Phần III: ỐNG DẪN
CHƯƠNG 8

Ống dẫn: Biệt ngữ tình báo chỉ các tài sản mang tính chất hỗ trợ như trạm an toàn, nơi thả hộp chết, v.v... của một cơ quan tình báo bí mật.

  - Từ điển tình báo quốc tế

23

Khi về đến nhà người tôi tã cả ra, thậm chí còn tệ hơn lúc trước. Tôi không hợp với loại công việc này. Tôi muốn ra ngoài và lại say bí tỉ, nhưng tôi phải lên giường, ngủ một chút.
  Căn hộ của tôi dường như nhỏ bé và dơ dáy hơn bao giờ hết. Tôi đang kiếm được mức lương sáu con số, vậy nên đáng ra tôi có thể chi trả một trong những căn hộ tại các tòa nhà cao tầng mới gần cầu tàu. Chẳng có lý do gì để tôi tiếp tục ở trong cái lỗ đáy địa ngục này trừ việc nó là cái lỗ đáy địa ngục của tôi, lời nhắc nhở rằng tôi thực sự là thằng vô công rồi nghề hạng bét không làm nên cơm cháo gì chứ không phải là gã màu mè ăn mặc tươm tất tôi đã biến thành. Thêm nữa tôi không có thời gian đi tìm chỗ ở mới.
  Tôi bấm công tắc đèn cạnh cửa và phòng vẫn tối om. Chết tiệt. Thế có nghĩa là bóng trong cái đèn bàn lớn xấu xí ở bên ghế trường kỷ, nguồn sáng chính trong phòng, đã bị cháy. Tôi luôn để đèn bàn sáng để mình có thể bật tắt đèn ở cửa. Giờ tôi phải loạng choạng đi qua căn hộ tối mò để tới cái tủ nhỏ chứa bóng đèn thay thế và những đồ lặt vặt. Thật may mắn là tôi biết từng góc nhỏ trong căn hộ bé xíu này, thật vậy đấy, ngay cả khi mắt nhắm tịt. Tôi sờ soạng trong hộp giấy các tông nhăn nhúm tìm bóng đèn mới, hy vọng nó là một trăm oát chứ không phải hai nhăm hay tương tự như thế, rồi tìm đường qua phòng tới bộ trường kỷ, vặn đui đèn ra, tháo bóng và lắp cái mới vào. Vẫn không có ánh sáng. Mẹ kiếp: đúng là cái kết hoàn hảo cho một ngày tồi tệ. Tôi tìm đến nút bật nhỏ trên bệ đèn rồi bật, phòng sáng bừng lên.
  Tôi đang đi được nửa đường ra phòng tắm thì chợt nghĩ: Sao cái đèn lại bị tắt? Tôi chưa bao giờ tắt nó đi - chưa bao giờ. Tôi mất trí ư?
  Có phải đã có người ở trong căn hộ không?
  Cảm giác rùng mình, thoáng qua chút gì như hoang tưởng. Ai đó đã ở đây. Nếu không thì làm sao mà đèn lại bị tắt bằng công tắc trên bệ chứ?
  Tôi không có bạn ở chung, không có bạn gái, và chẳng ai khác có chìa khóa cả. Cái công ty quản lý tệ hại trông coi tòa nhà cho lão chủ cũng tệ hại và luôn vắng mặt của khu ổ chuột này không bao giờ tới các phòng. Thậm chí ngay cả khi bạn van nài họ cho người tới sửa lò sưởi cũng không. Chẳng có ai từng ở trong này ngoài tôi.
  Tôi nhìn qua máy điện thoại ngay bên dưới đèn bàn, cái điện thoại Panasonic màu đen cũ kỹ kết hợp chức năng trả lời cuộc gọi, chức năng đó tôi giờ không còn dùng đến nữa vì đã có dịch vụ thư thoại của công ty điện thoại. Tôi thấy có điều không ổn. Dây điện thoại đen nằm vắt qua các phím, ngay phía trên thay vì cuộn lại ở một bên như mọi khi. Được rồi, quả thực chúng chỉ là những chi tiết vụn vặt, nhưng bạn sẽ để ý tới chúng khi sống một mình. Tôi cố nhớ mình gọi điện lần cuối khi nào, mình đã ở đâu, mình đã làm gì. Tôi đãng trí tới mức gác máy lệch đi ư? Nhưng tôi chắc chắn là điện thoại không như thế này khi tôi rời nhà sáng nay.
  Chắc chắn đã có người ở đây.
  Tôi nhìn lại chiếc điện thoại kiêm trả lời cuộc gọi và nhận ra còn có điểm bất thường khác, và nó thậm chí còn chẳng khó thấy. Máy ghi cuộc gọi mà tôi không dùng bao giờ có hệ băng kép, một băng cát xét nhỏ cho cuộc gọi đi và một cho cuộc gọi đến.
  Nhưng băng cát xét thu âm cuộc gọi đến không còn nữa. Có người đã bỏ nó ra.
  Tôi đoán đó là người muốn có bản sao chép những cuộc gọi của tôi.
  Hay là - đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ - người muốn chắc chắn rằng tôi đã không dùng máy ghi âm để lưu lại bất cứ cuộc gọi nào tôi nhận. Hẳn phải là thế. Tôi đứng lên rồi tìm máy ghi âm dùng băng duy nhất tôi còn lại, một loại cát xét nhỏ tôi mua hồi còn ở đại học, vì sao tôi chẳng còn nhớ nữa. Tôi nhớ mang máng là vài tuần trước đã thấy nó ở ngăn bàn dưới cùng, lúc đi tìm bật lửa. Tôi kéo ngăn đáy bàn ra, lục lọi nhưng không thấy. Cũng không thấy nó trong ngăn kéo nào khác. Càng tìm, tôi càng chắc chắn là đã từng thấy nó nằm ở ngăn đáy. Khi tìm lần nữa, tôi thấy nguồn điện AC đi kèm, khẳng định nghi ngờ của mình. Máy ghi âm cũng không cánh mà bay.
  Giờ thì tôi chắc chắn rồi: người lục lọi căn hộ muốn tìm tất cả các loại băng ghi âm tôi có thể đã lưu lại. Câu hỏi là, người đó là ai? Nếu là người của Wyatt và Meacham thì rõ là thật điên tiết và xúc phạm người ta.
