Phần II: LÁ CHẮN
CHƯƠNG 5
12

Lá chắn: Một loạt giấy tờ nhận diện giả được cung cấp cho điệp viên, có thể trụ vững dưới sự điều tra gắt gao.

  - Từ điển tình báo
Tôi đã đăng quảng cáo ở ba tờ báo địa phương tìm người trợ giúp y tế tại nhà cho bố tôi. Quảng cáo ghi rõ ràng rằng bất cứ ai cũng được hoan nghênh, điều kiện không khắt khe lắm. Tôi nghi ngờ ngoài kia còn ai được nữa - tôi đã đến giếng múc nước quá nhiều lần rồi.
  Đúng bảy phản hồi đến với tôi. Ba cái là từ những người hiểu nhầm mẩu quảng cáo, chính họ đang đi tìm thuê người. Hai phản hồi qua hộp thư điện thoại đặc sệt ngữ âm nước ngoài đến nỗi tôi không chắc chắn nổi là có phải họ đang cố nói tiếng Anh không nữa. Một đến từ một người đàn ông có giọng dễ chịu, nghe cực kỳ biết điều tự giới thiệu mình là Antwoine Leonard.
  Mặc dù không có nhiều thời gian rảnh rỗi lắm, nhưng tôi sắp xếp được để mời anh chàng Antwoine này uống cà phê. Tôi sẽ không để anh ta gặp bố mình cho đến khi phải gặp - đầu tiên tôi muốn thuê được đã, trước khi anh ta có thể thấy được mình sắp phải đối mặt với điều gì, như vậy để anh ta không thể rút lui quá dễ dàng.
  Antwoine không ngờ lại là một cậu da đen đồ sộ, trông đáng sợ với hình xăm tù và tóc tết kiểu của người da đen. Tôi đoán đúng: ngay khi có thể, anh ta bảo tôi rằng mình vừa được thả sau khi ngồi tù vì ăn trộm xe, và đây cũng không phải lần vào nhà lao đầu tiên. Anh ta cho tôi biết tên sĩ quan theo dõi mình để kiểm tra.
  Tôi thích cách anh ta cởi mở về điều đó, không tìm cách che giấu gì cả. Tôi thực sự thích anh ta. Antwoine có giọng nói nhẹ nhàng, nụ cười ngọt ngào đến ngạc nhiên, thái độ mềm mỏng. Công nhận là tôi ở hoàn cảnh tuyệt vọng thật, nhưng tôi cũng thấy rằng nếu có ai chịu nổi bố tôi thì đó là Antwoine, và tôi thuê anh ta ngay lập tức.
  “Nghe này, Antwoine,” tôi nói lúc đứng dậy chuẩn bị đi. “Về chuyện ngồi tù ấy?”
  “Đó là vấn đề với anh, phải không?” Anh ta nhìn thẳng vào tôi.
  “Không, không phải vậy. Tôi thích cách anh thẳng thắn với tôi về điều đó.”
  Anh ta nhún vai. “À, thế thì...”
  “Tôi chỉ không nghĩ là anh cần trung thực hoàn toàn như thế với bố tôi.”
   
  Đêm trước khi bắt đầu làm việc tại Trion, tôi đi ngủ sớm. Seth để lại lời nhắn qua điện thoại mời tôi đi chơi với cậu ta và vài người bạn nữa, vì cậu ta không phải làm việc đêm đó, nhưng tôi từ chối.
  Đồng hồ báo thức kêu lúc năm giờ ba mươi, và cứ như thể là đồng hồ bị làm sao đấy vậy: vẫn còn là buổi đêm. Rồi tôi nhớ ra, tôi cảm thấy một cơn tăng vọt adrenalin trong cơ thể, một sự kết hợp kỳ lạ giữa sợ hãi và phấn khích. Tôi đang bước vào một cuộc chơi lớn, đến lúc rồi, thời gian luyện tập đã kết thúc. Tôi tắm và cạo râu với lưỡi cạo mới toanh, chầm chậm thôi để không cắt phải da. Tôi thậm chí còn xếp sẵn quần áo trước khi đi ngủ, chọn com lê và cà vạt, đánh giày bóng loáng. Tôi cho rằng mình nên mặc com lê đến làm trong ngày đầu tiên dù mình có trông lạc lõng thế nào; dù sao thì tôi cũng có thể cởi bỏ áo vét và cà vạt bất cứ lúc nào.
  Thật kỳ dị - lần đầu tiên trong đời tôi kiếm được mức lương sáu con số, dù tôi chưa nhận được tấm séc lương thực sự nào cả và vẫn còn sống trong cái lỗ chuột. Chà, điều đó sẽ sớm thay đổi thôi.
  Khi bước vào chiếc Audi A6 màu bạc còn vương mùi-xe-mới, tôi càng cảm thấy sành điệu hơn, và để chúc mừng dấu mốc mới trong đời, tôi dừng lại ở quán starbuck và làm một tách cà phê latte cỡ lớn. Tốn gần bốn đô la cho một tách cà phê chết tiệt, nhưng kìa, giờ tôi đang kiếm bộn tiền mà. Tôi vặn loa thật to nghe nhạc của nhóm Rage Against the Machine mãi tới tận trụ sở Trion, thế nên lúc tới đó, ca sĩ chính Zack de la Rocha đang hét bài “Viên đạn vào đầu” và tôi thì hét theo “Không thoát được trò hiếp dâm tinh thần tập thể!”, mặc bộ com lê công sở hiệu Zegna hoàn hảo với cà vạt và giày hiệu Cole Haan. Tôi rất phấn khích.
