Chương 13

    
rong những ngày đầu trở lại cuộc sống lang thang, trong cơn khát đầu tiên, trong niềm say sưa trở lại được tự do, Goldmund phải bắt đầu học lại nếp sống nay đây mai đó, không nơi nương tựa, và thời gian không thực tại. Độc lập đối với mọi người, chỉ bị thời tiết xấu và các mùa chi phối, không có mục đích để nhắm tới không có mái nhà trên đầu, không của cải, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp rủi ro mà không phương tự vệ, những người lang thang sống cuộc sống tự phát và dũng cảm, khốn khổ và mạnh bạo. Họ là con của Ađam bị đuổi khỏi thiên đàng, là anh em của những con vật vô tội. Hằng giờ họ nhận từ bàn tay Chúa trời những gì Người ban cho họ: mặt trời, mưa, sương mù, tuyết, nóng và lạnh, sự thoải mái và cảnh cô quạnh tuyệt vọng. Với họ, không có thời gian, không có lịch sử, cũng chẳng có các ý đồ, tham vọng, hay các thần tượng kỳ lạ về sự thịnh vượng và tiến bộ mà người ta tin một cách tuyệt vọng khi có được một mái nhà. Một người lang thang có thể âu yếm hoặc độc ác, khéo léo hoặc vụng về, dũng cảm hoặc nhát gan, trong lòng anh ta luôn luôn là một đứa trẻ, anh ta luôn sống trong một thế giới mới xuất hiện trước buổi bình minh của lịch sử, cuộc sống của anh ta luôn bị dắt dẫn bởi những bản năng và nhu cầu nguyên thủy. Cho dù anh ta thông minh hay dại dột, có một ý thức sâu sắc về sự mỏng manh và không ổn định của bất cứ cuộc sống nào và biết rằng mọi sinh vật đều kéo lê mấy giọt máu nóng của họ đi qua cái giá lạnh của những không gian vô tận, hoặc cho dù anh ta chỉ tuân theo một cách trẻ con và ngấu nghiến các mệnh lệnh từ dạ dày anh ta, luôn luôn anh ta là đối thủ và kẻ thù của người có tài sản và sống tĩnh tại, những người này thường ghét bỏ, khinh bỉ và rất sợ anh ta, bởi lẽ có nhiều điều anh ta không muốn ai nhắc lại với mình: tính chất không ổn định của bất cứ cuộc sống nào, cái chết băng giá và không thể tránh khỏi trong đó cả đất trời đều tắm mình.
Đã lâu rồi tâm hồn - Goldmund hoàn toàn thấm đậm tinh thần của cuộc sống lang thang.
Tuy vậy, trí tuệ và ý chí còn trong người cậu, bản chất nghệ sĩ của cậu đã trao cho cuộc sống ấy, một cái giá trong khi cậu làm cho nó càng cam go hơn. Sự giàu có và sinh sôi nẩy nở của cuộc sống trước hết chẳng là kết quả của những giằng co và mâu thuẫn ấy sao? Cái lý tính lạnh lùng có giá trị nếu người ta không biết đến sự say sưa? Niềm khoái cảm sẽ là gì nếu cái chết không ẩn nấp đằng sau nó? Tình yêu sẽ là gì nếu không có tình trạng muôn thuở và không ngớt xung đột các giới tính?
Mùa hè và mùa thu đã qua; rất vất vả, Goldmund sống còn trong những tháng đói ăn, rồi say sưa trên đuờng đi giữa mùa xuân êm dịu nhiều hương vị. Các mùa trôi qua nhanh quá, mặt trời mùa hè từ trên cao hôm nào cũng xuống quá sớm ở chân mây! Bao năm rồi, dường như Goldmund đã quên là trên mặt đất còn có những điều khác ngoài sự đói ăn và tình yêu, và các mùa cứ thấm thoát qua đi lặng lẽ và dễ sợ, dường như cậu đã hoàn toàn đắm chìm trong thế giới nguyên sơ về các bản năng. Tuy vậy, trong mỗi ước mơ của cậu, trong mỗi cái nhìn trải qua các suy ngẫm khi dừng chân trên các thung lũng đang rực sáng tiết xuân hoặc đượm buồn lúc sang thu, cậu chất chứa trong lòng các ảo ảnh, cậu cảm xúc với tính cách người nghệ sĩ, cậu bị dày vò bởi ý muốn vận dụng trí óc, xua tan tính phi lý của cuộc sống và trao cho nó một ý nghĩa.
