Chương 5

    
ho đến bây giờ Goldmund giữ lại của mẹ một số kỷ niệm, nhưng là qua các câu chuyện của những người khác kể lại. Hình ảnh của mẹ không còn sống động nữa trong cậu và cậu chỉ trao cho Narcisse một phần rất nhỏ từ những gì ít ỏi cậu cho là mình biết về bà.  Mẹ cậu là một đề tài người ta không có quyền nói đến. Người ta xấu hổ về bà. Đó là một gái nhảy, một phụ nữ kiều diễm sống rất gần tự nhiên, gốc gác rất cao trong thang bậc xã hội nhưng không trong sạch và nghịch đạo. Bố Goldmund, theo như ông kể, đã nhặt bà ta trong cảnh nghèo hèn và nhục nhã. Bởi vì không biết là bà ngoại đạo, ông đã nhờ rửa tội va dạy về tôn giáo cho bà.Ông đã làm lễ thành hôn với bà, tạo thành một phụ nữ có phẩm giá và trao cho bà một chỗ đứng quan trọng. Nhưng chỉ được mấy năm chịu phục thiện và sống bình thường, bỗng nhiên bà lại chứng nào tật ấy, trở lại với lối sống cũ, gây ra chuyện bê bối, quyến rũ đám đàn ông, bỏ nhà ra đi nhiều ngày nhiều tuần lễ, nổi tiếng là một mụ phù thuỷ. Cuối cùng ông đi tìm bà, nhiều lần đưa về nhà với mình, rồi bà lại ra đi biệt tăm. Trong một thời gian, kỷ niệm về bà vẫn còn lại dưới dạng thanh tích bất hảo bùng cháy như một đuôi sao chổi rồi tắt ngấm. Ông chồng dần dần hồi phục sau những năm lo lắng, sợ hãi, và… bận nhọc nhiều bà đã dành cho ông, thay bà vợ giở quẻ, ông chăm sóc thằng bé, như thể cái bóng và bộ mặt của bà, và dạy con. Trở nên cau có và mộ đạo, ông phát triển ở Goldmund niềm tin là cậu phải dâng hiến đời mình cho Chúa để chuộc lại cái lỗi lầm của mẹ.
Đó hầu như là tất cả những gì ông bố Goldmund thường kể về bà vợ ông là đã biệt tăm mặc dù ông không muốn nói đến chuyện ấy. Vừa rồi gởi gắm con trai mình, ông bố có nói xa nói gần như vậy với tu viện trưởng. Cậu bé có dịp biết chuyện đó như một huyền thoại hãi hùng nhưng cậu đã học cách gạt các kỷ niệm ấy đi và gần như đã lãng quên. Còn về gương mặt đích thực của mẹ, cậu hoàn toàn không còn nhớ gì; bà đã tan biến hình ảnh ấy khác hẳn, khác với những gì bố cậu hoặc đám đầy tớ đã nói, hoặc với những lời bép xép về cuộc sống phóng túng của bà. Cái ký ức về mẹ, đúng như bản thân cậu đã sống thực sự, không còn dấu vết gì. Nay ảo ảnh ấy, ngôi sao trùm lên thời tuổi thơ của cậu lại biểu hiện ở cậu.
- Em không thể hiểu được làm sao con có thể quên điều đó. - Goldmund nói. - Trong đời, em chưa hề yêu ai bằng mẹ em với cung cách tha thiết và tuyệt đối như vậy. Em chưa hề cung kính và mến một ai đến thế, mẹ là mặt trời, mặt trăng đối với em. Chúa biết làm thế nào để có thể làm mờ nhạt đi trong tâm hồn em gương mặt rạng rỡ ấy và dần dần biến mẹ em từ bao nhiêu năm nay thành một mụ phù thuỷ phi thực tại và lu mờ đối với bố em và đối với em.
