CHƯƠNG 28
92

    
ôi chưa bao giờ thấy chỗ nào như tầng mái tòa nhà A của Trion.
  Nó hoàn toàn chẳng giống phần còn lại của Trion chút nào - không có các văn phòng chật chội hay những lô làm việc huyên náo, không có thảm tấm liền màu xám công nghiệp hay đèn huỳnh quang.
  Thay vì thế, tôi gặp một khoảng không gian rộng lớn, nắng lấp lánh chiếu qua cửa sổ từ trần tới sàn. Mặt sàn bằng đá granit đen, đây đó trải thảm phương Đông, tường bằng gỗ nhiệt đới gì đó rất bóng bẩy. Nơi này được chia tách bằng những dãy thường xuân và các cụm ghế đẩu và ghế bành có thiết kế kiểu dáng, và ngay ở giữa phòng, một thác nước lừng lững đầy phóng khoáng - nước chảy xuống từ vòi nước nằm khuất đâu đó giữa các phiến đá lởm chởm màu hồng nhạt.
  Khu Tiếp khách Lãnh đạo. Để đón khách quan trọng: những vị bộ trưởng nội các, thượng nghị sĩ và đại biểu quốc hội, các tổng giám đốc khác, nguyên thủ quốc gia. Tôi chưa thấy nơi này bao giờ, và tôi cũng không quen ai biết cả, hiển nhiên rồi. Nó không có chất Trion lắm. Không dân chủ lắm. Nó gây ấn tượng, phô trương và đáng sợ.
  Một chiếc bàn ăn tròn nhỏ được đặt tại khu vực giữa thác nước trong nhà và lò sưởi đang bập bùng lửa ga trên các khối gốm giả gỗ. Hai người Mỹ Latinh trẻ, một nam một nữ mặc đồng phục màu hạt dẻ, đang nói chuyện khe khẽ bằng tiếng Tây Ban Nha trong khi bày những bình cà phê và bình trà bằng bạc, các rổ bánh nướng, bình nước cam. Ba bộ.
  Bối rối, tôi nhìn quanh, nhưng không thấy ai. Chẳng có ai đang đợi tôi. Đột nhiên có một tiếng bing, và cửa thang máy bằng thép bóng loáng bên kia phòng trượt mở.
  Là Jock Goddard và Paul Camilletti.
  Họ cười to, cả hai đều hỉ hả, bốc cao như diều. Goddard liếc thấy tôi, ngừng cười giữa chừng và nói, “Chà, cậu ta kia kìa. Thứ lỗi chút nhé, Paul - anh hiểu mà.”
  Camilletti cười, vỗ vai Goddard và đứng lại trong thang máy khi lão già bước ra, rồi cửa đóng lại đằng sau. Goddard sải bước qua khoảng không rộng, dáng gần như chạy.
  “Đi cùng tôi ra chỗ nhà vệ sinh được chứ?” lão nói với tôi. “Phải rửa mớ hóa trang chết tiệt này đi.”
  Im lặng, tôi theo lão tới cánh cửa màu đen bóng gắn hình người nam-và-nữ nhỏ màu bạc. Đèn bật lên khi chúng tôi bước vào. Đó là một phòng vệ sinh lớn và đẹp đẽ, tất cả đều bằng kính và cẩm thạch đen.
  Goddard nhìn mình trong gương. Dường như lão hơi cao hơn. Có lẽ do dáng điệu: lão không khom vai như mọi khi.
  “Trời, tôi trông như tay nghệ sĩ đồng tính Liberace vậy,” lão vừa nói vừa xát xà phòng vào tay rồi xoa lên mặt. “Anh chưa bao giờ lên đây phải không?”
  Tôi lắc đầu, nhìn lão trong gương trong khi lão cúi đầu xuống chậu rửa mặt rồi lại ngước lên. Tôi thấy cảm xúc rối tung một cách lạ lùng - sợ hãi, giận dữ, sốc - phức tạp đến nỗi tôi không biết mình cảm thấy gì.