  Nhưng nếu không phải bọn họ thì sao? Nếu là Trion thì sao? Điều đó đáng sợ đến mức tôi thậm chí không muốn nghĩ về nó nữa. Tôi nhớ lại câu hỏi không biểu cảm của Mordden: Cậu bị cuốn vào chuyện gì vậy?

24
Nhà của Nick Wyatt nằm ở khu ngoại ô khá giả nhất, nơi mà ai cũng từng nghe đến, giàu có tới mức người ta biến nó thành chuyện cười. Nó thực là khu cao cấp thái quá nhất, hào nhoáng nhất và to nhất trong cái thành phố vốn đã nổi tiếng vì những dinh thự cao cấp thái quá, hào nhoáng và to tướng. Rõ là Wyatt coi trọng việc sống trong ngôi nhà mà ai cũng nhắc, ngôi nhà lên bìa tờ Tập san Kiến trúc, ngôi nhà mà cánh phóng viên địa phương lúc nào cũng cố tìm cớ để vào được đặng viết bài. Họ ưa há hốc miệng kinh ngạc trước mô hình San Simen bằng Silicon. Họ thích mấy thứ Nhật Bản, cảnh Thiền thanh bình giản dị một cách giả tạo, đối lập đến kệch cỡm với cả đoàn ô tô Bentleymui trần và giọng the thé hoàn toàn chẳng Thiền tí nào của lão.
  Trong phòng Quan hệ Công chúng của hãng Viễn thông Wyatt có một người chuyên lo quảng bá hình ảnh cá nhân cho Nick Wyatt, đặt tin trên tờ Nhân dân và Nước Mỹ Ngày nay hay bất cứ tờ nào khác. Thỉnh thoảng hắn lại tung ra các câu chuyện về dinh thự của Wyatt, nhờ thế mà tôi biết rằng nó đáng giá năm mươi triệu đô, rằng nó to và phong lưu còn hơn cả căn nhà bên hồ ở gần Seattle của Bill Gates, rằng nó là bản sao của một cung điện Nhật từ thế kỷ mười bốn mà Wyatt đã cho xây ở Osaka rồi chuyển từng phần về Mỹ. Bao quanh nó là bốn mươi mẫu vườn Nhật đầy các loại hoa cỏ quý hiếm, vườn đá, thác nước nhân tạo, hồ nhân tạo, cầu gỗ cổ đưa về từ Nhật. Thậm chí cả những viên đá to nhỏ khác nhau lát trên đường lái xe vào cũng được chuyển về từ Nhật. Dĩ nhiên tôi không thấy được điều đó khi đang lái xe lên lối vào dài bất tận. Tôi thấy chòi gác bằng đá và cửa sắt cao ngất tự động mở ra, rồi dường như hàng dặm tre, một bãi đỗ xe với sáu xe Bentley mui trần đủ màu sắc xếp như một thỏi kẹo Lifesavers sáu mầu (lão không dùng xe cơ bắp Mỹ đâu), và một ngôi nhà gỗ nền thấp có tường đá cao bao quanh.
  Tôi đã nhận được lệnh tới đây do Meacham gửi tới qua thư điện tử bảo mật - thông báo của “Arthur” tới tài khoản Hushmail, gửi bằng chương trình “vô danh” của Phần Lan, hệ tái gửi thư không thể lần ra. Có cả đống ngôn từ mã hóa khiến bức thư giống như lời xác nhận đơn đặt hàng của tôi với người bán hàng nào đó trên mạng, nhưng thực ra nó cho tôi biết thời gian và địa điểm.
  Meacham đã cho tôi hướng dẫn chính xác phải đến đâu và bằng cách nào. Tôi phải đến bãi đỗ xe của một nhà hàng Denny’s rồi đợi chiếc Lincoln xanh thẫm và theo nó tới nhà của Wyatt. Tôi nghĩ chuyện này nhằm xác định chắc chắn tôi không bị theo đến đây. Họ có hơi hoang tưởng một chút, tôi nghĩ, nhưng tôi là ai mà dám tranh cãi chứ? Rốt cuộc thì tôi mới là gã trên ghế nóng.
  Ngay khi tôi ra khỏi xe, chiếc Lincoln phóng đi. Một người Philippin ra mở cửa, bảo tôi cởi giày. Hắn dẫn tôi vào một phòng đợi bày biện những tấm bình phong Nhật, chiếu tatami và bàn sơn mài thấp, rồi một cái đi văng thấp vuông vắn màu trắng, trông như dùng nệm futon. Không thoải mái cho lắm. Tôi giở qua các tạp chí sắp hàng đầy nghệ thuật trên bàn cà phê màu đen - The Robb Report, Tạp chí Kiến trúc (hiển nhiên cả số có hình dinh thự của Wyatt ở trên bìa), và danh mục của nhà đấu giá Sotheby.
  Cuối cùng thì người trông nhà, gọi hắn thế nào cũng được, lại xuất hiện và gật đầu với tôi. Tôi theo hắn đi xuống một hành lang dài về phía căn phòng khác cũng gần như trống huơ trống hoác, tôi có thể thấy bên trong Wyatt ngồi ở đầu một cái bàn ăn màu đen dài và thấp.
  Khi chúng tôi tiến đến cửa vào phòng ăn, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng chuông báo động chói tai, to kinh khủng. Tôi hoang mang nhìn quanh, nhưng trước khi kịp hiểu chuyện gì thì tôi đã bị gã người Philippin và một tên khác bỗng dưng xuất hiện tóm lấy và cả hai vật tôi xuống sàn. Tôi kêu lên, “Cái mẹ gì vậy?” và chống cự chút ít, nhưng hai tên này khỏe như lực sĩ sumo vậy. Rồi tên thứ hai giữ tôi trong khi gã người Philippin rà tôi từ trên xuống dưới. Chúng tìm gì chứ, vũ khí à? Gã người Philippin tìm thấy máy nghe nhạc iPod MP3 liền giật ra khỏi cặp đi làm của tôi.
  Hắn nhìn nó, nói gì đó bằng bất cứ cái ngôn ngữ nào mà người ta nói ở Philippin, rồi đưa nó cho tên còn lại, gã này soi mói, lật qua lật lại rồi lảm nhảm cộc cằn không thể hiểu nổi.