Kể từ cuộc phiêu lưu đẫm máu với Victor, bao giờ cậu cũng hành trình chỉ một mình. Một hôm cậu gặp một anh bạn đã dần dần gắn bó với cậu; và về phần mình, lâu lâu sau đó cậu cũng không thể rời bỏ. Nhưng anh ta không phải loại như Victor: Đây là một người đàn ông còn trẻ, trở về sau một chuyến đi Rôma, đội trên đầu chiếc mũ lữ khách hành hương. Anh ta tên là Robert, quê quán ở hồ Constance. Con nhà thợ mỹ nghệ, anh ta có một thời theo học trường các tu sĩ Saint - Gall và từ thời thơ ấu, đã dẫn đầu một đoàn lữ khách đi hành hương ở Rôma. Điều ấy đối với anh ta đã trở thành một ý định, và gặp dịp đầu tiên anh liền tức tốc thực hiện. Anh làm thợ mộc ở xưởng của ông thân sinh, cái chết của bố đã tạo cơ hội cho anh. Bố vừa được chôn cất xong, anh nói với mẹ và chị gái không còn gì giữ anh ta lại được nữa và làm nguôi đi niềm ước ao mạnh mẽ của mình đến Rôma để chuộc các lỗi lầm của bản thân và của bố. Mẹ và chị anh có than vãn và trách cứ cũng vô ích, anh không lay chuyển; thay vì chăm sóc họ, anh lên đường, không được mẹ cầu phúc, chị anh thì buông những lời nguyền rủa giận dữ. Điều thúc đẩy anh trước hết là niềm say mê đi lang thang với một lòng mộ đạo cạn cợt, một nhu cầu nán lại ở các nơi thiêng liêng và các tổ chức sùng tín, một thú vui được tham gia các công việc thờ phụng Chúa, các lễ rửa tội, các đám ma, các lễ nhà thờ có khói hương nghi ngút, dưới ánh sáng các ngọn nến. Anh ta có biết một ít tiếng Latinh, nhưng không phải là do nhu cầu học hỏi đã thu hút tâm hồn thơ trẻ của anh, đúng hơn vốn do ham thích chiêm ngưỡng và có được những giờ phút mơ mộng bình yên trong bóng mờ mờ dưới mái các nhà thờ. Thời còn là trẻ con, anh thích phục vụ các cuộc lễ. Goldmund không coi trọng nhưng có cảm tình với anh ta, cảm thấy có chỗ gần gũi với nhau trong niềm say mê sống  nay đây mai đó và cái xứ sở xa lạ. Vậy đó, trước đây Robert đã từng hài lòng ra đi, cũng đã đến tận Rôma một cách tốt lành, nhận được sự tiếp đãi của vô số các tu viện và nhà cha xứ, trông thấy cái núi non Phương Nam, và cảm thấy hạnh phúc được ở Rôma giữa các nhà thờ và các cuộc lễ, nghe hàng trăm cuộc nhạc lễ và cầu nguyện tại những nơi nổi tiếng và thiêng liêng nhất, nhận các thánh lễ và hít thở lấy khói hương quá mức cần thiết để chuộc lại các tội lỗi thời thanh niên của mình và của ông bố. Anh ta đi trên đường hơn một năm, khi trở về ngôi nhà nhỏ của gia đình, người ta không đón tiếp anh ta như một đứa con thành đồng. Trong thời gian ấy bà chị gánh lấy các trách nhiệm và nắm quyền trông coi nhà cửa, thuê một người thợ cần mẫn rồi lấy người ấy làm chồng, lãnh đạo mọi công việc trong nhà và xưởng mộc một cách thành thạo. Anh ta trở về, nhận thấy mình hoàn toàn không còn cần thiết nữa, và cũng không ai tìm cách giữ khi anh ta sớm ngỏ ý lại ra đi. Anh ta không lấy thế làm buồn, bàn với mẹ trao cho một món tiền nhỏ bà đã tiết kiệm được lại mặc bộ trang phục lữ khách, và không xác định mục đích, anh ta lại lao vào một cuộc hành hương mới qua vùng Đất Thánh với tính cách một lữ khách giáo hồi. Trên nguời anh ta đeo các huy hiệu kim loại, kỷ niệm của những nơi hành hương nổi tiếng, và các chuỗi tràng hạt đã được ban phép lành.
Trên đường đi như vậy, anh ta gặp Goldmund. Anh ta theo chân cậu suốt một ngày, cũng trao đổi các cảm tưởng đi đường, có bận băng qua một thành phố nhỏ đã lạc mất hút với cậu rồi lại gặp ở một nơi khác, và cuối cùng thì cặp kê với nhau, thành bạn đồng hành thông cảm và ân cần giúp đỡ nhau. Goldmund được anh ta rất hài lòng, anh ta tranh thủ bằng cách giúp đỡ cậu những việc lặt vặt, mến mộ trình độ hiểu biết khoa học, trí thông minh và tính dũng cảm của cậu, yêu quý tính trung thực và chịu phục sức khỏe và sức mạnh của cậu. Họ quen tính nết của nhau, bởi lẽ về phần mình Goldmund cũng tốt tính, chỉ có một điều cậu không chịu nổi: Khi trở lại đắm mình trong nỗi buồn và các ý tưởng u ám, cậu một mực không nói không rằng và coi như anh bạn kia không hề có mặt; bấy giờ thì đừng có trò chuyện, hỏi han, an ủi, phải để cho cậu được lặng yên. Robert sớm hiểu được bạn. Từ khi anh ta nhận thấy Goldmund thuộc làu nhiều thơ bằng tiếng Latinh và nhiều bài thơ, tư khi anh ta nghe cậu giải thích các bộ mặt dưới cổng một nhà thờ lớn, từ khi anh ta thấy trên mặt phẳng một bức tường họ đứng tựa nghỉ chân, cậu nhanh tay phác họa những hình người theo cỡ tự nhiên, anh ta coi ông bạn đồng hành của mình là một người được Chúa trời ân sủng và gần như có ma lực quyến rũ. Robert cũng nhận ra cậu là chàng trai được các cô ưu ái và biết cách tranh thủ họ bằng một cái nhìn hoặc một nụ cười; điều này ít làm cho anh ta thích thú nhưng buộc anh ta phải tôn phục cậu.
Cuộc hành trình của họ một hôm bị gián đoạn một cách bất ngờ. Đi đến gần một làng nọ, họ gặp một đám đông nông dân vũ trang gậy gộc, cây sáo và đòn càn tiếp đón, trong khi người cầm đầu la hét từ xa bảo họ phải lập tức quay lui, đi biệt tăm đừng trở lại không thì họ sẽ bị tiêu diệt. Goldmund dừng lại, muốn xem để biết sự thể ra sao, lập tức liền bị ném một cục đá vào giữa ngực. Cậu đang đưa mắt tìm thì Robert đã lẩn trốn như một kẻ bị ma ám. Đám nông dân bước tới với thái độ uy hiếp; Goldmund chỉ còn trông theo anh bạn chạy trốn. Robert đứng đợi, run sợ, ở giữa đồng ruộng dưới một cây thánh giá có tượng Chúa cứu thế treo mình.
- Cậu chạy trốn như một vị anh hùng - Goldmund vừa nói vừa cười - nhưng lũ đồ tồi ấy có gì trong đầu chúng nó? Là chiến tranh chăng? Như thể chúng đưa quân canh có vũ trang ra khỏi ổ của chúng và không muốn cho một ai vào làng! Tôi không hiểu có điều gì đằng sau tất cả những chuyện ấy! Cả hai người đều không hiểu - chỉ qua ngày hôm sau, ở một trang trại cách biệt, họ mới rõ chuyện trang trại ấy gần một ngôi nhà lá, một chuồng bò, một nhà kho, chung quanh có các đụn cỏ dự trữ và nhiều cây ăn trái, tất cả như chìm trong một bầu không khí im lặng kỳ lạ: Không một tiếng nói, không một bước chân, không có tiếng la hét của trẻ con, không có tiếng lưỡi phồ phạt cỏ, tuyệt nhiên chẳng nghe gì cả. Trong một vùng đồng cỏ, một con bò cái vừa ăn cỏ vừa kêu rống, rõ là đã đến lúc cần vắt sữa cho nó.