  “Chậc, anh biết thế giới kinh doanh rồi đấy,” lão nói tiếp. Gần như lão đang muốn xin lỗi. “Sự quan trọng của sân khấu - cảnh hào nhoáng, sự phô trương và những nghi thức long trọng, đủ loại vớ vẩn đó. Tôi khó có thể gặp Tổng thống Nga hay Hoàng tử Ả rập Xê út trong cái lỗ ấm cúng nhỏ bé tồi tàn dưới nhà.”
  “Chúc mừng,” tôi nói khẽ. “Thật là một buổi sáng nhiều sự kiện.”
  Lão lau mặt. “Nhiều kịch tính thì đúng hơn,” lão chữa lại.
  “Ông biết Wyatt sẽ mua Delphos, dù tốn kém như thế nào,” tôi nói. “Thậm chí dù như thế nghĩa là cháy túi.”
  “Hắn không cưỡng lại được,” Goddard nói. Lão vứt khăn lên mặt bệ cẩm thạch, giờ nó đã lấm màu nâu cam.
  “Phải,” tôi nói, nhận thấy nhịp tim đang đập nhanh hơn. “Đúng như thế, chừng nào hắn còn tin rằng ông sắp công bố bước đột phá quan trọng và thú vị về vi mạch quang học. Nhưng làm gì có vi mạch quang học nào, phải không?”
  Goddard lại cười cái điệu cười tiểu yêu ấy. Lão quay người, và tôi theo lão ra khỏi phòng vệ sinh. Tôi tiếp tục nói: “Vì thế không có bằng sáng chế, không có hồ sơ nhân sự...”
  “Vi mạch quang học,” lão nói, gần như lao qua thảm phương Đông ra chỗ bàn ăn, “chỉ tồn tại trong những cái đầu phát sốt và mấy cuốn vở lem luốc của một đám hạng ba tại một công ty tí xíu, bi đát ở Palo Alto. Đuổi theo một giấc mộng, có thể có mà cũng có thể không xảy ra trong cả đời anh. Chắc chắn không phải trong đời tôi.” Lão ngồi xuống bàn, chỉ chỗ bên cạnh mình cho tôi.
  Tôi ngồi xuống, và hai người phục vụ mặc đồng phục đang ý nhị đứng cạnh dãy thường xuân đi tới, rót cà phê cho chúng tôi. Tôi không chỉ sợ hãi, giận dữ và bối rối; tôi đã kiệt sức đến lả đi rồi.
  “Họ có thể chỉ là hạng ba,” tôi nói, “nhưng ông mua công ty họ hơn ba năm trước.”
  Tôi thừa nhận đó là dự đoán có cơ sở - theo tài liệu tôi đọc được trên mạng, nhà đầu tư chính của Delphos là một quỹ đầu tư mạo hiểm đặt trụ sở tại London. Tiền của quỹ này được chảy theo một kênh công cụ đầu tư trên đảo Cayman. Điều đó cho thấy sau khi loại bỏ khoảng năm công ty vỏ bọc và bình phong, Delphos thực ra do một tay chơi chính nắm giữ.
  “Anh thông minh lắm,” Goddard nói, lấy một ổ bánh ngọt và ngấu nghiến ngon lành. “Chuỗi sở hữu thật sự khó mà duỗi thẳng ra được. Ăn bánh nướng đi, Adam. Những món kem-và-dâu này đúng là giết người.”
  Giờ tôi hiểu tại sao Paul Camilletti, người tỉ mỉ đến mức thêm đủ nét gạch ngang cho mọi chữ t và chấm trên mọi chữ i, lại tiện tay “quên” ký điều khoản hạn chế hợp tác trong thỏa thuận ban đầu. Một khi Wyatt thấy điều đó, lão biết mình chỉ có không đầy hai mươi tư giờ đồng hồ để “đánh cắp” công ty đó khỏi Trion - không có thời gian để xin chấp thuận của hội đồng, thậm chí dù hội đồng có duyệt. Mà có lẽ họ sẽ không chịu duyệt.