  Thật ngạc nhiên là đã có kha khá xe trong hầm để xe dù mới chỉ bảy giờ ba mươi. Tôi đỗ xuống dưới hai tầng.
  “Đại sứ tiền sảnh” của Cánh B không tìm thấy tên tôi trong danh sách khách hay nhân viên mới nào hết. Tôi chẳng là ai cả. Tôi bảo cô ta gọi Stephanie, nhân viên hành chính của Tom Lundgren, nhưng Stephanie còn chưa đến. Cuối cùng cô ta cũng gặp được ai đó ở bộ phận Nhân sự, họ bảo cho tôi lên tầng ba của Cánh E, một quãng đường dài.
  Hai tiếng đồng hồ tiếp theo tôi ngồi ở khu vực tiếp tân của bộ phận Nhân sự với cái bìa kẹp hồ sơ, điền hết mẫu này tới mẫu khác: W-4, W-9, tài khoản liên đoàn tín dụng, bảo hiểm, chuyển khoản tự động vào tài khoản ngân hàng, lựa chọn về cổ phiếu, tài khoản nghỉ hưu, cam kết bảo mật... Họ chụp ảnh tôi và cho tôi phù hiệu đánh mã và vài thẻ nhựa nho nhỏ khác đính kèm với túi chứa thẻ của tôi. Mấy thứ đó ghi những điều chẳng hạn như TRION - THAY ĐỔI THẾ GIỚI CỦA BẠN hay GIAO TIẾP CỞI MỞ hay là VUI VẺ và TIẾT KIỆM. Cứ như thể ở thời Xô Viết, nhưng nó không làm tôi thấy khó chịu.
  Một em ở bộ phận Nhân sự dẫn tôi đi thăm nhanh Trion, cũng khá ấn tượng. Trung tâm thể thao hoành tráng, các máy rút tiền ATM, khu giặt là, phòng giải lao cho miễn phí soda, nước đóng chai, bỏng ngô, có cả máy pha cappuccino.
  Trong phòng giải lao họ có những tấm áp phích lớn nhiều màu bóng loáng in hình một nhóm nam nữ đứng kề vai (người da trắng, da đen, châu Á) trong tư thế chiến thắng trên Trái đất dưới dòng chữ UỐNG CÓ TRÁCH NHIỆM! UỐNG TIẾT KIỆM! Nó còn viết thêm: “Một nhân viên Trion bình thường uống năm ly giải khát một ngày. Chỉ cần mỗi ngày bạn bớt đi một ly đồ uống lạnh, Trion có thể tiết kiệm 2,4 triệu đô một năm!”
  Bạn có thể đưa xe mình đi lau chùi tỉ mỉ, có thể có vé giảm giá đi xem phim, nghe nhạc hay xem bóng chày; họ còn có chương trình quà cho trẻ em (“Mỗi gia đình, mỗi sự kiện, một món quà”). Tôi để ý thấy thang máy ở Cánh D không dừng lại ở tầng năm - “Dự án Đặc biệt”, cô ta giải thích. “Không được tiếp cận.” Tôi cố gắng không để lộ mối quan tâm đặc biệt nào. Tôi tự hỏi liệu đây có phải là thứ “sản phẩm đặc biệt” mà lão Wyatt quan tâm không.
  Cuối cùng, Stephanie tới đưa tôi lên tầng sáu của Cánh B. Tom đang nghe điện thoại, nhưng vẫn vẫy tôi vào. Văn phòng hắn xếp đầy ảnh con cái - tôi để ý thấy là năm đứa con trai - chụp riêng hoặc chụp cùng nhau, rồi những bức vẽ của chúng, những đồ đại loại như vậy. Sách trên giá sau lưng hắn toàn những thứ thường thấy - Ai lấy miếng pho mát của tôi?; Trước tiên hãy phá vỡ mọi luật lệ; Làm thế nào để nghĩ như CEO. Hắn ta rung chân như điên, và mặt trông cứ như thể đã bị chà nhẵn bằng một miếng cọ rửa hiệu Brillo. “Steph,” hắn nói, “chị gọi Nora qua đây nhé?”
  Vài phút sau hắn dập điện thoại, đứng bật dậy bắt tay tôi. Cái nhẫn cưới to và sáng lấp lánh.
  “Nào Adam, chào mừng anh đến với chúng tôi!” hắn nói. “Chà, tôi mừng là chúng tôi đã săn được anh! Ngồi xuống, ngồi xuống đi.” Tôi làm theo lời hắn. “Chúng tôi cần anh, anh bạn. Rất cần đấy. Nhân lực của chúng tôi đang mỏng, ai cũng bị cào tung cả ra. Chúng tôi đang làm hai mươi ba sản phẩm, lại mất vài nhân sự chủ chốt và quá mỏng người. Cô nhân viên mà anh vào thay đã chuyển đi rồi. Anh sẽ vào đội của Nora, nghiên cứu cách làm mới lại dòng sản phẩm Maestro, anh rồi sẽ biết thôi, dòng đó đang trong giai đoạn khó khăn lắm. Phải dập cháy lớn đấy, và - ồ bà ấy đây rồi!”
  Nora Sommer đang đứng ở cửa, một tay trên tay nắm, làm dáng như nữ danh ca. Bà đưa tay kia ra với vẻ e lệ. “Xin chào, Adam! Rất mừng là anh đã tới với chúng tôi.”