Hai người đến gần ngôi nhà, gõ cửa: không có tiếng đáp lại. Họ ra phía chuồng bò, cổng chuồng mở toang, bên trong trống không. Họ đến chỗ nhà kho, ánh mặt trời chiếu sáng trên mái rạ mốc meo, cũng chẳng gặp một ai. Ngạc nhiên và lo lắng trước quang cảnh thê lương, họ lại đập cửa ngôi nhà một lần nữa: vẫn không ai đáp lại. Goldmund tìm cách mở cửa, lấy làm lạ là cửa không đóng. Cậu đẩy một cánh và bước vào nhà, thấy im ỉm trong bóng tối. Cậu nói to “Xin chào! Có ai ở nhà không?” Nhưng tất cả vẫn lặng lẽ. Robert đứng trước cửa. Goldmund tò mò, đi vào sâu hơn. Trong phòng bốc lên một mùi kỳ lạ khó chịu và kinh tởm. Bếp đầy tro, cậu lại gần, thổi một hơi. Bên dưới, các đốm lửa lấp lánh trong các khúc củi đã đốt cháy. Bấy giờ cậu trông thấy ở góc phòng trong bóng tối mờ mờ nơi lò sưởi, có một hình thù người ngồi, ai đó ngồi ở một chiếc ghế và đang ngủ, dường như một bà già. Có kêu thét cũng chẳng được gì, ngôi nhà như thể có ma. Cậu thân mật vỗ vai người đàn bà, bà ta không cử động. Bấy giờ cậu trông thấy bà ngồi giữa một mạng nhện bết vào đầu tóc và giăng trên các đầu gối. “ Bà ta chết rồi”, cậu tự nhủ, hơi rùng mình. Để biết rõ sự thực, cậu ra sức thổi vào đám tro tàn cho lửa lóe sáng rồi đốt cháy bùng lên một mớ dăm gỗ để soi rõ bộ mặt của bà già. Dưới mái tóc xám tro, cậu nhận ra gương mặt tái xanh xác chết; một con mắt vẫn mở, ném một cái nhìn lờ đờ và trống vắng. Người đàn bà đã chết, vẫn ngồi trong chiếc ghế. Quái lạ! Không còn có thể làm gì được nữa.
Cầm miếng dăm gỗ chiếu sáng trên tay, Goldmund mò mẫm trong căn nhà và tìm thấy ở xa hơn, trên ngưỡng cửa dẫn vào một gian buồng phía sau có một xác chết khác, một thằng bé chừng tám chín tuổi, mặt mày sưng húp đã biến dạng. Thằng bé nằm dài, mặc áo sơmi, kê đầu trên cửa ra vào, hai nắm tay bé nhỏ siết chặt trong một cử chỉ hoảng sợ. “Người chết thứ hai, Goldmund tự bảo”. Như trong một cơn mộng khủng khiếp, cậu đi sâu hơn vào gian buồng phía sau. Nơi đây các tấm màn cửa đều vén lên, bên trong có ánh sáng ban ngày soi tỏ. Cậu thận trọng tắt miếng dăm gỗ đang cháy, chà dưới chân giày cho đến khi lửa lụi hẳn.
Trong căn phòng có ba chiếc giường, một chiếc không ai nằm. Dưới tấm trải giường màu xám, lớp rạ lòi ra. Ở chiếc thứ hai, có một ai đó: một người đàn ông râu ria xồm xoàn, đầu ngả ra phía sau, cằm và bộ râu dựng lên; có thể đây là một nông dân. Bộ mặt mảnh dẻ của anh ta ánh lên cái sắc màu tái xám kỳ lạ của cái chết; một cánh tay buông xuống gần sát đất. Trên nền nhà nằm nghiên ngả và trống không một chiếc hủ bằng đất dùng để đi lấy nước, nước lênh láng vẫn chưa thấm hết còn đọng lại một vũng nhỏ. Trên chiếc giường tiếp theo một người đàn bà cao lớn và lực lưỡng nằm co quắp, vùi trong phân và cả tấm vải đra; mặt chị ta úp xuống giường, để lộ mái tóc cứng màu giạ hoe vàng óng ánh dưới ánh sáng. Bên mình chị ta, một em gái chừng mười lăm tuổi nằm ôm chặt người đàn bà ấy, như thể bị nghẹt thở dưới cái tấm đra đạp lung tung, mái tóc cũng mang màu giạ hoe vàng, trên bộ mặt của xác chết đã điểm cái vết tái xám.
Goldmund đảo mắt nhìn từ người chết này sang người chết khác. Trên bộ mặt của em bé gái khi đã bị biến dạng còn lưu lại một số nét nó đã trải qua: lo sợ, hãi hùng và bất lực trước cái chết. Trên gáy và các mớ tóc của người phụ nữ đã giãy giụa trong chiếc giường nằm, còn có thể nhận ra nỗi hoảng hốt khiếp đảm và ý chí trốn chạy quay cuồng trên bộ mặt anh nông dân, thể hiện thái độ chống trả, một nỗi đau cố cầm nín; dường như anh ta đã vật vã vô vọng trước khi qua đời và đã giữ một thái độ đáng mặt đàn ông. Bộ mặt xồm xoàn râu ria của anh ta dựng lên, cứng đờ và kiên gan, như thể của một chiếc bánh ngã xuống với trận mạc. Tư thế người đàn ông trong cuộc chống chọi thầm lặng, với hai hàm răng, siết chặt toát ra vẻ đẹp của nó: anh ta tỏ ra không phải là một con người tầm thường hèn nhát, cam chịu nhận lấy cái chết. Xác thằng bé nằm úp sấp trên ngưỡng cửa trông thật thương tâm; bộ mặt của nó không biểu hiện điều gì, nhưng tư thế của nó nằm gối đầu ở bậu cửa với hai nắm tay trẻ con siết chặt đã nói lên rất nhiều: nỗi đau đớn bất lực trong khi muốn tự vệ, quằn quại chống lại. Gần sát bên đầu nó là cái lỗ tròn đục ở cánh cửa cho mèo tiện ra vào.  Goldmund lặng nhìn cảnh ấy. Không phải cậu không thấy gớm ghiếc trong ngôi nhà lá ấy; các xác chết đã bốc mùi hôi thối tởm lợm. Tuy vậy, tất cả cái điều ấy đối với cậu có một sức hấp dẫn săn sóc, có tính cao quí, tính định mệnh, rất thực, rất trực tiếp; có một cái gì trong đó khơi gợi tình thương của cậu, và thấm sâu trong tâm hồn cậu.