  Tôi để ý thấy chỗ cho người thứ ba vẫn trống, và tôi tự hỏi người thứ ba là ai. Tôi không muốn ăn, không còn bụng dạ nào mà uống cà phê. “Nhưng cách duy nhất khiến Wyatt cắn câu,” tôi nói, “là chuyện đó phải đến từ một tay gián điệp lão nghĩ mình đã cài được.” Giọng tôi run lên, và giờ tôi cảm thấy giận dữ trào dâng.
  “Nick Wyatt rất đa nghi,” Goddard nói. “Tôi hiểu hắn - tôi cũng vậy. Hắn giống như CIA - họ không bao giờ tin vào mẩu tin tình báo chết tiệt nào trừ phi họ lấy được nó nhờ thủ đoạn.”
  Tôi nhấp miệng chút nước đá, lạnh tới nỗi làm cổ họng tôi đau nhức. Âm thanh duy nhất giữa chốn mênh mông này là tiếng thác nước róc rách ùng ục. Ánh sáng chói mắt tôi. Nơi này đượm vẻ hân hoan đến kỳ cục. Cô phục vụ mang tới một bình pha lê đựng nước để tiếp cho tôi, nhưng Goddard vẫy tay. “Muchos gracias. Hai người đi được rồi. Tôi nghĩ chúng tôi đầy đủ ở đây rồi. Em bảo khách còn lại lên cùng nhé.”
  “Đây không phải lần đầu tiên ông làm chuyện này, đúng không?” tôi nói. Ai là người từng kể cho tôi cứ khi nào Trion đứng bên bờ thất bại, một đối thủ cạnh tranh luôn phạm phải tính toán nhầm lẫn tai hại, và Trion hồi phục mạnh mẽ hơn bao giờ hết?
  Goddard liếc ngang tôi. “Có công mài sắt có ngày nên kim.”
  Đầu tôi choáng váng. Chính tiểu sử và lý lịch của Paul Camilletti đã tiết lộ điều đó. Goddard tuyển hắn về từ một công ty tên là Celadon Data, lúc đó là mối đe dọa lớn nhất cho sự tồn tại của Trion. Không lâu sau đó - Celadon phạm phải một sai lầm công nghệ tai tiếng - sai lầm kiểu chọn-chuẩn-Betamax-thay-vì-VHS - và rơi xuống Chương Mười Một[23] chỉ ngay trước khi Trion thâu tóm họ.
  “Trước tôi, đó là Camilletti,” tôi nói.
  “Và những người khác trước anh ta.” Goddard uống một ngụm cà phê. “Không, anh không phải là người đầu tiên. Nhưng tôi phải nói anh là người tốt nhất.”
  Lời khen đau nhói. “Tôi không hiểu làm sao ông lại thuyết phục được Wyatt rằng trò gián điệp này có thể hữu ích,” tôi nói.
  Goddard liếc lên khi thang máy mở ra, cùng thang máy lão dùng để đi lên đây.
  Judith Bolton. Tôi ngừng thở.
  Ả mặc bộ vét xanh với áo cánh trắng, trông đầy sức sống và rất chuyên nghiệp. Môi và móng tay tô màu đỏ san hô. Ả tới cạnh Goddard, hôn lướt lên môi lão. Rồi ả với sang tôi, bắt tay tôi bằng cả hai tay. Tay ả toát lên mùi hương thảo mộc nhè nhẹ và lành lạnh.
  Ả ngồi xuống bên Goddard, trải khăn ăn vải lanh lên đùi.
  “Adam đang tò mò muốn biết em thuyết phục Wyatt như thế nào,” Goddard bảo.
  “Ồ, em chẳng phải bẻ tay Nick đâu, chính xác là vậy,” ả nói và cười khàn khàn.
  “Em tinh tế hơn thế nhiều,” Goddard nói.
