là choáng ngợp trước tình cảm dành cho em, điều trước đây tôi chưa từng cảm thấy. Những chi tiết nhỏ bé cứ xuất hiện trong đầu: cách em đánh răng, khum tay lấy nước từ vòi thay vì dùng cốc, đường cong thanh tú trên lưng, kéo xuống giữa cặp mông, cách em tô son cực kỳ gợi cảm... Tôi nghĩ về giọng nói mượt như nhung, tiếng cười cuồng nhiệt, khiếu hài hước, sự ngọt ngào của em.
  Và tôi nghĩ - đây có lẽ là điều lạ lùng nhất - về tương lai của chúng tôi, một suy nghĩ đáng sợ với thanh niên ở độ tuổi hai mươi, nhưng, không hiểu tại sao, lại hoàn toàn không đáng sợ. Tôi không muốn đánh mất người phụ nữ này. Tôi thấy như mình vừa bước vào cửa hàng 7-Eleven mua sáu lon bia với một vé xổ số, và tôi trúng số.
  Và vì thế, tôi không bao giờ muốn em biết được tôi thực sự đang làm gì. Điều đó khiến tôi kinh hãi. Ý nghĩ đen tối, tồi tệ đó cứ vang lên, ngăn trở những tưởng tượng ngớ ngẩn của tôi, giống như món đồ chơi chú hề của trẻ con với đế nặng, luôn luôn bật tung lên mỗi khi bạn quật xuống.
  Một hình ảnh đen trắng nhem nhuốc xoáy vào guồng tưởng tượng mỏng manh đầy màu sắc - khung hình từ máy quay an ninh: tôi ngồi trong xe ở bãi đỗ tối tăm, sao chép nội dung trong máy tính xách tay của em và đĩa CD, ấn chìa khóa em vào sáp, sao chép thẻ đánh mã của em.
  Tôi lại quật thằng hề tàn ác xuống và kìa, ngày cưới của chúng tôi, Alana bước dọc lối đi giữa các dãy ghế, lộng lẫy và e lệ, được bố dẫn đi, một người hàm vuông, tóc bạc, mặc com lê lễ phục ban ngày.
  Nghi lễ được Jock Goddard chủ trì, như thẩm phán Tòa Hòa Giải. Gia đình Alana đều tham dự, mẹ em trông như Diane Keaton trong phim Cha của cô dâu, em gái em không đẹp như em, nhưng ngọt ngào, và tất cả đều vui sướng - đây là tưởng tượng, nhớ chứ - vì em lấy tôi.
  Ngôi nhà đầu tiên sống cùng nhau, nhà thật sự chứ không phải căn hộ, như ở thị trấn miền Trung Tây cổ kính xanh mướt; tôi mường tượng ra căn nhà tuyệt vời mà gia đình Steve Martin từng sống, trong phim Cha của cô dâu. Dù gì chúng tôi cũng đều là cấp điều hành quyền lực và giàu có của một tập đoàn. Văng vẳng đâu đó, Nina Simone hát bài “Những người sống trên đồi”. Tôi bế Alana lên dễ dàng qua bậc cửa, và em bật cười vì tôi quá sướt mướt và cổ điển, rồi chúng tôi sẽ yêu nhau trong từng phòng để khai phá nơi này, cả phòng tắm và tủ đồ vải nữa. Chúng tôi thuê phim vừa xem cùng nhau vừa ngồi trên giường dùng đũa ăn đồ Trung Quốc trong hộp giấy, và cứ đôi lúc tôi lại lén nhìn em, và tôi không tin nổi mình lại lấy được cô gái khó tin này.
   
  Đàn em của Meacham đã mang trả máy tính và đồ của tôi, thật may, vì tôi cần chúng.
  Tôi đẩy đĩa CD vào máy tính, chiếc chứa tất cả những thứ sao chép từ máy tính xách tay của Alana. Có khá nhiều thư điện tử nhắc tới tiềm năng tiếp thị khổng lồ của AURORA. Rằng Trion ở thế thống lĩnh “không gian”, như người ta vẫn nói theo cách nói kỹ thuật. Nó hứa hẹn gia tăng rất lớn sức mạnh của máy tính, và cách vi mạch AURORA sẽ thay đổi thế giới.