Narcisse mới kết thúc thời kỳ tập tu và đã được mặc áo. Thái độ của thầy đối với Goldmund  thay đổi một cách kỳ lạ. Trước đây Goldmund thường phản bác lại các ý kiến và các lời khích lệ của anh bạn, qua đó cậu chỉ thấy ý định quấy rầy và sốt sắng không phải lúc. Từ hôm sự kiện lớn xảy ra, cậu có thái độ đầy mến phục và ngạc nhiên trước khả năng minh triết của anh bạn. Bao nhiêu lời nói của anh đã thành hiện thực như là những điều tiên tri! Cái nhìn của anh nhập sâu vào tâm khảm cậu; đứng trước mặt anh, cậu cảm thấy rùng mình! Anh đã suy đoán chính xác điều bí mật trong đời cậu, nhìn thấy vết thương dấu kín của cậu và đã chữa lành bao tài tình!
Bởi lẽ chàng trai dường như đã hết bệnh. Trạng thái ngất xỉu của cậu không chỉ không có hậu quả xấu đáng tiếc; trong bản tính của Goldmund, đó là những gì vừa trẻ con vừa vô bổ vừa giả tạo. Cái tinh thần ấy muốn đi tu quá sớm, niềm tin ấy về một sự mời gọi đặc biệt dành cho việc phụng thờ Chúa, tất cả đã rữa tan. Chàng trai đang lớn lên, về toàn bộ, dường như trẻ hơn và già hơn kể từ khi cậu tìm ra con đường của bản thân, cậu chịu ơn Narcisse về điều đó.
Những từ ấy, Narcisse ứng xử với chú bạn của mình với một ý tứ rất thận trọng; trước mặt chú bạn, thầy tỏ ý rất khiêm tốn, không còn ra vẻ bề trên nữa, tránh mọi biểu hiện thông thái rởm. Thầy có cảm tưởng Goldmund đã lấy lại được sức lực cho mình từ những nguồn bí ẩn xa lạ với thầy. Thầy có thể thúc đẩy việc tạo ra các dòng chảy nhưng không hề có phần trong đó. Thầy rất vui nhìn thấy chú bạn từ bỏ được sự đỡ đầu của mình tuy đôi lúc cũng thấy buồn về điều ấy. Thầy có cảm tưởng mình không còn có mặt nữa sau một hành trình đã vượt qua, như thể một trái cây người ta đã bóc vỏ vứt đi. Thầy nhận thấy bước kết thúc của mối tình bạn ấy mà đối với thầy rất quý báu. Về Goldmund, thầy luôn hiểu chú hơn bản thân Goldmund, bởi lẽ nếu như chú đã lấy lại thần hồn và cảm thấy sẵn sàng nghe theo lời gọi của mình, chú không có một mảy may ý tứ nào về cái xứ sở từ đó lời gọi ấy hằng dẫn dắt cậu. Về phần mình, Narcisse cảm nhận rõ điều đó, nhưng vốn khoa học của thầy quả là vô dụng: các con đường của chú bạn thân yêu của thầy dẫn đi từ những vùng mà chú chưa từng bước chân đến. Thị hiếu của Goldmund đối với khoa học đã giảm đi nhiều. Trong các câu chuyện với anh bạn của mình, cậu không còn thú vị tranh cãi nữa; cậu nhớ lại các cuộc trao đổi trước đây trong lòng thấy buồn. Mới gần đây, dưới ảnh hưởng của thời kỳ tập tu thầy vừa hoàn thanh hoặc tiếp theo sau sự cải biến thầy vừa tạo nên ở Goldmund trong tâm tư