Trong thời gian ấy, Robert đứng ở bên ngoài, lo lắng và mất kiên nhẫn, bèn lên tiếng gọi Goldmund có cảm tình với Robert, không vì thế mà bấy giờ cậu ít cảm thấy làm sao một con người đang sống với nỗi sợ hãi, tính hiếu kỳ, cả tính khờ khạo của họ lại trở nên ti tiện và bé nhỏ đến thế  khi đối mặt với những người chết. Cậu không đáp lại Robert, hoàn toàn đắm mình chiêm ngưỡng các tử thi với một trạng thái hỗn tạp kỳ lạ giữa lòng trắc ẩn và óc quan sát lạnh lùng mà những nhà nghệ sĩ thường cảm nhận. Cậu xem xét tỉ mỉ các thi thể nằm ngồi ở đó, cả bà già trên chiếc ghế; các chiếc đầu, các bàn tay, các thái độ của họ còn lưu lại ở tư thế chết. Trong ngôi nhà lá có ma ấy nơi im ắng làm sao! Cái mùi ấy mới kỳ lạ và dễ sợ làm sao! Ngôi nhà nhỏ vốn có người ở ấy nay còn lại một ít củi lửa đang cháy âm ỉ trong lò sưởi, cùng mấy xác chết, đầy rẫy và thấm đậm sự hiện diện của cái chết mới quái dị và ảm đạm làm sao! Rồi đây da thịt sẽ sớm tách ra khỏi các gò má trên các khuôn mặt lặng lẽ ấy, và lũ chuột sẽ nhai ngấu nghiến các ngón tay. Những gì đối với những người khác xảy ra trong quan tài và trong mộ, ở những nơi ẩn kín tốt lành không ai có thể trông thấy được, sự biến đổi cuối cùng và khốn khổ nhất trong các biến đổi, sự phân hủy, thối rữa, thì năm con người ấy chịu đựng ngay tại nhà họ, trong phòng của họ dưới ánh sáng ban ngày, các cửa sổ đều mở toang, không hề lo nghĩ, không chút thẹn thùng, không phương tự vệ. Goldmund đã từng chứng kiến nhiều xác chết nhưng một cảnh tương tự như vậy về sự tác động không sao tránh được của cái chết thì cậu chưa hề nhìn thấy. Cậu tiếp nhận cảnh tượng ấy sâu lắng tận đáy tâm hồn mình.
Sau cùng, các tiếng thét của Robert trước cửa bứt cậu ra khỏi dòng suy ngẫm, cậu bước ra. Anh ta đưa mắt nhìn Goldmund lo âu.
- Chuyện gì vậy hả? - Anh ta hỏi thì thầm giọng nói đầy sợ hãi - trong nhà không có ai sao? Cặp mắt cậu sao lạ thế? Nói đi nào!
Goldmund nhìn người bạn với thái độ khinh bỉ và lạnh lùng.
- Đi vào trong nhà đằng ấy khắc tự biết lấy. Quả là một trang trại kỳ lạ! Rồi sau đây chúng ta sẽ đi vắt sữa con bò ở đằng kia. Vào đi!
Robert ngập ngừng bước vào căn nhà lá, đi thẳng đến lò sưởi. Nhìn thấy bà già ngồi trên chiếc ghế anh ta liền thét lên khi nhận ra bà cụ đã chết. Anh ta vội vàng quay lưng đi ra, đôi mắt như lồi ra khỏi tròng.
- Lạy Chúa cao cả! Có một người đàn bà chết ngồi trong nhà ấy! chuyện gì thế nhỉ? Tại sao không có ai bên cạnh bà ta nhỉ? Tại sao họ không chôn cất bà ta? Ôi Chúa tôi! Có mùi rồi.
Goldmund mỉm cười.
- Robert anh vẫn ra bộ anh hùng hảo hán lắm! Sau lại gấp gáp thối lui thế?
Một bà già chết ngồi như vậy trên ghế hẳn rồi, là một cảnh tượng tuyệt, nhưng nếu có thể anh nên đi thêm mấy bước nữa, sẽ còn thấy hay hơn nhiều. Robert, trong nhà có năm người, ba người trong giường, một thằng bé chết nằm dài trên ngưỡng cửa. Tất cả đều đã qua đời. Cả gia đình đều đã ra đi, cả nhà chết hết. Vì vậy, mà không có ai vắt sữa bò.
Anh bạn nhìn cậu hoảng hốt, rồi đột nhiên thét lên với một giọng nói tắc trong cổ:
- Ôi bây giờ mình mới hiểu tại sao đám nông dân không muốn cho chúng ta vào làng của họ. Chúa tôi, bây giờ đối với mình tất cả đã rõ ra. Nạn dịch hạch! Goldmund à! Đây là bệnh dịch hạch. Vậy mà bạn ở trong đó lâu quá, có thể anh đã sờ vào người chết! Ra ngoài đi! Đừng có mà lại gần mình! Chắc hẳn bạn lây bệnh rồi! Goldmund, mình lấy làm tiếc, mình phải rời xa bạn thôi, mình không thể ở với bạn được.
Anh ta muốn tẩu thoát ngay, nhưng một bàn tay nắm vạt áo lữ khách hành hương của anh ta lại. Goldmund ném lên anh ta một cái nhìn nghiêm khắc, lặng lẽ tỏ ý bất bình, và giữ chặt anh ta không thương tiếc, mặt anh ta cố sức chống chọi, vùng vẫy.