  Một tài liệu thú vị hơn là lịch công bố AURORA. Nó sẽ xảy ra vào thứ Tư, bốn ngày nữa, tại Trung tâm Đón khách ở trụ sở Trion, một thính phòng hiện đại khổng lồ. Thông báo bằng thư điện tử, fax và điện thoại tới giới truyền thông sẽ chỉ được thực hiện trước đó một ngày. Rõ ràng đây là sự kiện công chúng rất lớn. Tôi in lịch ra.
  Nhưng thứ làm tôi hấp dẫn nhất là sơ đồ tầng và quy trình an ninh mà mỗi thành viên đội AURORA đều có.
  Rồi tôi mở một ngăn kéo đổ rác trong khu bếp. Bọc trong túi rác là vài đồ vật tôi đã cất vào túi Zip-Loc. Một là đĩa CD của Ani DiFranco tôi đặt trong căn hộ, mong em cầm lên, và em đã cầm lên. Cái còn lại là ly rượu em uống ở đây.
  Meacham cho tôi một bộ lấy dấu tay của hãng Sirchie, chứa những ống bột phát hiện dấu vết đường vân, băng lấy dấu tay và chổi sợi thủy tinh. Đeo găng tay cao su vào, tôi phủ lên đĩa CD và ly rượu ít bột than chì đen.
  Đến lúc này, vân tay tốt nhất nằm trên đĩa CD. Tôi cẩn thận nâng nó lên trên một dải băng, đặt nó vào hộp nhựa vô trùng.
  Rồi tôi soạn thư cho Nick Wyatt.
  Dĩ nhiên địa chỉ thư trỏ tới “Arthur”:
   
  Tối thứ Hai/sáng thứ Ba sẽ hoàn tất nhiệm vụ và lấy được mẫu. Sáng sớm thứ Ba sẽ giao vào thời gian và địa điểm ông muốn. Khi kết thúc nhiệm vụ, tôi sẽ chấm dứt mọi liên lạc.
   
  Tôi muốn tỏ ra căm ghét ở mức phù hợp. Tôi không muốn chúng nghi ngờ.
  Nhưng liệu Wyatt có tự mình đến chỗ hẹn không?
  Tôi nghĩ đó là câu hỏi lớn vẫn để ngỏ. Wyatt đến hay không cũng không quan trọng lắm; dù chắc chắn tôi muốn lão đến. Không có cách nào buộc chính Wyatt xuất hiện. Thực ra khăng khăng đòi như thế sẽ chỉ làm lão cảnh giác không đến thôi. Nhưng đến bây giờ tôi hiểu tâm lý Wyatt đủ để tin chắc lão sẽ không tin tưởng ai khác.
  Vậy đấy, tôi sẽ cho Nick Wyatt thứ lão muốn.
  Tôi sẽ cho lão vật mẫu thực sự của vi mạch AURORA mà tôi định trộm với sự giúp đỡ của Seth từ tầng năm bảo mật của Cánh D.
  Tôi phải đưa lão vật thật, vật mẫu thực sự của AURORA. Vì một số lý do, không thể làm giả được nó. Wyatt là một kỹ sư, lão hẳn sẽ nhận ra ngay có phải đồ thật hay không.
  Nhưng lý do chủ yếu bắt nguồn từ thư điện tử của Camilletti và các tệp tin của Alana, vì lý do bảo mật, vật mẫu của AURORA được khắc mấy dấu nhận diện cực nhỏ, một dãy mã số và biểu trưng của Trion, khác bằng laze và chỉ thấy được dưới kính hiển vi.
  Vì thế tôi muốn lão có được con vi mạch bị ăn trộm. Đồ thật.
  Vì chính cái lúc Wyatt - hay Meacham, nếu phải như thế - nhận con vi mạch ăn cắp đó, tôi tóm được lão. FBI sẽ được thông báo trước đó đủ để sắp xếp một đội SWAT, nhưng họ sẽ không được biết tên hay địa điểm gì cả cho tới phút cuối cùng. Tất cả nằm trong tầm kiểm soát của tôi.