  Tôi ngồi dậy. “Các anh lúc nào cũng đón chào khách của ông Wyatt như thế này à?” tôi nói. Người quản gia cầm lấy chiếc iPod, vào phòng ăn trao cho Wyatt, lão vẫn theo dõi sự vụ từ nãy giờ. Wyatt trả nó lại cho gã người Philipin mà thậm chí không để mắt nhìn qua.
  Tôi đứng lên. “Trước giờ các anh chưa bao giờ thấy thứ gì như thế à? Hay là nhạc từ bên ngoài không được mang vào chỗ này sao?”
  “Họ chỉ đề phòng thôi,” Wyatt nói. Lão mặc áo sơ mi bó dài tay màu đen, chắc bằng vải lanh và có lẽ là giá còn cao hơn số tiền tôi kiếm được trong một tháng, thậm chí ngay cả bây giờ khi làm ở Trion. Dường như lão rám nắng hơn mọi khi. Tôi nghĩ chắc lão phải ngủ trên giường tắm nắng.
  “Sợ tôi giấu đồ gì đó sao?” tôi lên tiếng.
  “Tao chẳng ‘sợ’ cái gì cả, Cassidy. Tao thích ai cũng phải chơi đúng luật. Nếu mày khôn và không định tỏ ra ranh mãnh thì mọi thứ vẫn tốt đẹp. Đừng có nghĩ đến việc thử làm một cái ‘hợp đồng bảo hiểm’, bởi bọn tao đi trước mày nhiều rồi.” Khôi hài thay, ý nghĩ đó chưa bao giờ xuất hiện trong đầu tôi cho tới khi lão nhắc đến.
  “Tôi không hiểu.”
  “Tao muốn nói là nếu mày định làm gì đó ngu xuẩn kiểu như thu băng cuộc gặp của chúng ta hay bất cứ cuộc gọi nào từ tao hay bất cứ ai liên quan đến tao, chuyện sẽ không hay cho mày đâu. Mày không cần bảo hiểm, Adam. Tao chính là bảo hiểm của mày.”
  Một phụ nữ Nhật xinh đẹp mặc kimono xuất hiện bê một cái khay và trao cho lão cuộn khăn nóng với kẹp bằng bạc. Lão lau tay rồi đưa nó lại cho cô ta. Nhìn gần thì chắc chắn lão từng đi căng da mặt. Da quá căng, khiến mắt lão trông gần như mắt người Eskimo.
  “Điện thoại ở nhà mày không an toàn,” lão tiếp tục. “Thư thoại ở nhà, trên máy tính hay điện thoại di động cũng vậy. Mày chỉ được chủ động liên lạc với bọn tao trong trường hợp khẩn cấp, ngoại trừ để phản hồi yêu cầu của bọn tao. Trong các trường hợp khác, bọn tao sẽ liên hệ với mày bằng thư bảo đảm được mã hóa. Giờ thì mày cho tao thấy cái gì đây?”
  Tôi đưa lão đĩa CD về tất cả nhân sự được tuyển vào Trion gần đây mà tôi đã tải về từ website cùng với vài tờ giấy đầy chữ đánh máy. Trong khi lão đọc những ghi chép của tôi, người phụ nữ Nhật mang một cái khay khác quay lại và bắt đầu xếp trước mặt Wyatt một loạt những miếng sushi và sashimi nhỏ, hoàn hảo trông như được chạm trổ, bày trong hộp sơn mài màu gụ, với những ụ cơm trắng nhỏ, wasabi xanh nhạt và các lát gừng ngâm ửng hồng. Wyatt không nhìn lên; hắn quá nhập tâm vào những ghi chép tôi mang tới. Sau vài phút, hắn nhấc cái điện thoại đen nhỏ trên bàn lên, nãy giờ tôi không để ý thấy nó, và hạ giọng nói gì đó. Tôi nghĩ là mình đã nghe thấy từ “fax”.
  Cuối cùng lão nhìn tôi. “Khá lắm,” lão nói. “Rất thú vị.”
  Một người phụ nữ khác xuất hiện, trung tuổi, nghiêm nghị, mặt nhăn nheo, tóc bạc, kính đeo trên dây quanh cổ. Bà ta cười, nhận từ lão thếp giấy rồi đi mà không nói gì. Lão có thư ký thường trực cả đêm ư?
  Wyatt cầm đũa và gắp một miếng cá sống bỏ vào miệng, vừa trầm ngâm nhai vừa nhìn tôi. “Mày hiểu sự ưu việt của chế độ ăn Nhật Bản chứ?” lão hỏi.
  Tôi nhún vai. “Tôi cũng thích mấy thứ như món Tempura.”
  Hắn cười khẩy và lắc đầu. “Tao không nói về món Tempura. Mày nghĩ tại sao Nhật lại dẫn đầu thế giới về tuổi thọ bình quân chứ? Một chế độ ăn ít chất béo, giàu protein, nhiều đồ ăn từ thực vật, nhiều chất chống ô xy hóa. Họ ăn đậu tương nhiều gấp bốn mươi lần chúng ta. Hàng thế kỷ nay họ không ăn cái gì có bốn chân.”
  “Vâng,” tôi nói, rồi nghĩ: Và ý lão là...?
  Lão lại làm một mồm đầy cá. “Mày thực sự nên nghiêm chỉnh nâng cao chất lượng cuộc sống đi. Mày bao nhiêu nhỉ, hai nhăm?”
  “Hai sáu.”
  “Mày còn vài chục năm phía trước. Hãy chăm sóc cơ thể mình. Hút thuốc, uống rượu, hăm bơ gơ Bic Macs và những thứ tạp nham đó - mày phải bỏ đi. Tao ngủ ba giờ mỗi đêm. Không cần nhiều hơn. Mày vui vẻ chứ, Adam?”
  “Không.”
  “Tốt. Mày không đến đó để vui vẻ. Mày thoải mái ở Trion trong vai trò mới không?”
  “Tôi vẫn đang nghiên cứu đường đi nước bước, sếp tôi là hạng chó cái nghiêm chỉnh...”