- Anh bạn bé nhỏ của tôi - cậu nói với giọng dễ mến và hơi chế giễu - Bạn ranh mãnh hơn là người ta tưởng đó. Bạn nói đúng, quả vậy. Đi qua một làng nữa, càng rõ. Chắc hẳn bệnh dịch hạch đang lây lan trong vùng. Rồi sẽ xem chúng ta có an toàn ra khỏi nơi đây hay không. Nhưng anh bạn Robert à, tôi không thể để cho ông tới được. Nhìn đây! tôi mang một tâm hồn sẵn lòng trắc ẩn và một trái tim dễ xúc cảm. Khi tôi nghĩ bạn có thể lây bệnh ở trong ấy, và nếu tôi để cho bạn ra đi thì rồi bạn sẽ nằm dài tại một nơi nào đó ở một đám ruộng để chết một mình, chẳng có ai vuốt mắt cho bạn, chôn cất và bỏ cho bạn một nắm đất - không đâu, anh bạn thân mến, tôi đang nghẹt thở vì lo buồn đây. Cho nên bạn hãy nghe lời tôi và nhớ lấy lời tôi nói, tôi không van nài bạn đến lần thứ hai đâu: Cả hai chúng ta cùng trải qua nguy hiểm, có thể bạn hoặc tôi sẽ lây bệnh. Vậy thì chúng ta cùng đi với nhau cùng chết với nhau cả hai người, hoặc cả hai đều thoát khỏi bệnh dịch tai ác này! Nếu chẳng may bạn lâm bệnh và qua đời, tôi sẽ chôn cất bạn, hứa chắc như vậy. Còn nếu tôi phải chết, bấy giờ bạn muốn làm sao thì làm, bạn chôn cất tôi hay bỏ mặc rồi ra đi, đối với tôi cũng chẳng sao. Nhưng từ đây đến đó, đừng có mà bỏ đi, nhớ lấy điều ấy. Chúng ta cần tương trợ nhau. Bây giờ thì câm mồm đi, tôi không thiết nghe gì nữa cả. Hãy đi tìm đâu đó ở chuồng bò một chiếc xô, sau đây chúng ta đi vắt sữa bò. Câu chuyện lúc ấy đã diễn ra như vậy, Goldmund điều khiển, và Robert nghe theo, cả hai người cùng có nhau, thấy dễ chịu. Robert không tìm cách tẩu thoát nữa, rồi vui lòng tỏ ý hòa giải:
- Một chốc lát thôi, mình sợ bạn. Ra khỏi nhà những người chết, bộ mặt bạn chẳng làm cho mình thích thú chút nào. Mình nghĩ là bạn đã lây bệnh dịch hạch. Nhưng nếu không mắc bệnh dịch hạch thì cũng chẳng vì thế mà bạn khác lạ chút nào. Có phải quang cảnh bạn nhìn thấy trong đó khủng khiếp lắm không?
- Không có gì dễ sợ đâu - Goldmund đáp lại chậm rãi, ngập ngừng - Tôi chỉ nhìn thấy ở đó những gì đang đón chờ chúng ta, tôi, bạn và mọi người, kể cả trong trường hợp chúng ta không mắc bệnh dịch hạch.
Tiếp tục đi, họ sớm nhận ra khắp vùng đang bị nạn dịch hạch tàn hại. Có làng người ta không cho bất cứ ai vào, ở những làng khác họ đã tùy ý đi lại trên các ngả đường. Nhiều trang trại bị bỏ hoang vắng, khách vãng lai nhiều người chết thối rữa trong nhà, ngoài đồng không được chôn cất. Đứng trong chuồng, nhiều bò và dê cái không có ai vắt sữa, ngoài bìa rừng dê con và lợn con nằm chết ở đây đó, có những hầm rượu vang, rượu táo trở nên vô chủ. Họ tha hồ vắt sữa, uống rượu, kiếm thức ăn, sống đầy đủ nhưng đâu có được hoàn toàn vui thú. Robert luôn luôn sợ lây bệnh, cứ nhìn thấy xác chết là cảm thấy ớn, tâm thần rối loạn vì lúc nào cũng tưởng mình đã mắc bệnh, cậu thường nhìn hai bàn tay mình sưởi ở bếp lửa coi như đó là một phương thuốc; khi ngủ thì chốc chốc sờ nắn da trên người mình, khắp cả chân tay, dưới vai xem có nổi hạch không.
Goldmund  thường la rầy, mỉa mai anh ta, không chia xẻ với anh ta các nỗi lo sợ cũng như chán chường. Cậu đi qua các vùng đất của những người chết, buồn, căng thẳng, chịu đựng sức thu hút dễ sợ trước cảnh nhiều người qua đời hàng loạt, cảm thấy bão hòa với mùa thu hùng vĩ ấy, se lòng với khúc hát của lưỡi hái tử thần đang quờ quạng ở khắp đó đây. Khuôn mặt Bà mẹ vĩnh cửu đôi khi lại xuất hiện với cậu: Một gương mặt xanh tái của người đàn bà khổng lồ với đôi mắt của con quái vật Méduse và nụ cười mang nặng nỗi khổ đau, chết chóc.
Một hôm hai người đến một thành phố nhỏ mới trông có vẻ như đang được tăng cường bảo vệ. Ngang tầm các ngôi nhà từ cửa vào, một con đường chạy vòng quanh các tường thành nhưng ở bên trên không có các trạm gác, cửa thành mở toang cũng không có ai trông coi. Robert từ chối bước vào thành phố và khuyên bạn không nên vào. Bỗng họ nghe có tiếng chuông; một linh mục đi qua ngưỡng cửa, hai tay nâng chiếc thánh giá, đằng sau ông có ba chiếc xe, hai chiếc xe ngựa kéo và một chiếc xe bò, bên trên chất đầy các xác chết. Đi hai bên, mấy người phu mặc những chiếc áo choàng kỳ lạ, giấu mặt trong bao mũ, lo điều khiển các con vật đi tới, Robert thoái lui lẩn tránh, mặt mày tái xám. Goldmund  đi theo các xe ma một đoạn đường ngắn chừng một trăm bước. Không phải người ta đến nghĩa địa mà giữa một vùng đất thê lương, một cái hố sâu chừng ba lát xẻng nhưng rộng như một gian phòng. Goldmund nhìn các phu dùng cái cây gậy có móc và các chiếc kẹp để dỡ các xác chết từ trên xe rồi đẩy xuống hố; vị linh mục lẩm nhẩm cầu kinh, nâng cao chiếc thanh giá trước mặt, sau đó bước đi; các phu đốt lửa cháy bùng khắp  bốn phía ngôi mộ chung rồi lặng lẽ ra về, không có ai đắp đất lại trên bề mặt. Cậu quan sát: có chừng năm mươi xác chết, bỏ nằm xuống đó chồng lên nhau, phần nhiều lõa lồ; đây đó quờ quạng một cánh tay, một bắp chân đã cứng đờ trong những cử chỉ đau đớn, một vạt áo sơmi bay bay trong gió.