  Howard Shapiro, sếp của Seth, đã gọi điện cho tôi. “Quên vụ trao đổi với Cục trưởng ở Văn phòng Biện lý Hoa Kỳ đi,” ông nói. “Nguy hiểm như thế này, ông ta sẽ tới Washington, và mất nhiều thời gian lắm. Quên đi. Chúng ta lên thẳng FBI - họ là bên duy nhất sẽ chơi ở mức này.”
  Không cho biết tên, ông sắp xếp một vụ thỏa thuận với FBI. Nếu tất cả thành công, và tôi giao Nick Wyatt cho họ, tôi sẽ nhận án treo, không hơn.
  Chậc, tôi sẽ giao Wyatt. Nhưng bằng cách của mình.

83
Tôi tới làm sớm vào sáng thứ Hai, tự hỏi liệu hôm nay có phải ngày cuối cùng của mình ở Trion không.
  Dĩ nhiên, nếu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, đây rồi sẽ chỉ là một ngày như bao ngày khác, một điểm gợn nhỏ trong cả sự nghiệp dài và thành công.
  Nhưng cơ hội để mọi thứ trong âm mưu phức tạp khủng khiếp này đều diễn ra suôn sẻ khá nhỏ, và tôi biết vậy.
  Vào Chủ nhật, tôi sao thẻ cảm ứng của Alana ra vài cái, dùng chiếc máy bé nhỏ Meacham đưa cho, gọi là ProxProgrammer và dữ liệu tôi đã lấy được từ thẻ đánh mã của Alana.
  Tôi cũng tìm thấy sơ đồ tầng năm của Cánh D giữa các tệp tin của Alana. Hơn nửa tầng được đánh dấu chéo và ghi “Cơ sở Bảo mật C.”
  Cơ sở Bảo mật C là nơi vật mẫu được thử nghiệm.
  Thật không may, tôi không biết trong cơ sở bảo mật có cái gì, và nơi nào trong đó cất vật mẫu. Khi vào được, tôi phải tự xoay xở thôi.
  Tôi lái xe tới căn hộ của bố để lấy găng tay bảo hộ siêu bền, loại tôi dùng khi còn đi lau cửa sổ với Seth. Tôi hơi hy vọng là sẽ gặp được Antwoine, nhưng anh đã ra ngoài được một lúc. Khi ở đó, tôi có cảm giác nực cười là mình đang bị quan sát, nhưng tôi gạt đi, coi như lo lắng vô cớ thông thường.
  Phần còn lại của ngày Chủ nhật, tôi tra cứu rất nhiều trên website của Trion. Thật ngạc nhiên khi thấy bao nhiêu thông tin được cung cấp cho nhân viên Trion - từ sơ đồ tầng tới thủ tục thẻ kiểm soát, thậm chí tới cả danh sách thiết bị an ninh cài đặt trên tầng năm của Cánh D. Tôi nhận được từ Meacham tần số vô tuyến nhân viên an ninh của Trion dùng cho thiết bị vô tuyến hai chiều.
  Tôi không biết tất cả những gì mình cần về quy trình an ninh - còn khuya mới đủ - nhưng tôi cũng tìm ra vài điểm chủ chốt. Chúng xác nhận cho những gì Alana nói với tôi trong bữa tối ở quán trọ đồng quê.
  Chỉ có hai đường ra vào tầng năm, cả hai đều có người kiểm soát. Anh vẫy thẻ trước máy đọc thẻ để qua lớp cửa thứ nhất, nhưng rồi anh phải trình diện với một nhân viên bảo vệ đằng sau cửa kính chống đạn, người sẽ so sánh tên và ảnh của anh với những gì mình thấy trên màn hình máy tính, rồi cho anh vào khu vực chính.
  Và rồi ngay cả khi đó, anh cũng không đến được gần Cơ sở Bảo mật C. Anh phải đi hết hành lang đầy máy quay truyền hình mạch kín, rồi vào một khu vực khác không chỉ có máy quay an ninh mà còn cả máy phát hiện chuyển động trước khi anh tới cửa vào khu vực bảo mật. Nơi này không có người canh, nhưng để mở được khóa, anh phải qua máy quét sinh trắc học.