  “Tao không nói về vỏ bọc của mày. Tao đang nói về công việc thật sự của mày - vụ xâm nhập.”
  “Thoải mái? Không, chưa đâu.”
  “Nó khá rủi ro. Tao hiểu sự khổ cực của mày. Mày vẫn gặp bạn bè cũ chứ?”
  “Vẫn gặp.”
  “Tao không mong mày vứt bỏ chúng. Như thế có thể sẽ gây nghi ngờ. Nhưng tốt hơn hết mày nên chắc chắn là câm cái miệng mắc dịch lại, nếu không thì sẽ ngập trong phân đó.”
  “Tôi hiểu.”
  “Tao cho là tao không phải nhắc nhở mày về hậu quả nếu như thất bại nữa.”
  “Tôi không cần nhắc nhở.”
  “Tốt. Việc của mày khó đấy, nhưng thất bại sẽ còn tệ hơn nhiều.”
  “Thực ra là tôi cũng thinh thích làm ở Trion.” Tôi chỉ nói thật lòng, nhưng tôi biết với lão đó sẽ là một cú quất.
  Lão ngước lên, vừa cười tự mãn vừa nhai. “Nghe thế tao rất mừng.”
  “Đội của tôi đang chuẩn bị thuyết trình cho Augustine Goddard, cũng sắp rồi.”
  “Anh bạn già Jock Goddard hả. Ờ, mày sẽ sớm nhận ra lão là thằng khùng lảm nhảm lên mặt đạo đức và giả tạo. Tao nghĩ lão thực sự tin vào mấy mẩu tin nịnh bợ đó, món rác rưởi ‘lương tâm công nghệ cao’ thường thấy trong tờ Fortune. Tin sái cổ là phân mình không thối.”
  Tôi gật đầu; tôi biết nói gì chứ? Tôi không biết Goddard, nên chẳng thể đồng ý hay không, nhưng sự ghen tị của Wyatt thì rõ lù lù ra.
  “Khi nào mày thuyết trình cho lão thối tha đó?”
  “Trong vài tuần tới.”
  “Có lẽ tao sẽ giúp được cái gì đó.”
  “Sự trợ giúp nào tôi cũng cần hết.”
  Điện thoại đổ chuông và lão nhấc nó lên ngay. “Đây?” Lão nghe vài phút. “Được rồi,” lão nói và dập máy. “Mày đã đánh trúng cái gì đó. Trong một hai tuần tới, mày sẽ nhận được lai lịch đầy đủ về cô nàng Alana Jennings này.”
  “Chắc chắn rồi, như những gì tôi có về Lundgren và Sommers.”
  “Không, đây là mức độ chi tiết khác hẳn.”
  “Tại sao?”
  “Vì mày sẽ muốn nối bước ả. Ả là đường vào cho mày. Và giờ mày đã có một cái mã, tao muốn có tên của tất cả những ai có liên hệ với AURORA về bất cứ mặt nào. Tất cả, từ giám đốc dự án xuống đến cả lao công.”
  “Làm thế nào?” Tôi hối hận ngay khi vừa cất lời.
  “Tự đoán đi. Đó là việc của mày, trời ạ. Và tao muốn ngay ngày mai.”
  “Ngày mai?”
  “Đúng.”
  “Được rồi,” tôi nói, chỉ có chút xíu phản kháng len vào giọng. “Và rồi sếp sẽ có cái mình cần, đúng không? Và thế là chúng ta xong chuyện.”
  “Ồ không,” hắn nói. Hắn nhăn nhở những cái răng to trắng bóc. “Đây chỉ là bắt đầu, anh bạn. Chúng ta chỉ mới hơi chạm tới bề mặt mà thôi.”

25
Tới giờ thì tôi làm việc như điên, và lúc nào cũng mệt nhoài. Ngoài giờ hành chính làm ở Trion, tôi bỏ ra nhiều giờ làm muộn tới đêm, hàng đêm, nghiên cứu bằng Internet hoặc đọc các tài liệu tình báo cạnh tranh do Meacham và Wyatt gửi tới, những tài liệu khiến tôi có vẻ rất thông minh. Đôi lần tôi suýt ngủ gục trên vô lăng khi đang lái xe trên quãng đường tắc nghẽn dài dằng dặc để về nhà. Rồi tôi sẽ mở choàng mắt, bừng tỉnh và ngừng lại trong giây cuối để kịp tránh nguy cơ chệch sang làn đường ngược chiều hay đâm vào xe phía trước. Sau bữa trưa tôi thường bắt đầu lả đi, và phải dùng một lượng lớn cafein để giữ mình không khoanh tay lại và mê đi luôn trong khoang làm việc. Tôi sẽ mơ tưởng tới chuyện về nhà sớm và chui vào chăn trong cái lỗ tối tăm của mình rồi đánh một giấc say sưa ngay giữa chiều. Tôi sống bằng cà phê, Diet Pepsi và Red Bull. Bạn có thể thấy mắt tôi thâm quầng, ít nhất thì bọn mê công việc còn tìm được cảm giác phấn chấn bệnh hoạn; còn tôi chỉ thấy đuối, như con ngựa thồ hàng trong cuốn tiểu thuyết Nga nào đó.
  Nhưng thậm chí làm bằng niềm tin vẫn không phải chuyện tệ nhất của tôi. Vấn đề là tôi đang dần quên mất công việc “thực sự” của tôi là gì và công việc “vỏ bọc” của tôi là gì. Tôi bận bù đầu chỉ để qua được hết buổi họp này đến buổi họp khác, cố gắng kiểm soát mọi việc đủ để Nora không ngửi thấy mùi máu trong nước và bám theo tôi, tôi chỉ xoay xở được chút xíu thời gian để lén lút mò quanh và thu thập thông tin về AURORA.
  Thỉnh thoảng tôi lại gặp Mordden, trong các buổi họp hay ở phòng ăn cho nhân viên, và gã vẫn dừng lại nói chuyện. Nhưng gã không bao giờ nhắc lại cái đêm gã hoặc có hoặc không thấy tôi bước ra khỏi văn phòng của Nora. Có lẽ gã không thấy tôi trong văn phòng mụ. Hoặc có lẽ gã đã thấy và có lý do để không mở miệng nói ra.