Khi quay trở lại, Robert gần như quì xuống van lơn bạn nên nhanh chóng cùng ra đi. Anh ta có lý do để khẩn khoản như vậy:Anh ta nhìn thấy trong đôi mắt lơ đãng của Goldmund sự lầm lạc, sự ám ảnh của một tâm hồn bị cuốn hút bởi nỗi kinh hoàng và tính hiếu kỳ trước cảnh tượng ấy. Anh ta không sao giữ người bạn của mình lại được. Goldmund đi một mình vào thành phố.
Cậu đi vượt qua các chiếc cổng không có người canh gác; trong âm vang các bước chân của cậu trên mặt đường và giữa các suy nghĩ, vọng lại các kỷ niệm cậu đã trải qua ở bao nhiêu thành phố nhỏ và bao nhiêu chiếc cổng cậu đã vượt qua. Cậu từng nghe thấy các tiếng thét, các trò chơi của trẻ con, các cuộc gây gổ của các bà, các cô, các tiếng búa đập nhịp nhàng trên đe, tiếng các bánh xe lăn, và mọi âm thanh hằng tiếp đón cậu dù dịu hay xẵng cũng đều hòa tấu thành một mạng với tất cả tính đa dạng trong nỗi gian lao của con người, và hát lên ngợi ca sự làm việc, sự hoạt động, niềm vui  và cuộc sống xã hội. Còn ở đây, dưới vòm trời trống rỗng này, trong con đường hoang vắng này, chẳng có một âm vang nào, không một tiếng cười, một tiếng la hét, tất cả đều đứng sững trong không khí tĩnh lặng của cái chết, đến nỗi nước chảy ri rỉ vào một bồn nước cũng tạo nên một cảm giác inh ỏi. Đằng sau một cánh cửa sổ mở, một cửa hiệu xuất hiện giữa những khoanh và ổ bánh mì nhỏ. Goldmund đưa tay chỉ một chiếc bánh bé; người bán hàng thận trọng trao cho cậu qua một chiếc xẻng dài, đợi cho cậu đặt tiền lên đó liền vội khép kín cửa sổ, không kiếm chuyện. Trước cửa sổ một ngôi nhà đẹp có cả dãy chậu đất nung, bình thường thì các cây kiểng nở đầy hoa nhưng lúc này tất cả héo tàn, chỉ còn trơ những chiếc chậu. Ở một ngôi nhà khác, nghe có tiếng khóc nấc và tiếng thét thất vọng của trẻ con. Nhưng bên đường gần đó, Goldmund  trông thấy qua khung cửa trên cao một cô gái xinh đẹp đang chải tóc. Cậu đăm đăm nhìn cho đến lúc cô cảm nhận có người để ý đến mình, và đưa mắt nhìn xuống. Cô gái bỗng đỏ mặt, và khi cậu gởi đến cô một nụ cười lịch thiệp thì cô cũng mỉm cười lại, thấp thoáng, ung dung trên bộ mặt ửng hồng.
- Em đã chải tóc xong chưa? Cậu nói với lên - Mỉm cười, cô gái nhìn qua khung cửa sổ, để lộ gương mặt tươi sáng.
- Em chưa ốm sao? - Cậu hỏi. Cô gái lắc đầu - vậy thì hãy đi theo anh ra khỏi thành phố của những người chết. Chúng ta cùng đi vào rừng, giữa không khí trong lành.
Cô gái đưa mắt dò hỏi nhìn cậu.
- Đừng có mất thì giờ suy nghĩ lâu thế. Anh nói đứng đắn mà! - Goldmund hét to. Em ở nhà với ba mẹ hay là giúp việc những người xa lạ hả?
- Những người không bà con.
- Vậy thì cô gái xinh đẹp, xuống đây.
Để cho những người già chết theo số phận của họ. Chúng ta còn trẻ và lành mạnh, chúng ta muốn còn có một ít thời gian tốt đẹp của chúng ta. Cô gái tóc nâu, xuống đây đi, cuộc sống sẽ tươi vui hơn.
Cô gái nhìn cậu, ngờ vực, ngập ngừng, ngơ ngác.
Cậu tiếp tục đi chầm chậm, dạo qua một đường phố hoang vắng, rồi một đường phố khác, và quay trở lại, bước đi không vội vã. Cô gái vẫn đứng tựa cửa sổ, nghiêng mình ra ngoài, tỏ ý vui mừng thấy cậu trở lại. Theo cô ta ra hiên, cậu bình tĩnh đi; không lâu sau đó, cô đi theo và đuổi kịp Goldmund  trước cổng thành phố, trên tay xách một chiếc túi nhỏ, đầu quấn chiếc khăn đỏ.
- Em tên chi vậy? - Cậu hỏi?
- Lene, em đi theo anh. Ở thành phố này gay go lắm, người ta chết hết. Nào, chúng ta đi đi!
Ra đến vùng phụ cận thành phố, Robert ngồi xổm dưới đất, tâm trạng bực bội. Thấy Goldmund đến anh ta định tiếp tục đi, bỗng trố mắt nhìn thấy cô gái. Lần này, anh ta không giữ được kiên nhẫn nữa, cằn nhằn và ra mặt bực bội. Đưa đi theo một cô gái từ các hốc bị dịch hạch này và mong anh ta chịu đựng làm bạn đồng hành thì quả là điên rồ, chẳng khác chi thử lòng Chúa trời; anh ta quyết từ chối, anh ta không dính dáng đến nữa.
Goldmund cứ đi để cho Robert bực bội và cằn nhằn cho đến lúc anh ta thôi hẳn.