thầy xuất hiện một nhu cầu hư về ẩn dật, tu khổ hạnh, rèn luyện tinh thần, một khuynh hướng muốn nhịn ăn, cầu nguyện nhiều giờ, thường xưng tội, tự mình trừng phạt. Goldmund hiểu được nhu cầu ấy và cậu đạt đến cùng chia sẻ với anh bạn. Từ khi lành bệnh, cậu cảm thấy bản năng của mình tăng thêm nhiều sức lực. Tuy cậu hoàn toàn chưa biết đời mình sẽ hướng theo những mục đích nào nhưng cậu cảm thấy rất rõ kèm theo với nỗi lo âu là số phận của mình đang được chuẩn bị. Một thời thơ ngây, bình yên, đợi chờ và giữ ý nay đã kết thúc; mọi sức mạnh hé mở ở cậu từ nay cũng ra và  được tô điểm. Với cảm giác lờ mờ ấy, cậu thường thấy thú vị khi ban đêm chợt tỉnh giấc và như đã dự vào một giấc mộng yêu đương dịu dàng, cậu cũng thường buồn vẩn vơ và lo âu nặng nề. Cậu tìm thấy lại mẹ mình sau bao thời gian mất biệt đó là niềm hạnh phúc tột cùng, nhưng lời gọi của mẹ sẽ đưa cậu về đâu? Đến những điều không chắc chắn và phức tạp trong cuộc sống tình cảnh khốn khó, và có thể đến cái chết. Chắc chắn nó không đem lại cảnh sống bình yên, êm dịu, an toàn trong phòng kín cua tu sĩ, trong cộng đồng ở tu viện: Lời gọi ấy không có gì chung với các mệnh lệnh của bố cậu mà từ lâu cậu lẫn lộn với các nguyện ước của bản thân. Chính trong cảm nhận ấy, âu lo và nóng bỏng như thể một cảm giác mạnh mẽ của cơ thể ấy  lòng mộ đạo của Goldmund đã bắt rễ. Trong cac lời cầu nguyện thường lặp đi lặp lại với Đức Mẹ thánh thiện của Chúa, cậu để chảy tuôn niềm âu yếm tràn đầy vốn kéo cậu đến với mẹ cậu. Nhưng nhiều khi các lời cầu nguyện của cậu kết thúc trong những cơn mộng kỳ lạ và tuyệt diệu mà nay cậu hay bắt gặp: những giấc mộng giữa ban ngày, các giác quan nửa thức tỉnh, cậu mơ thấy mẹ, và cả cơ thể cậu dự vào các giấc mộng ấy. Bấy giờ thế giới mẫu tử trùm lên cậu hương vị của nó, đưa mắt nhìn cậu buồn rầu và bí ẩn, trĩu nặng tình yêu, xào xạc trong các chiều sâu của nó như thể dưới biển và trên thiên đàng, bập bẹ những âm thanh âu yếm, vô nghĩa hoặc đúng hơn, tràn trề các ý nghĩa đưa vào miệng cậu vị ngọt và mặn, lướt trên mắt và môi cậu vốn thèm khát các mái tóc mịn màng. Và điều cậu phát hiện ra ở mẹ, đó không chỉ là tất cả sưc quyến rũ của thiên hạ: Màu thanh thiên trong cái nhìn dịu dàng mang nặng yêu thương, vẻ duyên dáng của nụ cười mỉm, lời hứa hẹn hạnh phúc, niềm an ủi tuôn ra từ các cử chỉ âu yếm; cũng có cả đâu đó ở mẹ, ẩn giấu dưới vẻ yêu kiều ấy tất cả sự hãi hùng, mọi bóng tối, mọi ham muốn thèm khát, tất cả sự lo âu, tội lỗi, toàn bộ cảnh cô đơn khốn quẫn, mọi ràng buộc của sự sản sinh và sự chết chóc.