  “Tôi cũng rất mừng được ở đây.”
  “Vụ tuyển dụng này không dễ, tôi sẽ nói thẳng với anh như thế. Chúng tôi có nhiều ứng cử viên thật sự sáng giá. Nhưng như người ta vẫn nói, hữu xạ tự nhiên hương. Nào, chúng ta vào việc luôn nhé?”
  Giọng bà ta đang du dương như kiểu thiếu nữ, có vẻ lập tức trầm xuống khi chúng tôi vừa bước ra khỏi văn phòng của Tom Lundgren. Bà nói nhanh hơn, gần như bắn ra lời vậy. “Lô của anh ở ngay đằng kia,” bà ta nói, đâm ngón trỏ vào không khí. “Ở đây chúng tôi dùng điện thoại trên Web - chắc anh phải biết dùng chứ?”
  “Chị an tâm.”
  “Máy tính, điện thoại - tất cả hẳn đã sắp sẵn cho anh rồi. Có chuyện gì khác thì cứ gọi Phòng Cơ sở vật chất. Được rồi, Adam. Tôi nên cảnh báo anh trước, ở đây chúng tôi không giúp nhau việc khó đâu. Yêu cầu công việc sẽ khá cao đấy, nhưng tôi tin rằng anh đã sẵn sàng cho điều đó. Chúng tôi sẽ ném anh thẳng xuống nước, anh tự bơi hoặc chìm thôi.” Nora nhìn tôi thách thức.
  “Tôi thích bơi hơn.” Tôi cười ranh mãnh.
  “Tốt,” bà ta nói. “Tôi thích thái độ đó.”

13
Tôi có cảm giác xấu về Nora. Bà ta là loại người sẽ đổ xi măng vào giày tôi, bó chặt tôi vào cốp một chiếc xe Cadillac và vứt tôi xuống sông Đông. Bơi hoặc chìm, cứ nói thế đi.
  Nora bỏ tôi lại ở lô làm việc mới của mình để đọc tài liệu định hướng, học tên mã của tất cả các dự án. Mọi công ty công nghệ cao đều đánh mã cho sản phẩm của mình; Mã của Trion theo tên các loại bão - Lốc Xoáy, Bão Nhiệt Đới, Sóng Thần, và đại loại như thế. Mã của Maestro là Cơn Lốc. Tất cả những cái tên khác nhau đó thật dễ nhầm, và trên hết, tôi vẫn đang phải cố nắm đường đi nước bước cho Wyatt. Khoảng tới trưa, khi tôi bắt đầu thấy đói ngấu nghiến, một gã chắc nịch khoảng bốn mươi tuổi, tóc đen điểm bạc buộc cao, mặc áo sơ mi Hawaii điển hình và đeo kính mắt tròn gọng đen nặng nề, xuất hiện ở lô của tôi.
  “Hẳn cậu là nạn nhân mới nhất,” gã nói. “Thịt sống bị quẳng vào hang hùm.”
  “Và các anh ai cũng tỏ ra thân thiện cả,” tôi nói. “Tôi là Adam Cassidy.”
  “Anh biết. Anh là Noah Mordden. Kỹ sư Xuất sắc của Trion. Hôm nay là ngày đầu tiên của cậu, cậu không biết phải tin ai, phải về phe ai. Rồi ai muốn chơi với cậu, ai chỉ muốn cho cậu dập mặt. Ờ, anh ở đây để trả lời tất cả những câu hỏi đó. Ra quán ăn tự phục vụ bao cấp cho nhân viên làm bữa trưa đi?”
  Một tay kỳ quặc, nhưng tôi thấy tò mò. Trong lúc đi tới thang máy, gã nói, “Vậy họ cho cậu cái vị trí chẳng ai thèm làm, hả?”
  “Thế à?” Ôi trời, hay thật.
  “Nora muốn lấp đầy chỗ trống bằng nhân sự nội bộ, nhưng không ai đủ khả năng lại muốn làm việc với mụ. Alana, cô gái cùng vị trí này trước cậu, thậm chí đã phải van xin để thoát khỏi bàn tay của Nora, vì vậy họ phải chuyển cô ấy đi đâu đó trong công ty. Có tin đồn là Maestro đang phập phù như bong bóng.” Khó khăn lắm tôi mới nghe được lời gã; gã thì thầm nho nhỏ khi sải bước tới buồng thang máy. “Người ta luôn rút phích cắm rất nhanh khi có gì hỏng hóc. Ở quanh đây nếu cậu bị cúm thì người ta sẽ đo người cậu để đóng quan tài ngay.”
  Tôi gật đầu. “Sản phẩm thừa thãi.”
  “Một mớ vứt đi. Cũng sắp tận số rồi. Trion sắp sửa cho ra lò điện thoại di động tích hợp tất-cả-trong-một cũng có gói tin nhắn không dây y hệt, vậy còn để làm gì chứ? Kết thúc nỗi khổ cho nó đi thôi. Hơn nữa, Nora có như mụ điếm rẻ tiền cũng chẳng giúp được gì hơn.”
  “Bà ta á?”
  “Nếu cậu không nhận ra điều đó trong vòng mười giây khi gặp mụ thì cậu chẳng sáng giá như lương trả trước cho mình. Nhưng đừng coi thường mụ: mụ thuộc hạng đai đen trong lĩnh vực chính trị doanh nghiệp đấy, và cũng có cả bọn vây cánh nữa, nên hãy cẩn thận.” “Cảm ơn anh.”