  Vì vậy đến được chỗ vật mẫu của AURORA sẽ khó khăn khủng khiếp, nếu không muốn nói là không thể. Tôi thậm chí sẽ không qua nổi điểm kiểm soát có người canh đầu tiên. Dĩ nhiên tôi không thể dùng thẻ của Alana - không ai nhầm được tôi với em. Nhưng thẻ của em sẽ có ích kiểu khác một khi tôi lên được tầng năm.
  Máy quét sinh trắc học thậm chí còn khó nhai hơn. Trion vượt xa về hầu hết các công nghệ, và nhận diện bằng sinh trắc học - như quét vân tay, quét lòng bàn tay, nhận dạng tự động bằng hình dáng khuôn mặt, mã giọng, quét tròng mắt, quét võng mạc - là thế hệ tiếp theo của ngành an ninh. Tất cả đều có điểm mạnh điểm yếu, nhưng quét vân tay thường được coi là tốt nhất - đáng tin cậy, không quá cầu kỳ rắc rối, tỷ lệ từ chối hay chấp thuận sai không quá cao.
  Treo trên tường phía ngoài Cơ sở Bảo mật C là máy quét vân tay hiệu Identix.
  Chiều muộn ngày hôm đó, tôi gọi từ điện thoại di động của mình tới Trợ lý Giám đốc của Trung tâm Điều hành An ninh Cánh D.
  “Chào George,” tôi nói. “Tôi là Ken Romero ở bộ phận Thiết kế và Điều hành Mạng, trong tổ không dây.” Ken Romero là tên thật, một quản lý cấp cao. Đề phòng trường hợp George muốn tra tìm tên tôi.
  “Tôi làm được gì cho ông?” hắn hỏi. Hắn nghe như thể vừa tìm thấy một cục phân trong hộp bánh Cracker Jack của mình.
  “Chỉ hỏi thăm xã giao thôi? Bob muốn tôi nhắc các anh là chúng tôi sẽ tái định tuyến và nâng cấp hệ thống sợi trên Tầng năm D vào sáng sớm mai.”
  “À há.” Kiểu: ông nói với tôi chuyện này làm gì?
  “Tôi không biết sao họ lại nghĩ cần tới sợi năm mươi micrô tối ưu hóa về laze hay máy chủ Blade mật độ siêu cao, nhưng chà, tiền có phải từ túi tôi ra đâu, phải không? Tôi đoán họ có mấy ứng dụng tiêu tốn băng thông khủng khiếp trên đó, và...”
  “Tôi làm được gì, thưa ông...”
  “Romero. Dù sao tôi đoán những người trên tầng năm không muốn bị ngưng trệ trong thời gian làm việc, nên họ yêu cầu làm vào sáng sớm. Không vấn đề gì, nhưng chúng tôi muốn cho các anh biết bởi công việc này sẽ kích thích các thiết bị phát hiện cảm ứng và phát hiện chuyển động gì đó, khoảng chừng từ bốn tới sáu giờ sáng.”
  Trợ lý Giám đốc An ninh tỏ ra nhẹ người khi biết mình không phải làm gì cả.
  “Như vậy là cả tầng năm kia à? Tôi không thể tắt cả tầng năm mà không...”
  “Không, không, không,” tôi nói. “Người của tôi xử lý xong hai, ba tủ thiết bị là tốt lắm rồi, như tạm nghỉ uống cà phê thôi. Không, chúng tôi nhắm tới khu vực, xem nào, khu vực hai mươi hai A và B? Chỉ các phần bên trong. Dù sao bảng điều khiển của các anh hẳn sẽ sáng chói như cây thông Nô en, chắc làm các anh điên cả đầu đấy, nhưng tôi muốn báo trước cho anh biết...”
  Geogre thở dài sườn sượt. “Nếu chỉ là khu vực hai mươi hai A và B, tôi nghĩ tôi có thể tắt...”
  “Thế nào thuận tiện là được. Chúng tôi chỉ không muốn làm các anh loạn óc lên thôi.”
  “Tôi sẽ cho ông ba giờ nếu ông cần.”
  “Chắc không cần đến ba giờ, nhưng tôi đoán cẩn tắc vô ưu, nhỉ? Dù sao cũng cảm ơn anh giúp đỡ.”