  Và cứ cách vài đêm tôi lại nhận được thư từ “Arthur”, hỏi tôi đã tìm hiểu tới đâu, chuyện diễn biến thế nào, làm cái quái gì mà tôi lại lâu đến vậy.
  Hầu như đêm nào tôi cũng về muộn, và hiếm khi có mặt ở nhà. Seth để lại cả đống tin nhắn trên điện thoại, và sau khoảng một tuần gì đấy thì bỏ cuộc. Phần lớn bạn bè tôi cũng đã chịu thua rồi. Tôi cố gắng xoay được nửa tiếng đồng hồ đây đó tới căn hộ của bố để thăm ông, nhưng bất cứ lúc nào tôi xuất hiện, ông đều giận tôi vì tránh mặt ông đến nỗi chẳng thèm nhìn tôi nữa. Giữa bố tôi và Antwoine đã lắng xuống thành một loại thỏa hiệp tạm đình chiến, kiểu như chiến tranh lạnh vậy. Chí ít thì Antwoine không dọa sẽ nghỉ việc. Chưa dọa.
  Một đêm nọ tôi quay lại văn phòng của Nora và tháo thiết bị nhỏ bé ghi phím gõ, nhanh chóng và vô sự. Anh bạn bảo-vệ-yêu-xe-Mustang của tôi thường đi tuần vào khoảng từ mười giờ tới mười giờ hai mươi, vì vậy tôi làm trước khi anh ta xuất hiện. Chỉ tốn chưa đến một phút, và chẳng thấy Noah Mordden đâu.
  Đoạn cáp nhỏ xíu này giờ chứa hàng trăm ngàn phím gõ của Nora, bao gồm tất cả các mật mã. Chỉ còn là việc cắm thiết bị vào máy tính và tải khối chữ về. Nhưng tôi không dám làm thế ngay ở lô của mình. Ai mà biết được hệ thống mạng của Trion có cài chương trình quét nào chứ? Rủi ro không đáng nhận.
  Thay vì thế, tôi đăng nhập vào Website của tập đoàn. Trong hộp tìm kiếm, tôi gõ vào AURORA, nhưng không thấy kết quả gì. Ngạc nhiên chưa, ngạc nhiên chưa. Nhưng tôi còn ý tưởng khác, tôi gõ tên của Alana Jennings và lấy được trang về cô ta. Không có ảnh - phần lớn mọi người đều có ảnh đưa lên, dù vài người thì không - nhưng có thông tin cơ bản như số điện thoại nội bộ, chức danh (Giám đốc Tiếp thị, Bộ phận Nghiên cứu Công nghệ Thay thế), số bộ phận, cũng chính là số hòm thư của cô ta.
  Tôi biết con số nhỏ bé này là thông tin cực kỳ hữu dụng. Ở Trion cũng giống như ở Wyatt, bạn có số bộ phận trùng với tất cả mọi người làm việc cùng chỗ với mình. Tất cả những gì tôi phải làm là đánh số đó vào cơ sở dữ liệu của tập đoàn và tôi đã có danh sách của tất cả mọi người trực tiếp làm cùng Alana Jennings - cũng có nghĩa là tất cả bọn họ đều làm trong Dự án AURORA.
  Điều đó không có nghĩa là tôi đã có danh sách nhân viên đầy đủ của AURORA, có thể còn có người cùng tầng đó nhưng làm ở những bộ phận khác, nhưng ít nhất thì tôi đã có một phần tương đối: bốn mươi bảy cái tên. Tôi in trang web của từng người ra và cho chúng vào cặp giấy trong túi đi làm. Tôi đoán là chúng sẽ làm bọn người của Wyatt hài lòng được ít lâu.
  Tôi về nhà khoảng mười giờ tối hôm đó, và khi đang định ngồi xuống máy tính để tải về tất cả các phím gõ từ máy của Nora, tôi để ý thấy có gì đó khác. Ngay ở giữa bàn “bếp” của tôi - một thứ đồ dán formica tôi mua mất bốn mươi lăm đô tại chỗ bán đồ đạc đã qua sử dụng - là một chiếc phong bì màu nâu dày cộp, mới cứng và được dán kín.
  Nó không có ở đó vào buổi sáng. Lại một lần nữa ai đó từ bên Wyatt đã lẻn vào căn hộ của tôi, cứ như thể họ đang định chứng minh rằng mình muốn vào đâu cũng được. Rồi, biết rồi. Có lẽ họ đoán rằng đây là cách an toàn nhất để đưa đồ cho tôi mà không bị trông thấy. Nhưng với tôi thì nó gần như là lời đe dọa vậy.
  Phong bì chứa một hồ sơ dày về Alana Jennings, đúng như Nick Wyatt đã hứa. Tôi mở nó ra và thấy cả đống ảnh của cô ta, và đột nhiên mất hứng thú với các phím mà Nora Sommers đã gõ. Cô nàng Alana Jennings này, nói trắng ra thì đúng là nóng bỏng.
   
  Tôi ngồi xuống ghế đọc sách và nghiền ngẫm hồ sơ.
  Rõ là đã có khối thời gian, công sức và tiền bạc được bỏ ra cho nó. Thám tử tư đã bám sát cô ta, ghi chép cẩn thận nhất cử nhất động, thói quen và những việc lặt vặt cô ta làm. Có ảnh cô ta đang đi vào tòa nhà Trion, ở hàng ăn với vài người bạn gái, ở câu lạc bộ quần vợt nào đó, tập thể dục ở một trong những câu lạc bộ sức khỏe dành cho nữ giới, bước ra khỏi chiếc xe Mazda Miata màu xanh của mình. Cô ta có tóc đen bóng và mắt xanh, thân hình mảnh mai (nhìn rõ nhờ bộ đồ tập hiệu Lycra). Đôi khi cô ta đeo kính gọng đen dày, loại mà phụ nữ đẹp vẫn đeo để tỏ ra là họ thông minh và nghiêm túc mà vẫn đẹp đến mức có thể đeo kính xấu xí. Chúng thực ra còn làm cô ta trông quyến rũ hơn. Có lẽ đấy mới là mục đích.