  “Goddard thích ô tô Mỹ cổ điển, nên mụ cũng thích, sở hữu vài chiếc xe cơ được phục chế, dù chả bao giờ thấy mụ lái cả. Anh nghĩ tất cả chỉ là để Jock Goddard thấy mụ cũng cùng chí hướng với mình thôi. Nora ấy à, vô cùng khôn khéo.”
  Thang máy chật cứng nhân viên xuống quán tự phục vụ dưới tầng ba. Rất nhiều người mặc áo chơi gôn hay áo polo có biểu trưng của Trion. Thang máy tới tầng nào cũng phải dừng lại. Ai đó sau tôi nói đùa, “Xem ra chúng ta có dân địa phương đây.” Tôi nghĩ ngày nào cũng có ai đó buông câu đùa này trong thang máy ở mọi công ty trên khắp thế giới.
  Quán ăn tự chọn, hay còn được gọi là phòng ăn cho nhân viên, rộng mênh mông, ồn ào với năng lượng của hàng trăm có khi tới hàng ngàn nhân viên Trion. Giống như khu ăn uống trong một trung tâm mua sám hoành tráng - một quầy sushi với hai đầu bếp sushi; một quầy pizza tự chọn theo khẩu vị rất sành điệu; rồi quầy bánh kẹp Mexico; đồ ăn Tàu; thịt nướng và hăm bơ gơ; một quầy xa lát tuyệt vời; thậm chí cả quầy đồ ăn chay nữa.
  “Chúa ơi,” tôi thốt lên.
  “Cho người dân bánh mì và trò huyên náo,” Noah nói. “Lời của nhà thơ La Mã Juvenal. Cứ cho nông dân no đủ rồi thì họ sẽ không nhớ ra mình đang bị nô dịch.”
  “Tôi đoán vậy.”
  “Bò nào sống thoải mái sẽ cho sữa tốt hơn.”
  “Sao cũng được,” tôi nói, nhìn quanh. “Thế mà còn nói chuyện tiết kiệm, nhỉ?”
  “À. Nhìn máy bán hàng tự động ở các phòng nghỉ xem - hai mươi nhăm xu cho một xiên thịt gà đậu phộng, nhưng cả đô cho một que kem Klondike. Nước uống và chất có cafein được miễn phí. Năm ngoái Giám đốc Tài chính, Paul Camilletti, cố xóa sổ vụ bia bọt hàng tuần, nhưng rồi các tay quản lý bắt đầu bỏ tiền túi ra mua bia, và ai đó phát tán thư điện tử thiết lập một tình huống kinh doanh nếu giữ lại vụ bia bọt. Bia tốn X tiền mỗi năm, trong khi phải tốn Y tiền để tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới, vì vậy nếu xét đến việc khích lệ tinh thần và chi phí giữ chân nhân sự, khoản thu lại từ đầu tư, vân vân và vân vân, thì cậu thấy đó. Camilletti, kẻ chỉ quan tâm tới các con số, thế là phải chịu thua. Tuy nhiên chiến dịch tiết kiệm của hắn vẫn được thực thi mạnh mẽ.”
  “Cũng giống như ở Wyatt,” tôi nói.
  “Thậm chí khi bay ra nước ngoài, nhân viên bị yêu cầu bay hạng phổ thông. Chính Camilletti còn ở khách sạn bình dân Motel 6 khi đi lại trong nước Mỹ. Trion không có máy bay riêng - ý anh là phải nói rõ rằng chính bà vợ Jock Goddard mua tặng lão một cái làm quà sinh nhật, thế nên chúng ta chẳng phải thấy tiếc gì cho lão cả.”
  Tôi làm một chiếc hăm bơ gơ và Diet Pepsi, còn gã chọn món xào Á Châu bí hiểm nào đó. Đồ ăn rẻ đến buồn cười. Chúng tôi nhìn quanh phòng, tay cầm khay đồ ăn nhưng Mordden không tìm được ai mình muốn ngồi cùng nên chúng tôi ngồi riêng một bàn. Tôi có cái cảm giác ngày-đầu-tiên-đi-học, chẳng biết ai với ai. Nó làm tôi nhớ tới lúc bắt đầu tới trường Bartholomew Browning.
  “Goddard thì chắc không ở Motel 6 luôn chứ?”
  “Anh nghi chuyện đó lắm. Nhưng ông ta không tiêu tiền quá lộ liễu đâu. Ông ta không đi limo. Ông ta lái xe riêng - dù rõ ràng là có trên dưới chục chiếc, tất cả đều là đồ cổ tự phục chế. Đồng thời ông ta cũng cho năm mươi nhân viên điều hành cao cấp nhất tự chọn mỗi người một xe hạng sang, và họ đều kiếm được bộn tiền - nhiều đến chướng mắt luôn. Goddard thông minh lắm, ông ta biết mình phải hậu đãi những tài năng xuất chúng để giữ được họ.”
  “Thế còn những Kỹ sư Xuất sắc như anh thì sao?”
  “Ồ, anh cũng kiếm được nhiều tiền đến gai mắt ở đây. Trên lý thuyết thì anh có thể bảo bất cứ ai cuốn xéo mà vẫn có quỹ bảo đảm cho con anh, nếu anh có con.”
  “Nhưng anh vẫn đang làm mà.”
  Gã thở dài. “Khi anh vớ được đống vàng, chỉ vài năm sau khi làm việc ở đây thôi, anh đã thôi việc và giong buồm vòng quanh thế giới, chỉ gói ghém quần áo của mình và vài va li nặng chứa các tuyệt tác Phương Tây.”