Chàng trai ngập chìm trong các cơn mộng mị ấy, trong tấm lưới phức tạp của các ý nghĩa và các biểu tượng của chúng. Đó không phải chỉ là những niềm vui thú của dĩ vãng xuất hiện trở lại, phát huy một lần nữa sức quyến rũ của chúng: Tuổi ấu thơ và tình yêu mẹ con buổi sớm mai vàng tươi rực rỡ của cuộc sống; ở chúng cũng rung động cái ngày mai với các mối uy hiếp và các hứa hẹn, các sức thu hút và các hiểm hoạ của nó. Trong các giấc mộng ấy, bấy giờ mẹ cậu, Đức mẹ và người tình chỉ là một, đôi khi xuất hiện với cậu sau đó như những tội ác ghê sợ và những lời xúc phạm, như thế có chịu các tội chết thì cậu cũng không bao giờ chuộc được, có những lần khóc cậu thấy ở chúng sự giải thoát hoàn toàn và hài hoà hoàn hảo. Cuộc sống bí ẩn nơi ấy nhìn xoáy vào cậu: một thế giới bóng đêm không sao thâm nhập được, một vùng rừng lởm chởm những bụi cây gai nhọn, đầy rẫy những hiểm hoạ hoang đường nhưng điều bí ẩn ấy là bí mật của tình mẹ con: nó đến với mẹ, nó dẫn tới mẹ, nó là cái vòng tròn đen tối, vực thẳm đầy rẫy những mối đe doạ dưới đáy con mắt lóng lánh của mẹ.
Nhiều việc bị lãng quên từ tuổi ấu thơ của cậu trỗi lên trên các cơn mộng ấy. Từ những đáy sâu thăm thẳm không dò, từ những cõi không thể đến được, những bông hoa nhỏ của kỷ niệm nở rộ trong ánh vàng một cái nhìn, phảng phất một mùi hương nồng của sự dự đoán mơ hồ: Những kỷ niệm về các xúc cảm tuổi thơ có lẽ có liên quan với các sự kiện có thật, với các cơn mộng mị. Đôi khi cậu mơ thấy những con cá đen và lấp lánh ửng vàng bơi lội về phía mình, gặp cậu, ngang qua cậu,  là những sứ giả của một thế giới đẹp hơn, mang đến những tin mới mừng hạnh phúc, rồi vừa quẫy đuôi vừa đi xa và biến mất như những chiếc bóng chỉ lui lại sau đó những điều bí ẩn mới và không có các thông điệp. Thường thường cậu thấy trong các giấc mộng những đàn cá bơi lội, những đàn chim trời bay lượn, và mỗi con chim, mỗi con cá là sản phẩm sáng tạo của cậu,  phục tùng theo ý muốn của cậu, tuân thủ sự chỉ dẫn của cậu như thể hơi thở của chính cậu, toả sáng từ cậu như thể một trong cái nhìn của cậu, như thể một trong những ý tưởng của cậu, trở về với cậu. Thường thường cậu mơ thấy một ngôi vườn, một ngôi vườn diệu kỳ có những hàng cây như thể trong các chuyện cổ, với những đoá hoa mỏng manh, mơ thấy những hang động xanh xanh sâu thẳm, lẫn trong các đám cỏ chiếu long lanh những con mắt rực sáng của những loài thú chưa từng biết đến, trên các cành cây bao nhiêu là rắn trơn láng treo mình giận rỗi, trên các giàn nho và bụi bờ lủng lẳng  các trái mọng to, ẩm ướt và rực rỡ. Qua bàn tay cậu đưa ra hái, các trái cây lớn phổng thêm và tiết ra một loại nước giống như máu hoặc mở trừng những con mắt buồn rầu nhìn đảo có vẻ thâm độc. Giang tay tựa mình vào một thân cây, cậu nhìn thấy và cảm nhận cả một mớ tóc dày lẫn với lông trong các kẽ  nách. Một lần cậu nằm mơ thấy bản thân hoặc vị thánh đỡ đầu của mình, Goldmund Chrysostome, người có cái miệng vàng qua đó thốt ra các từ, và các từ ấy là một bầy chim nhỏ ra đi, bay ngang lưng trời.