- Tốt. Đã khá lâu, anh cùng cánh với tôi. Bây giờ hãy đến với chúng tôi, anh sẽ hài lòng là chúng ta đánh bạn với nhau tốt đẹp. Nàng tên là Lene, nàng sẽ ở bên tôi. Nhưng bây giờ tôi cũng muốn tạo cho bạn một niềm vui. Robert nghe đây: Chúng ta sẽ sống hòa thuận với nhau, và chúng ta giữ được sức khỏe tốt, để cho bệnh dịch hạch lùi xa. Chúng ta sẽ đi tìm một nơi tốt lành có một căn nhà lá bỏ trống, hoặc chúng ta dựng lên một căn nhà lá. Tôi và Lene ở đó, là chủ nhà, và anh sẽ là bạn của chúng tôi, cùng sống với chúng tôi. Phải là mái nhà của chúng ta, ít nhiều tử tế và vui vẻ. Bạn bằng lòng chứ?
- Ôi vâng - Robert hoàn toàn tán thành. Miễn là đừng buộc anh ta bắt tay Lene hoặc sờ vào áo xống của cô ta.
Không đâu - Goldmund nói lại - không ai yêu cầu bạn điều đó, thậm chí cấm bạn đụng đến Lene cho dù chỉ với một ngón tay.
Họ tiếp tục lên đường, thành một bộ ba, lúc đầu im lặng, rồi dần dần cô gái lên tiếng. Cô ta sung sướng lại đuợc nhìn trời, cây cỏ; còn ở nơi kia thật là khủng khiếp, cái thành phố mắc bệnh dịch hạch. Không sao tả xiết. Rồi cô kể lại, giải tỏa lòng mình khỏi mọi hình ảnh u ám cô đã phải nhìn thấy. Cô kể lại đủ thứ chuyện, những chuyện xấu xa, thành phố nhỏ ấy hẳn là một địa ngục. Một trong hai ông thầy thuốc đã chết, người còn lại chỉ đến với các nhà giàu có, ở nhiều nhà, người chết vẫn nằm đó, bị thối rữa vì không có ai đưa họ đi. Nhưng ở những nhà khác, có những kẻ trong đám phu dọn xác chết đi ăn trộm, chè chén say sưa; họ kéo ra khỏi giường những người đã chết và ca những bệnh nhân, vất người ta lên chiếc xe chở xác, rồi đem tấp xuống các hố, lẫn người chết với người còn sống. Cô gái có mọi chuyện để kể, không ai ngắt lời cô; Robert nghe khiếp sợ, đôi mắt long lanh; Goldmund im lặng, lãnh đạm, để cho nàng mở hết bầu tâm sự đầy những chuyện kinh hoàng, mà không nói gì. Còn có thể nói gì nữa? Rốt cuộc, Lene mệt nhoài, lời đã cạn, thiếu các từ ngữ để diễn đạt. Bấy giờ Goldmund đi chậm lại, lên giọng hát một ca khúc dìu dịu gồm nhiều đoạn, qua mỗi đoạn tiếng hát càng vang hơn; Lene mỉm cười, Robert thì lắng nghe, vui vui và ngạc nhiên - chưa bao giờ anh ta nghe Goldmund hát. “Anh chàng Goldmund  này, cái gì cũng biết làm! Cứ thế, cậu ta bước tới và hát, một kiểu người đến kỳ lạ!” Goldmund hát có nghệ thuật, giọng hát  trong suốt, không căng âm sắc; nghe qua đoạn hai. Lene hát thì thầm rồi hòa giọng đồng ca với chàng. Chiều xuống, sau vùng đồng đất xa xa, các cánh rừng dựng lên mờ phủ, và tít sau đó nữa, cái dãy đồi xanh thẫm dường như càng sẫm màu hơn. Khúc hát của họ vang vang, lúc thì vui vẻ, lúc trang nghiêm, hòa nhịp với bước chân của họ.
- Hôm nay, bạn vui lắm! - Robert nói.
- Ừ, đương nhiên mình vui, hôm nay mình vui. Mình tìm được cô bạn rất xinh đẹp. Ôi Lene! May mắn làm sao các phu dọn xác chết đã để em lại cho anh! Ngày mai, chúng ta tìm một tổ ấm nho nhỏ, sống tốt lành bên nhau; chừng nào da thịt và bộ xương của chúng ta còn cùng nhau giữ vững, chúng ta mãi hạnh phúc. Lene, em thấy không, trong rừng đã sang thu, có những cây nấm lớn loài sên rất thích và người có thể ăn được?
- Ôi! Vâng - nàng vừa đáp vừa cười - em đã trông thấy nhiều bận.
- Lene à, tóc em cũng nâu nâu như màu cây nấm, trông ngon miệng lắm! Hát một bài nữa nhé? Hay là em đói rồi? Trong túi anh, còn những món ăn tốt đó…
Sáng hôm sau, họ tìm được những gì họ đang cần. Trong một khu rừng bạch dương, có một căn lều xếp bằng những khúc gỗ, có lẽ do những người thợ rừng hoặc những người đi săn đã dựng lên. Bên trong trống không, cửa đóng dễ tháo ra; đến Robret cũng cho đây là một chỗ ở tốt, và tại vùng này, không khí trong lành. Trên đường, họ gặp mấy con dê lang thang không người chăn dắt, họ bắt một con mang theo đến nơi nghỉ lại.
- Này Robert  Goldmund nói - tôi biết anh không phải là thợ đóng sườn nhà, tuy vậy trước đây anh đã từng làm thợ mộc. Chúng ta sẽ ở đây. Anh đi dựng một vách ngăn tòa lâu đài của chúng ta ra làm hai gian: một cho Lene và tôi, một cho anh và con dê. Chúng ta chẳng có gì lắm để ăn, chiều tối nay đành uống sữa dê, có thể có ít hoặc nhiều. Vậy anh đi làm vách ngăn đi; hai chúng tôi lo chuẩn bị chỗ nằm cho tất cả chúng ta. Sáng mai, tôi sẽ đi tìm kiếm thực phẩm.
Cả ba người bắt tay vào việc. Goldmund và Lene đi lấy lá dương xỉ và các lớp rêu về làm nệm giường. Robert mài con dao của mình, đi chặt các cành đưa về làm vách ngăn. Tuy nhiên, anh ta không thể làm cho xong kịp nên tối hôm ấy anh ta nằm ngoài trời. Goldmund  gặp được Lene, một cô bạn hợp tính tình, dịu dàng, bẽn lẽn và chưa từng trải, nhưng rất âu yếm. Cậu ôm nàng xiết nhẹ trên ngực mình, nghe tim nàng đập cho đến khi nàng mệt và không còn ham muốn nữa, rơi vào giấc ngủ sâu. Cậu hít lấy mùi vị bộ tóc nâu của nàng, ôm chặt nàng trong khi nghĩ đến các hố rộng quá cạn, nơi đám phu quỷ quái đem đổ vào đó các xe xác người chết. Cuộc sống tốt đẹp, nhưng hạnh phúc thoáng qua, đẹp nhưng tuổi trẻ chóng tàn.