  Sau một giờ đọc hồ sơ, tôi biết về cô ta nhiều hơn về bất cứ bạn gái nào của mình. Cô ta không chỉ xinh đẹp mà còn giàu có - mối đe dọa kép. Cô ta lớn lên ở Darien, bang Connecticut, đi học ở trường Miss Porter ở Farmington, rồi tới Yale theo ngành tiếng Anh, chuyên về văn học Mỹ. Cô ta cũng từng theo vài khóa công nghệ máy tính và kỹ thuật điện. Theo bản sao học bạ, cô ta hầu như toàn đạt điểm A và A trừ, và được chọn tới Phi Beta Kappa[10] trong những năm đầu đại học. Được rồi, vậy cô ta cũng thông minh nữa; thế là mối đe dọa gấp ba.
  Người của Meacham đã moi ra được đủ loại thông tin tài chính về cô ta và gia đình. Cô ta có quỹ ủy thác vài triệu đô, nhưng bố cô ta, Giám đốc Điều hành một công ty sản xuất nhỏ ở Stamford còn có danh mục đầu tư đáng giá hơn thế nhiều. Cô ta có hai em gái, một người vẫn đang học ở Wesleyan, người còn lại làm cho Sotheby ở Manhattan.
  Vì cô ta gần như ngày nào cũng gọi cho bố mẹ, có thể dễ đoán là cô ta thân thiết với họ. (Hồ sơ có đính kèm bản hóa đơn điện thoại của một năm, và thật may là có người đã làm nó dễ hiểu cho tôi, tóm tắt xem cô ta thường gọi cho ai nhất). Cô ta độc thân và dường như không hẹn hò ai đều đặn, và đứng tên sở hữu một căn hộ cao cấp ở một khu rất khá giả không xa trụ sở Trion lắm.
  Cô ta đi mua đồ vào mỗi Chủ nhật ở siêu thị bán thức ăn chưa chế biến, và có vẻ là người ăn chay, vì cô ta không bao giờ mua thịt, thậm chí là thịt gà hay cá. Cô ta ăn như một con chim, một con chim của rừng mưa nhiệt đới - rất nhiều hoa quả, dâu, quả hạch. Cô ta không tới quán bar hay đi bù khú, nhưng thỉnh thoảng cũng gọi cửa hàng rượu gần nhà mang đồ tới. Vodka hay uống ở nhà chắc là Grey Goose; rượu gin là Tanqueray Malacca. Cứ một hai lần một tuần cô ta lại đi ăn nhà hàng, và không phải mấy quán như Denny’s hay Applebee’s hay Hooters đâu; dường như cô ta thích chỗ hạng sang với những cái tên như Chakra, Alto, Buzz và Om. Cô ta cũng hay tới các nhà hàng của Thái.
  Cô ta đi xem phim ít nhất một lần một tuần và thường mua vé trước ở Fandago; đôi khi cũng xem những phim cho phái nữ thường thấy, nhưng hầu như là phim nước ngoài. Rõ ràng đây là một người phụ nữ ưa xem phim kinh điển Cây guốc gỗ hơn là xem phim hài Porky. Ôi dà. Cô ta mua nhiều sách trên mạng, từ trang Amazon, Barnes và Noble, thường là các tiểu thuyết nghiêm túc thời thượng, một ít là Mỹ Latin và kha khá cuốn về phim ảnh. Gần đây cũng mua vài cuốn về đạo Phật và sự thông thái phương Tây, và những thứ vớ vẩn kiểu đó. Alana cũng mua vài DVD phim, gồm cả bộ Bố già cũng như các phim đen thập kỷ bốn mươi như Bồi thường gấp đôi. Thật ra thì cô ta đã mua Bồi thường gấp đôi hai lần, một lần là băng video vài năm trước, lần sau là đĩa DVD mua gần đây. Dễ thấy cô ta chỉ mới mua đầu DVD trong vòng hai năm qua; và rõ là cô ta thích nhất phim Fred MacMurray/Barbara Stanwyck cũ kỹ. Cô ta mua hầu như mọi đĩa nhạc của Ani DiFranco và Alanis Morissette.
  Tôi ghi nhớ những thông tin đó. Tôi bắt đầu có hình dung về Alana Jennings. Và tôi bắt đầu vạch ra một kế hoạch.

26
Chiều thứ Bảy, tôi mặc đồ quần vợt trắng (tôi vừa mua buổi sáng - thường thì tôi mặc quần lửng tả tơi và áo phông mà chơi), đeo đồng hồ Ý đắt đến lố bịch mà tôi vừa vung tiền mua gần đây, và đến một nơi rất phô trương và riêng biệt có tên là Câu lạc bộ Tennis và Quần vợt sân tường. Alana Jennings là thành viên của câu lạc bộ này, và theo hồ sơ thì hầu như thứ Bảy nào cô ta cũng chơi ở đây. Tôi đã xác nhận lại thời gian ra sân của cô ta bằng cách gọi tới đây ngày hôm qua và bảo mình đáng lẽ ra có trận đấu ngày mai với cô ta, nhưng quên giờ và không liên lạc được, không biết là mấy giờ nữa? Thật dễ dàng. Cô ta có một trận đấu đôi vào lúc bốn giờ ba mươi.
  Nửa tiếng trước khi đến trận đấu của cô ta, tôi gặp người quản lý thành viên của câu lạc bộ và được dẫn đi xem qua nơi này. Cũng phải mất ít công sức, bởi đây là câu lạc bộ kín; bạn không thể cứ thế từ ngoài đường bước vào được. Tôi đã bảo Arnold Meacham nhờ Wyatt sắp xếp cho một gã giàu có nào đó là thành viên câu lạc bộ - một người bạn của một người bạn của một người bạn, lùi lại vài mức độ như thế từ Wyatt - liên hệ với câu lạc bộ và bảo lãnh cho tôi. Gã đó nằm trong Ban Hội viên, và rõ ràng là tên tuổi của hắn cũng có trọng lượng trong câu lạc bộ, bởi vì Josh, tay Giám đốc Hội viên, xem ra rất vui được dẫn tôi đi xem. Hắn thậm chí còn cho tôi vé vào cửa trong ngày dành cho khách để tôi có thể xem các sân đấu (sân đất nện nhé, cả trong nhà và bên ngoài), có thể vào một trận đấu nào đó nữa.