  “Đại bác Phương Tây á?”
  Gã cười. “Những tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Phương Tây ấy.”
  “Giống như Louis L’Amour?”
  “Đúng hơn là Herodotus, Thucydides, Sophocles, Shakespeare, Cervantes, Montaigne, Kafka, Freud, Dante, Milton, Burke...”
  “Trời, hồi ở trường tôi toàn ngủ trong mấy lớp đó,” tôi nói.
  Gã lại cười. Rõ ràng tay này coi tôi là thằng ngốc.
  “Dù sao thì,” gã nói, “khi anh đã đọc mọi thứ, anh nhận ra về lý mà nói thì mình không thể không làm việc, và anh quay lại Trion. Cậu đọc Diễn thuyết về Phụng sự Tình nguyện của Étienne de la Boétie chưa?”
  “Nó có trong thi tốt nghiệp không?”
  “Sức mạnh duy nhất mà bạo chúa có được là những gì nạn nhân của hắn đã từ bỏ.”
  “Những thứ đó, và cả sức mạnh để cấp Pepsi miễn phí nữa,” tôi bảo và nghiêng lon của mình về phía gã. “Vậy anh là kỹ sư.”
  Gã nở nụ cười lịch sự giống kiểu nhăn nhó hơn. “Không phải chỉ là kỹ sư thường, để ý nhé, mà là, như anh nói đó, một Kỹ sư Xuất sắc. Thế có nghĩa là anh có mã số lao động thấp và nhìn chung thì anh có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Nếu điều đó có nghĩa là làm cái gai trong mắt Nora Sommer thì đành vậy thôi. Giờ thì nhắc tới bộ sậu làm mảng tiếp thị bên bộ phận cậu. Xem nào, cậu đã gặp mụ Nora độc địa rồi. Và Tom Lundgren, ngài Phó Giám đốc cao thượng của cậu, cơ bản là một gã thẳng thắn thật thà chỉ sống vì nhà thờ, gia đình và trò đánh gôn. Và Phil Bohjalian, già như Methuselah[6] và mức độ cập nhật về công nghệ cũng tương tự thế, bắt đầu sự nghiệp ở Lockheed Martin từ thời nó còn được gọi bằng tên khác, thời máy tính to như ngôi nhà, chạy bằng thẻ đục lỗ của IBM. Chắc chắn là sắp về vườn rồi. Và - ngạc nhiên chưa, chính là Elvis, liều lĩnh đi vào giữa chúng ta kìa!”
  Tôi quay theo hướng gã nhìn. Đứng ở quầy xa lát là một người tóc trắng, vai khom với bộ mặt sắc nét, lông mày rậm bạc trắng, tai to, trông như một lão tiên tinh quái, ông ta mặc áo cổ lọ đen. Có thể thấy không khí trong phòng đã thay đổi, những làn sóng rì rầm nổi lên quanh ông ta khi mọi người quay lại nhìn và thì thầm, ai cũng cố tỏ ra thản nhiên tế nhị.
  Augustine Goddard, nhà sáng lập Trion đồng thời là tổng giám đốc điều hành, bằng xương bằng thịt.
  Ông ta trông già hơn so với những bức ảnh mà tôi đã thấy. Một người khác cao và trẻ hơn nhiều đang đứng bên cạnh nói gì đó. Tay trẻ hơn này khoảng bốn mươi tuổi, trông săn chắc và rất gọn gàng, tóc đen lốm đốm bạc. Trông giống người Ý, đẹp trai như siêu sao điện ảnh đóng phim hành động, già đi mà vẫn phong độ, chỉ phải cái má đầy vết rỗ. Trừ da xấu ra, hắn khiến tôi nhớ tới Al Pacino trong hai phần đầu của phim Bố già. Hắn mặc bộ com lê màu than xám đẹp đẽ.
  “Đó là Camilletti à?” tôi hỏi.
  “Camilletti cắt cổ.” Mordden nói, lấy đũa bới món xào của mình. “Giám đốc Tài chính của chúng ta. Là Sa Hoàng của đức tiết kiệm. Họ hay đi cùng nhau lắm, hai vị đó ấy.” Gã nói, miệng nhồm nhoàm thức ăn. “Nhìn mặt hắn chưa, đám sẹo mụn thô thiển đó? Có lời đồn rằng theo hệ chữ nổi Braille thì đám sẹo đó xếp thành cụm từ ‘ăn cứt rồi chết phắt đi’. Dù sao thì Goddard cũng coi Camilletti như là Chúa Jesus tái sinh, con người sẽ cắt bớt chi phí điều hành, tăng lợi nhuận, đưa cổ phiếu của Trion trở lại thời huy hoàng. Có người nói Camilletti là bản năng của Jock Goddard, phần Jock xấu xa. Là Iago[7] của ông ta. Là ác quỷ trên vai ông ta. Theo anh thì hắn chính là tên cớm xấu xa để Jock có thể là ông cảnh sát tốt.”
  Tôi ăn nốt bánh hăm bơ gơ. Tôi để ý thấy Tổng Giám đốc và Giám đốc Tài chính đang xếp hàng, tự trả tiền cho món xa lát của mình. Chẳng lẽ họ không thể cứ thế bước ra mà không trả tiền sao? Hay chen vào đầu hàng hay đại loại như thế?