Một bận, cậu trải qua một cơn mộng khác: cậu cao lớn và là người thanh niên, nhưng ngồi bệt dưới đất như một đứa trẻ, hai bàn tay nhào đất sét và nặn các hình thù như một chú nhóc. Từ đất thó hiện ra nào một con ngựa nhỏ, một con bò đực, một cậu bé, một phụ nữ nhỏ nhắn và hiền từ. Cậu vui thú với trò chơi ấy, cậu cho các con vật và các con người làm các động tác giao hợp thô lỗ; và trong mộng, cậu thấy hay hay với cách đùa nghịch ấy. Chơi chán, cậu tiếp tục đi, bấy giờ cảm thấy đằng sau mình có cái gì sống động lặng lẽ đến gần, cậu quay lại rất ngạc nhiên và sợ sệt - nhưng không phải là không vui - cậu bỗng thấy các bộ mặt nhỏ bé bằng đất thó ấy lớn lên và có đầy sức sống linh hoạt. Người và thú vật đều cao lớn, đông đúc, lặng lẽ diễu hành trước mặt cậu, rồi tiếp tục lớn hơn nữa, di tản trong thiên hạ, lặng lẽ như những cái bóng khổng lồ rướn cao lên như những ngọn tháp.
Cậu sống trong các mộng mị của mình nhiều hơn là trong thực tại. Thế giới thực: lớp học, sân chơi trong tu viện, tủ sách, phòng ngủ, nhà thờ nhỏ đều bồng bềnh như một lớp da mong manh run rẩy bọc ngoài cái thế giới phi thực của những hình tượng tràn đầy mộng ảo. Một điều không đâu cũng đủ để chọc thủng lớp màng mỏng ấy, một điều gì đó có tính khơi gợi của một từ Hy Lạp giữa tiết học, một hương vị từ chiếc túi đi lấy cây thuốc của cha Auselme, một con mắt nhìn dán vào chiếc cành cây rậm lá bằng đá ướt át trên cây cột đỡ vòm cửa sổ - những rung động nhỏ nhỏ kiểu ấy, thế cũng đủ để chọc thủng lớp da bọc cuộc sống thực tại và làm kích động, đằng sau cái hiện thực tĩnh lặng khô khan, các vực sâu, các ghềnh thác và các giải ngân hà của cái thế giới ấy, các hình tượng của tâm hồn. Một chữ cái đầu một từ La tinh biến thành khuôn mặt thơm tho của mẹ, một âm tiết kéo dài của tiếng Avê trở thành cánh cửa thiên đàng, một chữ Hy lạp hoá ra một con ngựa đang phi tốc lực, một con rắn vểnh đuôi trườn đi lặng lờ giữa những đoá hoa - và sau đó, thay vào chỉ có trang sách khô khan về văn phạm.
Hiếm khi cậu nói về điều đó; chỉ một vài bận, cậu có ám chỉ đến trong khi chuyện trò với Narcisse về thế giới các cơn  mộng mị.
- Em nghĩ, - cậu nói -, một cánh hoa hoặc con sâu nhỏ trên đường đi chứa đựng và bộc lộ ra nhiều chuyện hơn mọi  cuốn sách của cả thư viện. Với các con chữ và các từ, người ta  chẳng có thể nói lên được chi. Đôi khi con viết một con chữ Hy Lạp bất kỳ, một thêta, hoặc một ômêga, em chỉ cần quay một tị ngòi bút, vậy là ngòi bút vẽ ra một chiếc đuôi và trở thành một con cá, gợi lên trong phút chốc mọi con suối và mọi dòng sông trên mặt đất, toàn bộ vẻ tươi tắn và ẩm ướt của nó, đại dương của Homère và các làn nước thánh Pierre đã đi trên đó, hoặc con chữ biến thành một chú chim nhỏ vểnh đuôi, xoè lông, gồng mình lớn thêm, cười rồi bay đi. Anh Narcisse nè! Chắc em không coi trọng các con chữ ấy chăng? Nhưng em nói với anh rằng chính với các con chữ ấy Chúa đã viết nên cuộc sống thế gian.