  Chỗ này là một ngôi nhà theo phong cách kiến trúc Shingle trải dài, trông giống như “biệt thự nông thôn” ở Newport. Nó nằm giữa một bãi cỏ được cắt xén hoàn hảo như mặt biển màu lục bảo. Tôi cuối cùng cũng dứt được Josh ra ở quán cà phê nhờ giả vờ vẫy tay với ai đó tôi quen. Hắn bảo sẽ sắp xếp cho tôi một séc đấu, nhưng tôi bảo không cần, tôi quen mọi người ở đây, tôi sẽ ổn thôi.
  Vài phút sau tôi thấy cô ta. Bạn không thể không thấy cô em này được. Cô ta mặc áo hãng Fred Perry, và có bộ ngực đầy đặn (chả biết tại sao mà mấy bức ảnh theo dõi không thể hiện được điều đó lắm). Đôi mắt xanh lấp lánh. Cô ta vào quán cà phê với một người phụ nữ khác trạc tuổi mình và gọi Pellegrino cho cả hai. Tôi lấy một bàn gần cô ta, nhưng không quá sát và ở đằng sau ngoài tầm mắt. Cái tôi cần là quan sát, nhìn kỹ, lắng nghe và quan trọng nhất là không bị thấy. Nếu Alana để ý tôi thì lần sau muốn la cà xung quanh là mệt đấy. Tôi chẳng phải là Brad Pitt, nhưng cũng chẳng xấu xí lắm; phụ nữ thường hay để ý đến tôi. Tôi phải cẩn thận.
  Tôi không nói được người phụ nữ Alana Jennings đi cùng là hàng xóm hay bạn đại học hay gì nữa, nhưng họ rõ ràng không nói chuyện công việc với nhau. Dễ đoán được rằng họ không làm cùng nhau trong đội AURORA. Thật không may mắn - tôi sẽ không nghe được cái gì hay ho cả.
  Nhưng rồi điện thoại di động của cô ta đổ chuông. “Alana nghe đây,” cô ta nói. Giọng mượt như nhung, êm dịu như ở trường tư, có học thức mà không giả tạo.
  “Thật à?” Alana nói. “Chà, có vẻ anh giải quyết được nó rồi.”
  Tai tôi dỏng lên.
  “Keith, anh vừa cắt giảm thời gian đi được phân nửa đấy, thật tuyệt vời.”
  Chắc chắn cô ta đang nói chuyện công việc. Tôi dịch đến gần hơn một chút để nghe rõ hơn. Phòng ồn ào tiếng cười, tiếng đĩa leng keng và tiếng bóng tennis thịch thịch, làm cho phần lớn những gì cô ta nói rất khó nghe. Ai đó va vào bàn tôi, một gã to con béo bụng, làm ly Coke của tôi rung lên. Hắn cười to, làm mất phần lớn cuộc nói chuyện của Alana. Biến đi, thằng khốn.
  Hắn núng nính đi mất, và tôi lại nghe được thêm chút ít nữa. Giờ cô ta đang nói thì thầm, và chỉ vài mẩu ngẫu nhiên lọt về phía tôi. Tôi nghe thấy cô ta nói: “... ờ, đó là câu hỏi sáu-mươi-tư-tỷ-đô, phải không nào? Giá mà tôi biết được.” Rồi to hơn một chút. “Cảm ơn cho tôi biết nhé - nghe hay đấy.” Một tiếng bíp nhỏ và cuộc gọi kết thúc. “Công việc,” cô ta phân trần với người phụ nữ kia. “Xin lỗi nhé. Tớ ước gì tắt nó đi được, nhưng mấy ngày nay tớ phải giữ điện thoại bật liên tục. Drew kia rồi!” Một thằng cao to đến chỗ họ - khoảng ba mươi, da màu đồng, cơ thể to bè như người chèo thuyền - và hôn lên má cô ta. Tôi để ý thấy hắn không hôn người phụ nữ còn lại.
  “Chào em,” hắn nói.
  Hay thật, tôi nghĩ. Bọn người của Wyatt đã bỏ qua chi tiết Alana rốt cuộc cũng đang hẹn hò ai đó.
  “Chào Drew,” cô ta đáp. “George đâu?”
  “Cậu ấy không gọi em à?” Drew hỏi. “Cái thằng lơ đễnh. Cậu ta quên là mình phải đi với con gái cuối tuần này.”
  “Thế chúng ta không có người thứ tư à?” người phụ nữ kia nói.
  “Tìm ai đó vào vậy,” Drew bảo. “Anh không tin nổi cậu ta không gọi cho em. Đúng là thằng nhút nhát.”
  Một bóng đèn bừng sáng trong đầu tôi. Đột nhiên vứt bỏ kế hoạch làm người quan sát vô danh mà tôi đã lên một cách cẩn thận, tôi ra quyết định táo bạo chỉ trong nửa giây. Tôi đứng lên và lên tiếng. “Xin lỗi.”
  Họ nhìn về phía tôi.
  “Các anh chị cần người thứ tư đúng không?” tôi nói.
   
  Tôi giới thiệu mình bằng tên thật, bảo họ tôi đang xem qua nơi này. Tôi không nhắc tới Trion. Họ có vẻ nhẹ người vì tìm được tôi. Tôi nghĩ họ nhìn cái vợt ti tan chuyên nghiệp hiệu Yonex của tôi và nghĩ là tôi rất khá, dù tôi bảo họ rằng mình chỉ tầm tầm thôi, và lâu rồi tôi chưa chơi. Căn bản thì đúng thế.
  Chúng tôi chọn một sân ở ngoài trời. Ngày hôm nay nắng đẹp và ấm áp, hơi có chút gió. Alana và Drew ở một đội, tôi cùng người phụ nữ kia ở một đội, tên cô ta là Jody. Jody và Alana khả năng ngang nhau, nhưng Alana có dáng chơi uyển chuyển hơn. Cô ta không hẳn là tấn công dữ dội, nhưng có cú đánh trái tay tốt, liên tục trả bóng, liên tục đón bóng, không có di chuyển nào thừa. Giao bóng đơn giản và chính xác: luôn luôn qua lưới. Kiểu chơi của cô ta thật tự nhiên, cứ như là hít thở vậy.