  Tôi trân trối nhìn Judith. “Tại sao lại là tôi?” cuối cùng tôi cũng cất lời được.
  “Tôi ngạc nhiên anh lại hỏi như thế đấy,” ả nói. “Nhìn xem anh đã làm được những gì. Anh có tài bẩm sinh.”
  “Điều đó, và sự thật là các người thao túng được tôi vì tiền.”
  “Có nhiều người trong các tập đoàn dám đi lề bên trái, Adam ạ,” ả nói, rướn người về phía tôi. “Chúng tôi có nhiều lựa chọn. Nhưng anh nổi bật khỏi đám đông. Anh còn vượt xa hơn nhiều so với người đủ điều kiện nhất. Tài năng nói ngon nói ngọt tuyệt vời, lại thêm vấn đề về bố anh nữa.”
  Cơn tức giận tràn lên trong tôi đến nỗi tôi không thể ngồi đó mà nghe thêm nữa. Tôi nhỏm dậy, đứng cao hơn Goddard và nói: “Tôi muốn hỏi ông câu này. Ông nghĩ Elijah giờ sẽ nghĩ gì về ông?”
  Goddard nhìn tôi ngây ra.
  “Elijah,” tôi lặp lại. “Con trai ông.”
  “Ôi trời, phải, Elijah,” Goddard nói, sự băn khoăn chầm chậm chuyển thành thích thú châm biếm. “Cái đó. Phải. Chà, đó là ý tưởng của Judith.” Lão cười tủm tỉm.
  Căn phòng như đang quay chầm chậm và sáng thêm lên mãi, bạc phếch ra. Goddard săm soi tôi với đôi mắt lấp lánh.
  “Adam,” Judith nói, đầy quan tâm và thông cảm. “Ngồi xuống đi mà.”
  Tôi chỉ đứng đó nhìn trân trân.
  “Chúng tôi lo rằng,” ả nói, “anh có thể bắt đầu nghi ngờ nếu mọi thứ đến quá dễ dàng. Anh là một chàng trai cực kỳ sáng dạ, có trực giác tốt. Mọi thứ phải tỏ ra hợp lý, nếu không chuyện sẽ bại lộ. Chúng tôi không thể mạo hiểm điều đó.”
  Tôi nhớ lại phòng làm việc ở ngôi nhà ven hồ của Goddard, những cái cúp giờ tôi biết là giả. Sự khéo tay của Goddard, cách cái cúp không biết tại sao lại bị đụng rơi xuống sàn...
  “Ồ, anh biết đấy,” Goddard nói, “ông già có điểm mềm lòng với mình, mình làm ông ta nhớ tới người con trai đã mất, cái mớ nhảm nhí đó? Hợp lý lắm, phải không?”
  “Không thể phó mặc cho sự ngẫu nhiên,” tôi nói trống rỗng.
  “Chính xác,” Goddard nói.
  “Rất, rất ít người có thể làm được những gì anh đã làm,” Judith nói. Ả cười. “Đa phần sẽ không chịu nổi sự hai mang, đứng giạng chân hai bên đường kẻ như anh. Anh là một người đáng nể, tôi hy vọng anh biết vậy. Vì thế ngay từ đầu chúng tôi đã lựa anh ra. Và anh còn làm hơn cả những gì cần thiết để chứng tỏ chúng tôi đã đúng.”
  “Tôi không tin nổi,” tôi thì thầm. Chân run run, tôi đứng không vững. Tôi phải biến khỏi đây. “Tôi không tin nổi chuyện này.”
  “Adam, tôi biết chuyện này hẳn phải khó khăn với anh như thế nào,” Judith nhẹ nhàng nói.
  Đầu tôi đau như một vết thương mở. “Tôi sẽ về văn phòng dọn đồ.”
  “Anh sẽ không làm thế,” Goddard kêu lên. “Anh sẽ không bỏ việc. Tôi không đồng ý đâu. Những chàng trai thông minh như anh hiếm lắm. Tôi cần anh trên tầng bảy.”