84
Khoảng bảy giờ tối hôm đó, tôi ra khỏi tòa nhà Trion, như thường lệ, và lái về nhà. Tôi ngủ một giấc chập chờn.
  Ngay trước bốn giờ sáng, tôi lái xe quay lại và đỗ trên phố, không vào nhà để xe của Trion, để không bị ghi nhận quay lại tòa nhà. Mười phút sau, một chiếc xe tải nhỏ có thùng kín ghi J. J. RANKENBERG & ĐỒNG NGHIỆP - THIẾT BỊ, CÔNG CỤ VÀ HÓA CHẤT LAU CỬA KÍNH CHUYÊN NGHIỆP TỪ 1963 xuất hiện. Seth ngồi sau tay lái, mặc đồng phục xanh có nhãn J.J. Rankenberg trên túi trái.
  “Xin chào, cao bồi,” cậu ta nói. “Chính J.J cho mày mượn à?”
  “Ông già chết rồi,” Seth bảo. Seth hút thuốc, nên tôi biết cậu ta đang căng thẳng. “Tao phải xoay với Junior.” Seth trao cho tôi một bộ áo quần bảo hộ lao động xanh gấp sẵn, và tôi mặc chúng qua áo sơ mi cổ bẻ và quần chino, không dễ dàng lắm khi đang ở trong buồng lái của xe tải Isuzu. Nó bốc mùi xăng đổ.
  “Tao tưởng Junior ghét mày.”
  Seth đưa tay trái lên và miết ngón cái và các ngón khác vào nhau, nghĩa là tiền. “Thuê ngắn hạn, cho một việc tao phải làm nhanh cho công ty bố bạn gái tao.”
  “Mày không có bạn gái.”
  “Tất cả những gì hắn quan tâm là hắn không phải báo cáo khoản thu này. Sẵn sàng rock’ n’ roll chưa, chiến hữu?”
  “Ấn nút đi, cưng,” tôi nói. Tôi chỉ cổng Cánh D cho nhân viên dịch vụ vào nhà để xe, và Seth lái xuống đó. Người trực đêm ở quầy liếc vào một tờ giấy, thấy tên công ty trên danh sách chấp thuận.
  Seth đỗ xe tại tầng dưới của khu xếp dỡ hàng, và chúng tôi lấy túi đựng đồ lớn bằng sợi tổng hợp, chứa đầy đồ nghề ra, nào là cây gạt nước Ettore chuyên nghiệp, xô xanh to, gậy kéo dài được bốn mét, bình nhựa bốn lít đầy dung dịch rửa kính vàng như nước tiểu, dây thừng, móc, thiết bị Ski Genie, rồi ghế nâng và thiết bị nâng Jumar. Tôi đã quên mất công việc này cần nhiều đồ tạp nham linh tinh như thế nào.
  Tôi bấm nút sát tròn to bên cạnh cửa gara bằng sắt, và vài giây sau, cửa cuộn mở. Một nhân viên bảo vệ bụng phệ, mặt xanh xao có ria mép rậm cầm kẹp giấy bước ra. “Các anh cần giúp gì không?” hắn hỏi, không thực tâm.
  “Ổn hết rồi,” tôi nói. “Nếu anh có thể chỉ cho chúng tôi thang máy chở hàng lên mái...”
  “Được thôi,” hắn nói. Hắn đứng đó với kẹp giấy - không viết gì cả, chỉ cầm nó để cho chúng tôi biết ai nắm quyền ở đây - và nhìn chúng tôi vật lộn với đám thiết bị. “Các anh thực sự lau được cửa sổ khi trời tối à?” hắn hỏi khi dẫn chúng tôi tới thang máy.
  “Với lương gấp rưỡi, chúng tôi lau tốt hơn khi trời tối,” Seth nói.
  “Tôi không hiểu sao người ta lại căng thẳng vì chúng tôi nhìn vào cửa sổ văn phòng khi họ đang làm việc,” tôi nói.
  “Phải, đó là nguồn vui chính của chúng tôi,” Seth nói. “Dọa người ta sợ chết khiếp. Khiến dân công chức bị đau tim.”