  Thật không may, tôi lại đánh giá thấp Ngài Đẹp Trai. Hắn chơi rất tốt. Ban đầu tôi chơi không vững, khá gượng gạo, và hai lần giao hỏng quả đầu, khiến Jody khó chịu ra mặt. Dù vậy, tôi lấy lại phong độ khá nhanh. Trong khi đó, Drew chơi như thể mình đang chơi trong giải quần vợt Wimbledon của Anh vậy. Tôi càng lấy lại phong độ, hắn càng chơi tấn công, tới mức nó trở nên lố bịch. Hắn bắt đầu tiến đến sát lưới, lấn lên phía trước sân để đón những quả đáng lẽ dành cho Alana, đúng là bám dính lấy bóng. Bạn có thể thấy cô ta nhăn mặt với hắn. Tôi bắt đầu cảm nhận được giữa họ có chuyện gì đó - căng thẳng dâng cao.
  Đang diễn ra ở đây là cả một chuyện khác - trận đấu của hai con đầu đàn. Drew bắt đầu giao bóng thẳng vào tôi, đánh rất mạnh, đôi khi quá xa. Dù giao bóng nhanh dữ dội, hắn lại không điều khiển bóng tốt, rồi hắn và Alana dần thua. Lúc sau tôi cũng tóm được đuôi hắn, đoán được hắn sẽ lấn sân, tôi ngụy trang cú đánh bóng của mình và đánh về phía sau hắn. Ngài Đẹp Trai đã bấm phải cái nút ganh đua cũ trong tôi. Tôi muốn đặt hắn về đúng vị trí. Tôi muốn người đàn bà của gã nguyên thủy đó. Chẳng mấy chốc tôi đổ mồ hôi. Tôi nhận ra mình đang chơi quá hăng say, quá công kích trong cuộc đấu chủ yếu là xã giao này; không hợp lý lắm. Vì vậy tôi chùng xuống và chơi kiên nhẫn hơn, giữ bóng trên không, để Drew tự mắc phải sai lầm.
  Drew tới lưới và bắt tay tôi khi hết trận. Rồi hắn vỗ vào lưng tôi. “Anh chơi cơ bản giỏi lắm,” hắn nói bằng giọng điệu thân mật giả tạo.
  “Anh cũng vậy,” tôi nói.
  Hắn nhún vai. “Tôi phải lo phần lớn sân.”
  Alana nghe được và đôi mắt xanh ánh lên vẻ khó chịu. Cô ta quay sang tôi. “Anh có thời gian đi uống chút gì đó không?”
  Chỉ có Alana và tôi ở dưới “mái hiên”, cách họ gọi khu sàn gỗ lớn nhìn ra các sân chơi. Jody đã kiếm cớ bảo mình phải đi, nhận ra trong cách nói bóng gió gì đó của phụ nữ là Alana không muốn đi cả nhóm. Rồi Drew thấy chuyện gì đang diễn ra và cũng tìm cớ đi nốt, dù không hòa nhã được như thế.
  Cô phục vụ đến và Alana bảo tôi chọn trước, cô ta còn chưa quyết định được mình muốn gì. Tôi gọi một ly Tanqueray Malacca G & T. Cô ta giật mình liếc nhìn tôi, chỉ trong một giây ngắn ngủi rồi lấy lại bình tĩnh ngay.
  “Tôi cũng gọi như thế,” Alana nói.
  “Em sẽ đi xem bọn em có loại đó không,” cô bé phục vụ, một học sinh trung học tóc vàng cột kiểu đuôi ngựa, nói. Một vài phút sau cô bé mang đồ uống quay lại.
  Chúng tôi nói chuyện một lúc, về câu lạc bộ, về các thành viên (cô ta gọi họ là “hợm hĩnh”), về sân chơi (“những sân tốt nhất quanh đây từ trước tới giờ”), nhưng cô ta quá sành điệu để hỏi han chuyện buồn chán anh-làm-nghề-gì. Alana không nhắc tới Trion, và tôi cũng vậy. Tôi bắt đầu thấy sợ đến phần đó của cuộc nói chuyện, không biết tôi sẽ phải làm thế nào để lấp liếm đi sự trùng hợp kỳ lạ rằng chúng tôi đều làm việc ở Trion, và này, em từng làm đúng cái việc tôi đang làm đấy nhé! Tôi không thể tin nổi mình lại tự nguyện chơi cùng với họ, tự nhảy đúng vào quỹ đạo của cô ta thay vì ẩn mình không gây chú ý. Thật tốt là chúng tôi chưa bao giờ thấy nhau ở nơi làm việc. Tôi tự hỏi có phải những người trong AURORA đi bằng cổng riêng không. Dù sao thì rượu gin bốc lên đầu rất nhanh, và hôm nay là ngày nắng đẹp, và cuộc nói chuyện thật trôi chảy.
  “Tôi xin lỗi vì Drew lại quá khích như thế,” Alana nói.
  “Cậu ta chơi tốt lắm.”
  “Anh ấy cũng quá đáng quá. Anh là mối đe dọa. Hẳn mấy chuyện đàn ông. Chiến đấu bằng vợt.”
  Tôi cười. “Giống như trong một câu của Ani DiFranco, không biết em biết không? ‘Vì tất cả mọi công cụ đều là vũ khí nếu bạn biết dùng nó đúng cách.’ ”
  Mắt cô ta sáng bừng lên. “Chính xác! Anh cũng nghe Ani à?”
  Tôi nhún vai. “ ‘Khoa học đuổi bắt tiền bạc, và tiền bạc đuổi bắt chính mình...’ ”
  “ ‘Và những trí óc ưu tú nhất của thế hệ tôi không thể bảo lãnh’,” cô ta đọc nốt. “Nam giới không nhiều người thích Ani.”
  “Vậy chắc tôi là anh chàng nhạy cảm.” Tôi tỏ vẻ thản nhiên.
  “Chắc vậy. Chúng ta thỉnh thoảng đi đâu chơi đi,” Alana nói. Tôi nghe đúng không vậy? Có phải cô ta vừa mời tôi đi chơi không?
  “Hay đấy,” tôi nói. “Thế em thích đồ ăn Thái không?”
Chú thích

[10] Cộng đồng học thuật danh giá, chuyên để vinh danh những thành công trong lĩnh vực nghệ thuật và khoa học tự do.