  Một tia nắng làm lóa mắt tôi; tôi không thấy mặt họ.
  “Và ông sẽ tin tôi chắc?” tôi chua chát nói, dịch sang một bên để tránh ánh mặt trời chiếu vào mặt.
  Goddard thở hắt ra. “Gián điệp kinh doanh, con trai, cũng mang phong cách Mỹ như bánh táo và xe Chevrolet thôi. Mẹ kiếp, anh nghĩ Mỹ làm thế nào mà trở thành siêu cường quốc về kinh tế? Hồi năm 1811, một người Mỹ tên là Francis Lowell Cabot đã xuống tàu tới Anh Quốc và đánh cắp bí mật quý giá nhất của Anh - khung cửi Cartright, viên đá nền móng của cả ngành công nghiệp dệt. Đem cả Cách mạng Công nghiệp tới Mỹ, biến chúng ta thành người khổng lồ. Tất cả chỉ nhờ một hành động gián điệp công nghiệp duy nhất.”
  Tôi quay đi, băng qua sàn đá granit. Đế nhựa của đôi giày lao động kêu rin rít. “Tôi bị giật dây thế là đủ rồi,” tôi nói.
  “Adam,” Goddard nói. “Anh nói nghe như một thằng thua cuộc cay đắng vậy. Như bố anh. Và tôi biết anh không như thế - anh là người thắng cuộc, Adam. Anh rất tài giỏi. Anh có đủ điều kiện.”
  Tôi mỉm cười, rồi khẽ cười lên thành tiếng. “Có nghĩa về cơ bản tôi là thằng khốn dối trá. Một thằng lừa gạt. Kẻ nói dối tầm cỡ quốc tế.”
  “Tin tôi đi, anh chưa làm chuyện gì không diễn ra hàng ngày trong giới doanh nghiệp trên thế giới đâu. Xem nào, anh có một cuốn về Tôn Tử trong văn phòng - anh đọc chưa? Ông ta có nói, Binh bất yếm trá. Và thương trường là chiến trường, ai cũng biết vậy. Kinh doanh, ở mức cao nhất, là lừa đảo. Không ai công khai thừa nhận đâu, nhưng đó là sự thật.” Giọng lão mềm đi. “Trò chơi ở đâu cũng như nhau. Anh chỉ là chơi khá hơn bất cứ ai khác. Không, anh không phải là kẻ nói dối, Adam. Anh là nhà chiến thuật cừ khôi.”
  Tôi đảo mắt, lắc đầu ghê tởm, quay lại thang máy.
  Rất khẽ, Goddard nói: “Anh biết Paul Camilletti kiếm được bao nhiêu tiền năm ngoái không?”
  Không quay lại, tôi nói: “Hai mươi tám triệu.”
  “Anh có thể kiếm được như thế trong vài năm. Anh đáng giá như vậy với tôi, Adam. Anh có thần kinh vững chắc và rất tháo vát, anh vô cùng giỏi giang.”
  Tôi khịt mũi nhẹ, nhưng tôi không nghĩ lão nghe thấy.
  “Tôi đã bao giờ bảo anh tôi biết ơn anh thế nào vì đã cứu cho tôi một bàn thua trông thấy trong dự án Guru chưa? Chuyện đó và cả nhiều chuyện khác nữa. Hãy để tôi bày tỏ lời cảm ơn của mình. Tôi tăng lương cho anh - lên một triệu một năm. Với quyền mua cổ phiếu thêm vào đó, xét chiều hướng cổ phiếu của chúng ta đang lên, anh có thể thu được năm hay sáu triệu vào năm tới. Gấp đôi số đó vào năm tiếp theo. Anh sẽ trở thành triệu triệu phú.”
  Tôi sững người. Tôi không biết phải làm gì, phải phản ứng thế nào. Nếu tôi quay lại, họ sẽ nghĩ tôi chấp thuận. Nếu tôi tiếp tục đi, họ sẽ nghĩ tôi từ chối.