  Bảo vệ bật cười. “Chỉ cần ấn ‘R’,” hắn nói. “Nếu cửa lên mái bị khóa, chắc sẽ có người trên đó. Tôi nghĩ đó là Oscar.”
  “Hay lắm,” tôi nói.
   
  Khi lên mái, tôi nhớ ra tại sao mình ghét lau cửa kính trên cao. Tòa nhà trụ sở Trion chỉ cao tám tầng, khoảng ba chục mét gì đó thôi, nhưng trên này lúc nửa đêm, nó cũng như tòa nhà Empire State cao nhất New York. Gió quất khắp xung quanh, trời lạnh và ẩm ướt, và tiếng xe cộ vọng lại từ xa, thậm chí vào giờ đêm muộn như thế.
  Tay bảo vệ, Oscar Fernandez (theo thẻ), người thấp, mặc đồng phục bảo vệ xanh nước biển, thắt lưng móc cái điện đàm hai chiều phát ra những tiếng nói đứt quãng, rọt rẹt. Hắn đón chúng tôi ở thang máy chở hàng, lúng túng đảo hết chân này sang chân kia khi chúng tôi dỡ đồ, và dẫn chúng tôi tới cầu thang lên mái.
  Chúng tôi theo hắn tới cầu thang ngắn. Khi mở cửa lên mái, hắn nói. “Phải, tôi biết các anh sẽ tới, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên, tôi không ngờ các anh làm sớm thế.”
  Trông hắn không có vẻ nghi ngờ, chỉ đang bắt chuyện thôi.
  Seth lặp lại lời thoại về lương gấp rưỡi, và chúng tôi nhai lại đoạn khiến dân công sở đau tim, và hắn cũng bật cười. Hắn bảo dù sao mình cũng thấy hợp lý khi người ta không muốn chúng tôi làm gián đoạn công việc trong thời gian làm việc bình thường. Chúng tôi trông như những công nhân lau cửa kính thứ thiệt, chúng tôi có đầy đủ đồng phục và công cụ, và ai điên đến mức trèo lên mái tòa nhà cao tầng lôi theo cả đống tạp nham đó?
  “Dù sao tôi cũng mới làm ca đêm được vài tuần,” hắn nói. “Các anh lên đây bao giờ chưa? Biết đường không?”
  Chúng tôi bảo chưa từng làm ở Trion, thế là hắn hướng dẫn những điều cơ bản - ổ cắm điện, vòi nước, móc an toàn. Bây giờ tất cả những tòa nhà mới xây đều phải có móc an toàn trên mái, cứ ba đến năm mét lắp một cái, cách cạnh tòa nhà khoảng hai mét, đủ mạnh để chịu tải được hai nghìn năm trăm ki lô. Móc thường dựng lên như ống bơm, chỉ khác là có chốt hình chữ U trên đỉnh.
  Oscar quan tâm hơi thái quá tới cách chúng tôi xếp đồ nghề. Hắn quanh quẩn bên cạnh, xem chúng tôi thắt khóa móc kim loại. Chúng được gắn vào dây thừng có vỏ bảo vệ lõi dùng để leo trèo màu trắng-cam dày một centimet và nối với móc an toàn.
  “Hay thật,” hắn nói. “Các anh hẳn leo núi lúc rảnh rỗi nhỉ?”
  Seth nhìn tôi, rồi bảo, “Anh làm bảo vệ lúc rảnh rỗi à?”
  “Không,” hắn nói, rồi bật cười. “Tôi chỉ muốn nói các anh chắc phải thích leo trèo nơi cao ráo gì đó lắm. Tôi thì sẽ sợ chết khiếp.”
  “Rồi anh sẽ quen thôi,” tôi nói.
  Mỗi chúng tôi có hai dây riêng rẽ, một để trèo xuống, và một là dây an toàn dự trữ với tay nắm trên dây, phòng khi dây đầu tiên đứt. Tôi muốn làm đúng cách, và không phải chỉ vì cho ra vẻ. Không ai trong chúng tôi thích toi mạng vì rơi từ tòa nhà Trion xuống. Trong vài mùa hè khó chịu làm cho công ty lau cửa kính, chúng tôi liên tục nghe rằng tỷ lệ tử vong trong ngành là mười vụ một năm, nhưng họ không bao giờ bảo chúng tôi đó là mười vụ trên toàn thế giới, hay mười vụ trong bang, hay gì cả, và chúng tôi cũng không bao giờ hỏi.