- Trái lại, điều anh coi trọng - Narcisse nói lại, giọng buồn buồn - đó là những con chữ kỳ ảo, với chúng người ta có thể xua đuổi mọi lũ ma quỷ. Ôi! Với những gì để đưa các khoa học tiến lên, chúng chẳng ích chi. Trí tuệ thích những gì cố định, những gì có hình dạng có thể tin cậy vào các dấu hiệu, nó yêu cái gì đang tồn tại chứ không yêu cái từ đó sẽ tiến triển, điều thực tại chứ không phải điều khả dĩ. Nó không khoan dung với việc chữ ômêga hoá ra một con rắn hoặc một con chim. Trí tuệ không sống trong tự nhiên mà đối mặt với nó. Bây giờ chú có tin không khi anh nói với chú rằng chú sẽ không bao giờ là nhà thông thái?
Ôi! Đương nhiên lâu nay Goldmund vẫn tin anh bạn; về điểm ấy, cậu đồng tình.
- Em không còn say sưa chạy theo cái trí tuệ của anh nữa - cậu vừa nói vừa cười - cũng như trí tuệ và khoa học của bố em. Em tin là em thương ông nhiều và giống ông; tất cả những gì bố em nói đối với em là lời kinh thánh. Nhưng vừa mới lại hiện diện trong em thôi, em biết thế nào là tình yêu; và bên hình ảnh mẹ em hình ảnh bố em bỗng trở nên tầm thường, mơ nhạt và ít gây thiện cảm. Bây giờ thì em có khuynh hướng coi tất cả những gì có tính trí tuệ như thuộc lĩnh vực của bố, như không có ý nghĩa mẫu tử, trái với tinh thần mẹ con và em có phần coi nhẹ.
Thầy đùa vui nhưng không thể xua đuổi vẻ buồn trên mặt chú bạn. Narcisse nhìn Goldmund lặng lẽ, cái nhìn như thể vuốt ve. Rồi thầy nói.
- Anh hiểu rõ chú, nay chúng ta không có gì tranh cãi, em đã thức tỉnh và nay em cũng thừa nhận rằng chúng ta khác biệt nhau, sự khác biệt giữa tâm hồn và trí tuệ. Và bây giờ em cũng sẽ không chậm nhận ra rằng cuộc sống ở tu viện của em và cảm hứng của em với điều kiện tu hành là một điều sai lạc, một sự xếp đặt của bố em hôm qua đó rửa sạch lỗi lầm trong ký ức về mẹ em hoặc có lẽ chỉ nhằm trả thù bà. Liệu em có còn nghĩ rằng số phận của em là suốt đời ở tu viện?
Đắm chìm trong suy nghĩ, Goldmund nhìn hai bàn tay của anh bạn, đôi bàn tay tinh tế, vừa khắc khổ vừa âu yếm, gầy gò và trắng trẻo. Không ai có thể ngờ rằng đó là những bàn tay của người tu hành và nhà thông thái.
- Em không biết nữa - Cậu nói với giọng ngân nga, hơi ngập ngừng, dừng lại chậm rãi ở mỗi âm vốn là cách nói của cậu từ gần đây. - Em thực sự không biết. Anh phán xét về bố em có phần nghiêm khắc; cuộc sống của ông ấy không dễ dàng. Nhưng về điều ấy, có lẽ anh cũng có lý. Đến nay em học ở trường tại tu viện đã ba năm, thế mà ông chưa một lần đến thăm. Ông hy vọng em sống suốt đời ở đây. Có thể đó cũng là giải pháp hơn cả. Em chẳng mong muốn như vậy đó sao? Nhưng hiện nay em không biết rõ những gì em thực sự thích và muốn. Trước đây mọi chuyện đều giản đơn, cũng giản đơn như các chữ trong tập sách vỡ lòng. Bây giờ thì không có gì giản đơn, thậm chí các chữ cũng không. Tất cả đều mang rất nhiều ý nghĩa và rất nhiều bộ mặt. Em không biết rồi em sẽ ra thế nào, đó là những điều mà lúc này em  không thể suy nghĩ được.