  “Đây là vòng trong bằng vàng ròng đó,” Judith nói. “Anh đang được đề nghị một điều mà người ta sẽ tranh nhau giành giật. Nhưng nhớ điều này: chẳng phải anh được cho không - anh đã kiếm được nó. Anh sinh ra cho công việc này. Anh giỏi việc này hơn bất cứ ai tôi đã gặp. Trong vài tháng qua, anh biết mình đang bán gì không? Không phải thiết bị truyền thông cầm tay hay điện thoại di động hay máy nghe nhạc MP3, mà chính là anh. Anh đang bán Adam Cassidy. Và chúng tôi là người mua.”
  “Tôi không rao bán mình,” tôi nghe thấy mình nói vậy, và lập tức thấy xấu hổ.
  “Adam, quay lại,” Goddard giận dữ nói. “Quay lại ngay.”
  Tôi nghe theo lão, mặt đầy oán giận.
  “Anh biết chuyện gì xảy ra nếu bỏ đi không?”
  Tôi cười. “Chắc chắn rồi. Ông sẽ nộp tôi. Cho cớm, cho bọn FBI, cho cái gì đi nữa.”
  “Tôi sẽ không làm vậy,” Goddard nói. “Tôi không muốn nửa lời về chuyện này lọt ra ngoài công chúng. Nhưng không có xe hơi, không có căn hộ, không có tiền lương - anh chẳng có chút tài sản nào. Anh không có gì cả. Kiểu sống đó là như thế nào với một người tài năng như anh?”
  Chúng sở hữu mày... Mày lái xe hơi của công ty, mày sống trong nhà của công ty... cả cuộc đời mày không thuộc về mày... Bố tôi, ông bố như đồng hồ chết của tôi, đã nói đúng rồi.
  Judith đứng dậy khỏi bàn, tới sát tôi.
  “Adam, tôi biết anh đang cảm thấy thế nào,” ả nhỏ nhẹ. Mắt ả ươn ướt. “Anh tổn thương, anh giận dữ. Anh thấy mình bị phản bội, bị thao túng. Anh muốn rút lui vào cơn giận dữ thoải mái, an toàn, tự phòng vệ của một đứa trẻ. Hoàn toàn có thể hiểu được - chúng ta ai cũng cảm thấy thế một lúc nào đó. Nhưng giờ là lúc gạt bỏ những chuyện trẻ con. Anh thấy đấy, anh chưa sa ngã vào chuyện gì cả. Anh tìm thấy chính mình. Tất cả đều ổn, Adam. Tất cả đều ổn.”
  Goddard dựa người vào ghế, tay khoanh lại. Tôi thấy những mảnh mặt lão phản chiếu lên bình cà phê bạc, lên bát đường. Lão cười nhân từ. “Đừng ném tất cả đi, con trai. Tôi biết anh sẽ làm điều đúng đắn.”

93
Xe Porsche, thật đúng lúc quá, đã bị kéo đi. Tôi đỗ nó trái phép tối qua; còn mong gì nữa chứ?
  Vì vậy tôi bước ra khỏi tòa nhà Trion và nhìn quanh tìm tắc xi, nhưng không thấy cái nào quanh đó. Tôi nghĩ đáng ra mình có thể dùng điện thoại trong tiền sảnh để gọi một chiếc, nhưng tôi bị choáng ngợp bởi mong muốn thoát khỏi đó. Cầm theo hộp giấy màu trắng đựng vài thứ từ văn phòng của mình, tôi bước dọc bên đường.
  Vài phút sau, một chiếc xe đỏ tươi tấp vào lề đường, đi chậm lại cạnh tôi. Đó là một chiếc Austin Mini Cooper, chỉ to bằng cỡ cái lò nướng bánh. Cửa sổ bên phía khách kéo xuống, và tôi ngửi thấy mùi hương hoa mơn mởn của Alana thoảng trong không khí thành thị.