Chiếc vách ngăn hai gian nhà trông xinh xắn; cả ba người rốt cuộc đã hoàn thành các công việc. Robert muốn tỏ ra mình thạo việc, hăng hái giải thích mình sẽ tiến hành ra sao nếu như có được một chiếc bàn thợ mộc, các dụng cụ, một ê ke và đinh. Bởi chỉ có chiếc dao và hai bàn tay, anh đành chặt mười hai cây bạch dương con và đem trồng chúng ở nền căn lều, vách ngăn thô vụng nhưng chắc chắn. Theo ý mình, anh ta chặt về một bó cây đậu kim, bịt kín các kẻ hở. Tuy mất thì giờ, công việc đem lại kết quả thấy vui mắt và đẹp, cả ba người cùng làm.
Ngừng tay, Lene đi hái các quả dâu tằm và trông con dê, Goldmund thì đi xem trong vùng và một số nơi lân cận để kiếm thực phẩm, mang về thức này thứ khác. Không có một ai sống chung quanh Robert cảm thấy yên tâm và rất hài lòng: Như vậy khỏi lây bệnh, lại tránh được xảy ra xung đột, nhưng cũng có trở ngại, ít tìm được cái ăn. Cách không xa có một ngôi nhà lá của nông dân bỏ hoang, lần này trong nhà không có người chết; Goldmund đưa ý kiến nên tới đó cùng ở tốt hơn, nhưng Robert cự tuyệt, đáp lại với giọng run rẩy, còn tức giận về việc Goldmund đã vào một ngôi nhà không người, yêu cầu những gì từ đó mang về đều phải đem thiêu hủy hoặc rửa sạch trước khi Robert đụng tay vào. Không tìm được gì mấy ở nơi ấy, nhưng cũng có hai chiếc ghế đẩu, một chiếc xô để đựng sữa, ít dĩa bằng đất nung, một cái rìu. Một hôm, cậu còn bắt được hai con gà ở ngoài đồng. Lene yêu và được hạnh phúc, và cả ba người đều có niềm vui mỗi ngày thêm một cái gì đó dưới mái nhà nhỏ của họ, làm cho trong nhà đẹp hơn. Thiếu bánh mì; họ thay vào bằng cách kiếm thêm được một con dê thứ hai nữa và phát hiện ra một đám đất trồng củ cải. Ngày lại ngày trôi qua. Chiếc vách ngăn đan đầy cây dâu kim đã xong; các ổ để nằm ngủ cũng được cải thiện, và họ đã dựng lên một mái nhà.  Ra suối cũng gần, nước trong và sạch. Thường thường họ vừa ca hát vừa làm việc.
Một hôm, họ đang uống sữa và trò chuyện, tỏ ý lấy làm vui trong cuộc sống ấy dưới cùng một mái nhà, thì Lene bỗng nói với một giọng mơ màng:
- Nhưng rồi đến mùa đông chúng ta sẽ ra sao?
Không ai đáp. Robert cười. Mắt nhìn mất hút tận đâu đâu, Goldmund có vẻ lạ lẫm. Dần dần Lene nhận ra không ai nghĩ đến mùa đông, không ai thực sự nghĩ đến việc lưu lại đây mãi ngôi nhà này không phải có một mà thôi, chỉ là nơi ở tạm của những người sống lang thang. Nàng buồn bã cúi đầu.
Với một giọng hồn nhiên như nói với trẻ con, Goldmund bảo:
Lene à, em là con gái nông thôn. Những người như em luôn lo liệu trước. Đừng sợ. Em sẽ  lại gặp một ai đó ở nhà em khi bệnh dịch hạch đã qua đi. Tai họa này không kéo dài mãi mãi đâu. Khi ấy em sẽ trở về với bố mẹ hoặc với những người thân thuộc khác, hoặc em lại đi giúp việc ở thành phố để kiếm sống. Còn hiện nay chúng ta đang trong mùa hè; khắp xứ này đâu đâu cũng là cảnh chết chóc, trong khi ở đây yên lành, chúng ta sống dễ chịu. Vậy thì chúng ta cùng ở đây chừng nào chúng ta thích, cuộc sống của chúng ta dài dài trong chừng mực nó còn kéo lê được.
- Thế sau đó? Lene vội vàng thốt - Sau đó, thế là hết? Và anh sẽ ra đi, em rồi ra sao?
Goldmund đưa tay nắm lọn tóc tết, kéo nhẹ nàng lại gần mình:
- Cô bé ngốc! Em đã quên đám phu dọn xác chết, các ngôi nhà hoang, các hố lớn đào trước cửa nhà với các đám lửa cháy rồi sao? Em cần phải vui vì đã không nằm trong hố ấy và mưa đã không đổ xuống làm ướt áo em. Em cần phải nghĩ là em đã thoát thân, và em còn cảm nhận cuộc sống tốt lành trên chân tay em, cũng như em còn có thể cười và hát.
Lời nói ấy đâu có đủ để an ủi cô gái.
- Nhưng em không muốn đi - nàng than thở - và em cũng không muốn anh ra đi. Đừng, anh nhé!
Làm sao có thể hạnh phúc khi người ta biết rằng chẳng bao lâu nữa, tất cả sẽ chấm dứt, tan tác?
Goldmund vẫn đáp lại với giọng trìu mến nhưng thoáng có ý đe dọa:
- Lene bé bỏng của anh, ở trên cao kia, mọi bậc hiền triết và các vị thánh đều nát óc. Đâu có niềm hạnh phúc dài lâu! Nhưng nếu như những gì hiện nay chúng ta đang có không đủ cho em và không làm cho em vui lòng thì anh lập tức đốt cháy căn lều rồi chúng ta sẽ ra đi mỗi người mỗi ngả. Lene ơi, đến đó thôi, cũng đủ rồi đó.
Họ dừng lại, nàng nhân nhượng, nhưng một bóng đen trùm lên niềm vui của nàng, hạnh phúc quả là mong manh.