  “Ăn trưa trong phòng ăn của nhân viên là một phong cách rất Camilletti đấy,” Mordden tiếp tục, “để chứng tỏ cho quần chúng thấy cam kết cắt giảm chi phí của mình. Hắn ta không chỉ giảm chi phí, hắn ‘cắt’ thẳng tay luôn. Không có phòng ăn dành riêng cho ban điều hành ở Trion. Không có đầu bếp riêng cho lãnh đạo. Không có bữa trưa phục vụ tận nơi, không phải cho họ, ồ không. Cùng nhau chia ngọt sẻ bùi mà.” Gã uống một ngụm Dr Pepper. “Chúng ta đang dừng ở đâu trong chương trình biểu diễn nho nhỏ của anh rồi ấy nhỉ, vở Ai là Ai trong Dàn diễn ấy? À phải. Còn có Chad Pierson, gã trai tóc vàng được Nora bảo trợ, cậu bé kỳ quan và chuyên gia xu nịnh. Học MBA ở Tuck, chuyển từ trường B vào ngay lĩnh vực tiếp thị sản phẩm ở Trion, mới đây vừa trải qua đợt tập huấn Tiếp thị và chắc chắn hắn sẽ coi cậu là mối đe dọa phải bị loại trừ. Và kia là Audrey Bethune, người phụ nữ da đen duy nhất ở...”
  Noah đột ngột ngừng lời, tống thêm món xào vào miệng. Tôi thấy một tay tóc vàng đẹp trai trạc tuổi mình lướt nhanh tới bàn chúng tôi như cá mập rẽ nước. Áo xanh không cài khuy, trông thư sinh, dáng vận động viên. Một trong những gã tóc vàng hoe bạn hay thấy trên những tờ quảng cáo ở vô khối tạp chí, đang kết giao với những mẫu vật của chủng tộc thượng đẳng trong bữa tiệc cocktail trên bãi cỏ ở dinh thự đường bệ của họ.
  Noah Mordden nốc vội lon Dr Pepper và đứng dậy. Gã bị dây mấy vết ố của món xào lên cái áo Aloha. “Xin lỗi nhé,” gã nói giọng không thoải mái. “Anh có cuộc gặp trực tiếp.” Gã để đĩa ăn của mình bày bừa trên bàn và biến đi đúng lúc tay tóc vàng hoe tới, tay chìa ra.
  “Này, chào cậu?” hắn nói. “Tớ là Chad Pierson.”
  Tôi tiến tới bắt tay hắn, nhưng hắn lại làm trò lướt tay kiểu dân hiphop quá-đỉnh-không-thể-bắt-tay-theo-kiểu-thông-thường. Móng tay hắn trông như được tỉa tót. “Chà,” hắn nói. “Tớ nghe bao nhiêu điều về cậu, anh chàng nam tính!”
  “Toàn chuyện vớ vẩn,” tôi nói. “Tiếp thị ấy mà, cậu biết đấy.”
  Hắn cười bí ẩn. “Ồ không, cậu được cho là người làm nên chuyện. Tớ sẽ loanh quanh cạnh cậu, học lấy một hai ngón.”
  “Tớ sẽ cần mọi sự giúp đỡ có thể được. Họ bảo tớ ở đây thì phải bơi hoặc chìm, và xem ra rõ ràng là tớ đang ở phía có nước sâu rồi.”
  “Vậy là Mordden đã cho cậu nếm đống tri thức yếm thế và xa rời thực tế của hắn rồi hả?”
  Tôi cười trung lập. “Cho tớ biết quan điểm rồi.”
  “Tất cả đều tiêu cực. Hắn nghĩ hắn đang ở trong vở kịch nào đó, đại loại như của Machiavelli. Có lẽ hắn như thế thật, nhưng tớ sẽ không để ý nhiều tới hắn lắm đâu.”
  Tôi thấy mình vừa ngồi với tên nhóc không được quý mến vào ngày đầu tiên đến trường, nhưng điều đó chỉ làm tôi muốn bênh vực Mordden. “Tớ thấy quý anh ấy,” tôi nói.
  “Hắn là kỹ sư. Bọn họ đều kỳ quặc cả. Cậu chơi bóng rổ chứ?”
  “Một chút thôi.”
  “Vào bữa trưa mỗi thứ Ba và thứ Năm ở nhà tập luôn có thi đấu tự do, bọn mình phải cho cậu vào sân thôi. Thêm nữa là khi nào đó tớ và cậu có thể ra ngoài uống, làm một ván, thế nào cũng được.”
  “Nghe hay đấy,” tôi nói.
  “Đã ai bảo cậu về vụ bia bọt Giải đấu của Tập đoàn chưa?”
  “Chưa.”
  “Tớ đoán nó không hợp sở thích Mordden lắm. Dù sao thì cũng là một vụ ra trò.” Hắn trông quá khích, cứ vặn người từ bên này sang bên kia như một cầu thủ bóng rổ đang tìm đường vào khu cấm địa làm cú đập rổ quái vật ấy. “Vậy anh bạn, cậu sẽ đến lúc hai giờ chứ?”
  “Sẽ không để lỡ đâu.”
  “Hay lắm! Rất mừng có cậu trong đội, anh bạn. Cậu và tớ, chúng ta sẽ làm được ra trò.” Hắn cười to.