  Em gọi tôi. “Này, anh thích nó không? Em vừa có đấy. Khó tin không?”
  Tôi gật đầu và cố nặn ra một nụ cười bí ẩn. “Màu đỏ là mồi câu cớm,” tôi nói.
  “Em không bao giờ đi quá tốc độ cho phép.”
  Tôi chỉ gật đầu.
  Em nói, “Cứ cho là anh xuống xe máy và cho em vé phạt.”
  Tôi gật đầu, đi tiếp, không muốn chơi.
  Em cho xe đi chậm bên cạnh tôi. “Này, cái Porsche của anh làm sao rồi?”
  “Bị kéo mất.”
  “Ối. Anh đi đâu đấy?”
  “Nhà. Harbor Suites.” Không được bao lâu nữa, tôi giật mình nhận ra. Tôi không sở hữu nó.
  “Chà, anh không đi bộ cả quãng đường đâu. Không phải với cái hộp đó. Nào, vào đi, em sẽ cho anh đi nhờ.”
  “Thôi, cảm ơn.”
  Em đi theo bên cạnh, lái chầm chậm gần lề đường, “Ôi, thôi nào, Adam, đừng giận.”
  Tôi dừng lại, đi tới xe, đặt hộp xuống rồi áp hai tay lên trần thấp của cái xe. Đừng giận? Tôi cứ dằn vặt mình suốt vì nghĩ mình đang thao túng em, và em chỉ làm việc của mình mà thôi. “Em - họ bảo em ngủ với tôi, đúng không?”
  “Adam,” em nói ra vẻ hợp lý. “Thực tế đi. Điều đó không nằm trong mô tả công việc. Đó chỉ là thứ mà tụi Nhân sự gọi là phúc lợi, phải không nào?” Em cười điệu cười tươi roi rói, và nó khiến tôi ớn lạnh. “Họ chỉ muốn em dẫn đường cho anh, thả các chỉ dẫn, những điều như thế. Nhưng rồi anh theo đuổi em...”
  “Họ chỉ muốn em dẫn đường cho tôi,” tôi lặp lại. “Ôi trời, ôi trời. Làm tôi muốn bệnh.” Tôi nhấc cái hộp lên rồi tiếp tục đi.
  “Adam, em chỉ làm cái gì họ bảo em làm thôi. Hơn bất cứ ai, anh hẳn phải hiểu điều đó chứ.”
  “Làm như chúng ta còn có thể tin nhau được nữa đấy? Thậm chí bây giờ - em cũng chỉ đang làm những gì họ bảo thôi, phải không?”
  “Ôi, xin anh đấy,” Alana nói. “Adam, anh yêu. Đừng hoang tưởng như thế chứ.”
  “Và tôi thực sự nghĩ chúng ta có mối quan hệ kha khá cơ đấy,” tôi nói.
  “Cũng vui mà. Em đã có những ngày tuyệt vời.”
  “Thật sao.”
  “Trời, đừng nghiêm trọng hóa vấn đề lên thế, Adam! Chỉ là tình dục thôi. Và công việc. Thế thì có gì sai? Tin em đi, em chẳng giả vờ thỏa mãn đâu!”
  Tôi đi tiếp, nhìn quanh tìm tắc xi, nhưng không có cái nào trong tầm mắt. Tôi thậm chí không biết khu phố này. Tôi bị lạc đường.
  “Thôi nào, Adam,” em nói, nhích xe Mini theo chầm chậm. “Vào xe đi.”
  Tôi tiếp tục đi.
  “Ôi, thôi nào,” em nói, giọng êm như nhung, mời mọc mọi thứ, chẳng hứa hẹn điều gì. “Anh lên xe đi có được không?”

HẾT
Chú thích

[23] Chương Mười một của Luật Phá sản Mỹ: Tái cấu trúc theo luật phá sản.
 

Xem Tiếp: ----