  Tôi biết việc chúng tôi làm nguy hiểm. Tôi chỉ không biết nguy hiểm sẽ đến từ đâu.
  Sau khoảng năm phút gì đó, Oscar cuối cùng cũng phát chán, chủ yếu vì chúng tôi ngừng nói chuyện với hắn, và hắn quay về vị trí.
  Dây thừng có vỏ bọc lõi nối với một thứ được gọi là Sky Genie, loại ống bản kim loại dài dùng để cuốn dây thừng quanh cán được rèn bằng nhôm. Sky Genie - tên thật hay - là thiết bị kiểm soát hạ thấp, hoạt động nhờ ma sát và dần dần hạ dây xuống. Các thiết bị Sky Genie này trầy xước và nhìn như đã qua sử dụng. Tôi giơ nó lên và hỏi, “Mày không mua cho bọn mình cái mới được à?”
  “Này, chúng đi cùng với xe tải, mày còn muốn gì nữa? Mày lo cái gì? Các bé này chịu tải được hai nghìn năm trăm cân đấy. Mà tiện đây, mày trông như thể vừa lên vài cân trong mấy tháng qua.”
  “Mẹ kiếp.”
  “Mày ăn tối chưa? Tao mong là chưa.”
  “Không buồn cười đâu. Mày xem nhãn cảnh báo trên cái này chưa?”
  “Tao biết rồi, sử dụng không đúng cách có thể gây ra thương tích nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong. Đừng để ý. Mày chắc còn sợ cả việc tháo nhãn trên đệm mất.”
  “Tao thích câu khẩu hiệu - ‘Sky Genie - Hạ Bạn Xuống’.”
  Seth không cười. “Tám tầng chẳng là gì đâu. Mày còn nhớ chúng ta làm ở Civic...”
  “Đừng nhắc tao,” tôi cắt ngang. Tôi không muốn tỏ ra quá quắt lắm, nhưng tôi không chịu nổi khiếu hài hước đen tối của cậu ta, không phải khi đang đứng ở đây trên mái tòa nhà Trion.
  Thiết bị Sky Genie được móc vào bộ trang bị an toàn bằng sợi tổng hợp nối với thắt lưng và phiến ghế ngồi lót đệm. Mọi thứ trong ngành lau cửa sổ này đều được đặt tên có từ “an toàn” hay “chống ngã”, chỉ để nhắc bạn nhớ là nếu chỉ sơ suất một tí thôi, bạn sẽ tiêu đời.
  Thứ duy nhất chúng tôi lắp hơi khác với bình thường là một cặp thiết bị nâng Jumar, cho phép chúng tôi leo ngược lên dây thừng. Hầu hết trường hợp khi lau cửa sổ kính trên nhà cao tầng, bạn không có lý do gì để trèo lên - bạn chỉ làm tiếp xuống dưới cho tới khi đến mặt đất.
  Nhưng đây sẽ là đường thoát của chúng tôi.
  Trong khi đó, Seth lắp cái tời điện vào một móc trên mái bằng vòng chữ D rồi cắm điện. Đây là mẫu một trăm mười lăm vôn với sức nâng năm trăm ki lô. Cậu ta nối nó vào từng dây, kiểm tra chắc chắn đủ độ để không ngăn chúng tôi trèo xuống.
  Tôi giật mạnh dây để kiểm tra xem mọi thứ đã vào vị trí chưa, và chúng tôi đều đi tới cạnh tòa nhà nhìn xuống. Rồi chúng tôi nhìn nhau, và Seth cười cái điệu ta-đang-làm-gì-thế-này.
  “Chúng ta vui chưa nhỉ?” Seth hỏi. “Ờ, rồi.”
  “Mày sẵn sàng chưa, chiến hữu?”
  “Rồi,” tôi nói. “Sẵn sàng như Elliot Krause trong cầu tiêu di động.”
  Không ai trong chúng tôi cười cả. Chúng tôi chầm chậm trèo lên ray an toàn rồi sang bên kia.