14
Chad Pierson đang đứng trước bảng trắng, viết chương trình họp bằng bút xanh và đỏ khi tôi bước vào phòng họp Corvette. Phòng họp này trông giống tất cả những phòng họp khác tôi đã thấy - bàn lớn (chỉ khác là mang màu đen kiểu công nghệ cao thay vì màu cây óc chó), bảng điều khiển tai nghe và ống nói của hãng Polycom nằm ở giữa bàn như hình con nhện góa phụ đen, một rổ hoa quả và xô đá chứa đồ uống nhẹ và nước ép.
  Hắn nháy mắt nhanh với tôi khi tôi ngồi xuống bàn. Có vài người đã ở sẵn đó. Nora Sommers ngồi đầu bàn, đeo kính gọng đen treo qua dây chuyền mắt xích trên cổ, đọc hồ sơ và thỉnh thoảng lại thì thầm điều gì đó với Chad, người ghi chép cho mụ. Mụ có vẻ không để ý tới tôi.
  Cạnh tôi là một lão tóc bạc mặc áo polo màu xanh đang gõ trên một chiếc Maestro, có lẽ kiểm tra thư điện tử. Ông ta gầy nhưng bụng phệ, tay khẳng khiu và khuỷu tay u bướu nhô ra khỏi ống tay áo ngắn, để tóc mái trước trán và tóc mai dài đáng ngạc nhiên, tai to và đỏ. Ông đeo kính hai tròng. Nếu mặc một loại áo khác thì hẳn ông ta sẽ mặc áo bảo hộ vải nhựa có túi. Ông trông giống như một kỹ sư mọt sách kiểu cũ từ thời máy điện toán của Hewlett-Packard. Răng ông nhỏ và nâu như thể vẫn thường nhai thuốc lá.
  Đây hẳn phải là Phil Bohjalian, tay kỳ cựu, mặc dù theo cách Mordden nói về ông ta thì tôi đã hơi hy vọng ông phải dùng bút lông ngỗng và giấy da cừu. Ông ta cứ lén nhìn tôi lo lắng.
  Noah Mordden khẽ khàng lẩn vào phòng, không chào tôi hay bất cứ ai khác, mở máy tính xách tay của mình ở phía cuối bàn họp. Nhiều người nữa cười nói đi vào. Giờ có lẽ có khoảng hơn chục người trong phòng. Chad ngừng viết trên bảng trắng và đặt đồ xuống chỗ trống cạnh tôi. Hắn vỗ tay lên vai tôi. “Mừng có cậu với chúng tớ,” hắn nói.
  Nora Sommers hắng giọng, đứng dậy và bước tới bảng trắng. “Nào, ta bắt đầu thôi nhỉ? Được rồi, tôi sẽ giới thiệu thành viên mới nhất của đội chúng ta cho những ai chưa có đặc quyền gặp cậu ấy. Adam Cassidy, mừng cậu tới đây.”
  Mụ vẩy những cái móng tay đỏ chót về phía tôi và tất cả quay đầu lại nhìn. Tôi cúi đầu cười khiêm tốn.
  “Chúng ta rất may mắn mới trộm được Adam từ Wyatt, ở đó cậu ta là một trong những nhân sự chủ chốt của Lucid. Chúng ta mong là cậu ấy sẽ dùng chút ít phép thuật của mình cho Maestro.” Mụ cười sung sướng.
  Chad lên tiếng, nhìn hết bên này sang bên kia như thể đang chia sẻ một điều bí mật. “Cậu bé hư này là thần đồng đấy, tôi đã nói chuyện với cậu ấy rồi, mọi thứ các anh chị nghe được đều đúng cả.” Hắn quay lại bắt tay tôi, đôi mắt trẻ con xanh biếc mở to.
  Nora tiếp tục nói, “Như chúng ta đều đã biết quá rõ, chúng ta gặp phải vài bước lùi nghiêm trọng với Maestro. Dao đã xòe ra ở khắp Trion rồi, và tôi không cần phải nhắc đến tên người nào.” Có vài tiếng cười khe khẽ. “Chúng ta có cái hạn khá lớn lù lù trước mắt - buổi thuyết trình cho chính ngài Goddard, chúng ta sẽ phải bảo vệ cho việc tiếp tục dòng sản phẩm Maestro. Đây vượt xa một buổi họp chức năng với nhân viên, hơn cả một buổi họp mang tính dấu mốc. Đây là chuyện sống chết. Kẻ thù muốn đưa chúng ta lên ghế điện; chúng ta biện hộ để được tạm hoãn án tử hình. Các anh chị rõ tình hình rồi chứ?”
  Mụ nhìn quanh đe dọa và thấy mọi người gật đầu phục tùng. Rồi mụ quay lại và gạch qua dòng đầu tiên trong lịch trình bằng bút mực tím, hơi quá mạnh tay. Rồi quay ngoắt lại, mụ đưa một tập giấy dập ghim cho Chad, hắn bắt đầu chia nó sang hai bên. Nó giống như một loại đặc tả nào đó, định nghĩa sản phẩm hay giao thức sản phẩm, gì cũng được, nhưng tên của sản phẩm, có lẽ từng ở trên đầu trang, đã bị loại bỏ.
  “Giờ,” mụ nói. “Tôi muốn chúng ta làm một bài tập - một sự thuyết minh. Vài người trong các anh chị hẳn đã nhận ra giao thức sản phẩm này, và nếu vậy mong các anh chị hãy giữ im lặng. Vì chúng ta vào việc để làm mới Maestro, tôi muốn chúng ta hãy suy nghĩ rời khỏi khuôn mẫu trong vài phút, và tôi cũng muốn mời ngôi sao mới nhất của ta suy xét về vấn đề này và chia sẻ suy nghĩ với chúng ta.”