- Cũng chẳng cần nghĩ đến. - Narcisse nói. - Người ta sẽ thấy rõ con đường của em đưa em đi đâu. Nó bắt đầu bằng việc trả em về với thân mẫu em và còn làm cho em gần bà hơn nữa. Còn những gì về ông thân sinh em, sự xét đoán của anh không quá nghiêm khắc. Em có muốn trở về bên ông ấy không?
- Narcisse, không, quả là không.
Nếu có thì em đã về sau khi em học xong, hoặc thậm chí ngay bây giờ đây. Bởi lẽ em không hề trở thành một nhà thông thái, trong khi em đã học khá nhiều tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp và toán. Không đâu, em không trở về nhà bố em.
Đôi mắt suy tư của cậu lạc vào nơi xa xăm, bỗng nhiên cậu thốt lên:
- Nhưng làm sao anh cảm thấy được để luôn nói với em những lời hoặc đặt cho em những câu hỏi đưa lại cho em ánh sáng và giúp em hiểu rõ bản thân em? Bây giờ nữa, câu hỏi liên quan đến ý thích của em về việc ở nhà với bố em, nó bỗng chỉ ra em không muốn về. Làm sao anh cảm thấy được điều ấy? Anh có vẻ biết mọi chuyện. Anh nói với em bao nhiêu điều về anh và về em mà em chưa hiểu, ngay khi nghe anh nói, nhưng rồi sau đó đối với em, chúng đều cực kỳ quan trọng. Chính anh đã bảo rằng em mang hình bóng mẹ em và anh đã phát hiện ra rằng em sống theo sự chi phối của một sức quyến rũ và rằng em đã quên mất tuổi thơ của em. Từ đâu, anh có được khả năng thấu hiểu mọi người ấy? Em cũng có như vậy không?
Narcisse lắc đầu, mỉm cười.
- Không, chú em thân mến, em không thể có được. Có những người có thể học rất nhiều, nhưng em không nằm trong số ấy.
Em sẽ không bao giờ nằm trong số những người phong phú bằng học vấn. Ích gì chứ? Em không cần điều đó. Em có những năng khiếu khác. Em có nhiều khả năng trời phú hơn anh, em phong phú hơn anh và em cũng yếu đuối hơn. Em có trước mắt một con đường đẹp hơn và gian nan hơn anh. Đôi khi chú không muốn nghe anh, thường đá hậu anh như một chú ngựa con. Không phải bao giờ cũng dễ dàng, đôi khi anh buộc phải làm cho em đau, rất đau. Anh cần phải làm cho em thức tỉnh, vì em đang ngủ. Bằng cách gợi nhớ lại mẹ em, trước tiên anh khiến em phải đau xé ruột gan; người ta đã tìm ra em nằm sóng sượt như chết rồi ở hành lang để đi dạo. Điều đó cần cho em. Đừng, đừng vuốt ve mái tóc anh. Không, không đâu, đừng làm thế! Điều đó, anh không chịu được.
- Và như vậy, em không thể học được chi. Em cứ mãi ngu ngốc, mãi mãi là một đứa trẻ?
- Sẽ tìm ra cách khác để em có thể học. Điều em có thể học ở anh là nay em không còn trẻ con nữa.
- Ôi! Không đâu - Goldmund thốt - không phải vì thế mà chúng ta trở thành bạn bè của nhau! Một tình bạn trải qua một thời kỳ ngắn ngủi đã đạt đến đích, rồi là sự chấm dứt thì còn ra sao? Anh chán em rồi phải không? Có phải anh không còn cách nào làm cho em đau xót hơn?