  Mụ nhìn thẳng vào tôi.
  Tôi đặt tay lên ngực và ngẩn người ra nói, “Tôi à?”
  Mụ cười. “Anh đấy.”
  “Suy nghĩ... của tôi?”
  “Phải. Theo hay không theo. Bật đèn xanh cho dự án này hay không? Anh, Adam, anh là người giữ cổng cho dự án đang được đệ trình này. Cho chúng tôi biết anh nghĩ gì. Chúng ta sẽ thực hiện nó hay là không?”
  Bụng tôi thắt lại. Tim bắt đầu đập thình thịch. Tôi cố điều hòa hơi thở, nhưng có thể cảm thấy mặt mình đỏ bừng khi giở qua các trang. Không thể đoán được. Tôi thực sự chẳng biết nó là cái quái gì. Tôi nghe được những giọng nói xì xào căng thẳng trong im lặng - Nora ấn lên ấn xuống nắp cái bút viết bảng Expo nghe rọt rà rọt rẹt. Ai đó đang nghịch cái ống hút nhựa nhỏ cắm vào hộp nước ép táo Minute Maid, đẩy nó vào rồi lại kéo nó ra, khiến nó kêu kin kít.
  Tôi gật đầu chậm rãi và khôn ngoan trong khi đọc lướt, cố không tỏ ra giống như con hươu bị rọi đèn pha ô tô, tôi cảm thấy mình như vậy đấy. Có vài đoạn không hiểu nổi nói về “phân tích phân khúc thị trường” và “tạm ước tính mức độ cơ hội thị trường”, ôi trời ơi. Tiếng nhạc đinh tai nhức óc của chương trình thi hỏi đáp Jeopardy nhộn lên trong đầu tôi.
  Rọt rẹt. Kin kít.
  “Thế nào, Adam? Theo hay không theo?”
  Tôi lại gật đầu, cố tỏ ra vừa bị thu hút vừa hứng thú. “Tôi thích,” tôi nói. “Nó khá thông minh.”
  “Ừm.” Mụ cất giọng. Có vài tiếng cười khúc khích khe khẽ. Có chuyện gì đó rồi. Tôi đoán có lẽ mình đã trả lời sai bét, nhưng giờ thì tôi khó mà đổi lại được.
  “Xem này,” tôi nói. “Chỉ dựa vào định nghĩa sản phẩm, dĩ nhiên, thì khó mà nói được nhiều hơn là...”
  “Đây là tất cả những gì chúng ta có tại thời điểm này,” mụ ngắt lời. “Đúng không? Theo hay không theo?”
  Tôi lặp lại. “Tôi luôn tin vào sự táo bạo,” tôi nói. “Tôi thấy nó hấp dẫn. Tôi thích tiêu chuẩn vỏ máy, đặc tính nhận biết chữ viết tay... Xét tới mô hình sử dụng, cơ hội thị trường, tôi chắc chắn sẽ theo đuổi dự án này xa hơn, ít nhất là tới điểm mốc tiếp theo.”
  “A ha,” mụ nói. Một khóe miệng nhếch lên thành nụ cười cay độc. “Thử nghĩ xem, những người bạn của chúng ta ở Cupertino thậm chí không cần sự thông thái của Adam để bật đèn xanh cho quả bom thối này. Adam, đây là đặc tả của con Apple Newton. Một trong những quả bom lớn nhất mà Cupertino từng thả. Họ tốn hơn năm trăm triệu đô để phát triển nó, và rồi khi nó được tung ra thị trường, họ mất sáu mươi triệu mỗi năm vì nó.” Nhiều tiếng cười hơn. “Nhưng nó chắc chắn đã trở thành nguồn tư liệu dồi dào cho truyện tranh Doonesbury và nhà hài kịch Jay Leno hồi năm 1993.”
  Người ta tránh nhìn tôi. Chad cắn bên trong má, trông nghiêm trọng. Mordden dường như đã rơi vào thế giới khác. Tôi muốn xé toạc cái mặt Nora Sommers ra, nhưng tôi đóng vai kẻ thua cuộc tử tế.
  Nora nhìn quanh bàn, từ gương mặt này sang gương mặt kia, nhướn lông mày. “Đây là một bài học. Các anh chị phải đào sâu hơn, nhìn xa hơn những kiểu quảng cáo cường điệu, tìm điều ẩn giấu dưới nắp xe. Và tin tôi đi, khi chúng ta thuyết trình cho Jock Goddard sau hai tuần nữa, ông ấy sẽ thấy được điều ẩn giấu dưới nắp xe ngay. Hãy ghi nhớ điều đó vào đầu.”
  Tất cả đều nở nụ cười lịch sự: ai cũng biết Goddard rành về xe, mê xe đến điên cuồng.
  “Được rồi,” mụ tiếp. “Tôi nghĩ tôi đã nêu rõ quan điểm của mình. Ta tiếp tục thôi.”
  Phải, tôi nghĩ. Tiếp tục thôi. Chào mừng đến với Trion. Bà đã nêu rõ quan điểm của mình rồi. Tôi thấy trong lòng mình trống rỗng.
  Tôi đã sa vào chuyện quái quỷ gì thế này?
Chú thích

[6] Người già nhất được đề cập tới trong kinh thánh tiếng Hebrew.
[7] Nhân vật trong vở kịch Othello của Shakespeare, là một người lính chiến đấu cạnh Othello trong vài năm và trở thành vị cố vấn được tin dùng.