Narcisse đi đi lại lại bực bội, mắt cúi gằm xuống đất, rồi dừng lại trước mặt bạn.
- Em cứ đi, em biết rõ là anh luôn luôn thú vị với quan hệ bạn bè của chúng ta.
Thầy nhìn chú bạn với con mắt do dự, tiếp tục đi đi lại lại rồi dừng chân, và từ bộ mặt khô khốc và gầy gò, Narcisse áp lên người Goldmund cái nhìn tự tin.
- Goldmund, em nghe đây. Tình bạn bè của chúng ta tốt đẹp nó có một mục đích và đã đạt được nó, thức tỉnh em. Anh hy vọng nó không chấm dứt. Anh hy vọng nó sẽ không ngừng đổi mới và tiến đến các mục đích mới. Lúc này thì chưa thấy có điều chi khác. Mục đích của em chưa rõ ràng, anh không thể dắt dẫn hoặc đi theo em. Em hãy hỏi mẹ, hỏi hình ảnh của mẹ em và lắng tai nghe. Mục đích của anh không phải không rõ ràng, là ở đây, trong tu viện này. Cuộc sống ấy gọi anh hằng giờ. Anh có quyền là bạn của em, nhưng anh không được quyền yêu. Anh là tu sĩ. Anh đã đọc lời nguyện ước. Trước khi nhận dòng tu, anh sẽ rút khỏi các chức trách dạy học và ở tách riêng trong nhiều tuần lễ để nhịn ăn và rèn luyện lòng hiếu đạo. Trong thế gian ấy, anh không nói một câu chuyện nào về thế tục, kể cả với em.
Hiểu ý, Goldmund nói buồn buồn:
- Như vậy, anh sẽ làm những gì em cũng làm nếu em vào các dòng mãi mãi. Và khi anh đã xong các buổi tập luyện, nhịn đói đủ rồi, đã cầu nguyện và thức đêm bấy giờ mục đích của anh là gì?
- Em biết điều đó. - Narcisse đáp.
- Đúng thế sau đây mấy năm anh sẽ nhận chức danh giáo sư, có lẽ là hiệu trưởng nhà trường. Anh sẽ cải tiến công tác giáo dục, mở rộng thư viện. Có lẽ, anh cũng viết sách? Chứ không à? Vậy anh sẽ không viết sách. Thế thì mục đích của anh là gì?
Narcisse thoáng mỉm cười.
- Mục đích ư? Có lẽ anh làm hiệu trưởng trường học hoặc tu viện trường, hoặc giám mục cho đến chết. Cái đó không quan trọng. Mục đích là thế này: Tự đặt mình vào nơi anh có thể phụng sự mục đích anh tốt nhất, ở đó bản tính, các phẩm chất và các khả năng phú cho của anh tìm ra được mảnh đất tốt, trường hành động, rộng rãi hơn cả. Không có mục đích nào khác.
Goldmund: - Không nhằm mục đích làm một tu sĩ?
Narcisse: - Ồ, có chứ. Các mục đích, đâu có thiếu. Có thể đó là đối tượng cuộc sống của một tu sĩ, học tiếng Hébreu, bình luận Aristote, hoặc trang trí nhà thờ một tu viện, hoặc làm hàng trăm việc khác.
Đối với anh, đó không phải là mục đích. Anh không muốn phát triển nguồn của cải của tu viện, cũng không muốn cải cách dòng đạo hoặc Nhà thờ. Trong chừng mực có thể của mình, anh muốn phụng sự tinh thần theo như anh hiểu, không có gì khác. Có phải đó là một mục đích?
Suy nghĩ hồi lâu, Goldmund đáp:
- Anh có lý! Em đã là một cản trở ngại lớn trong hành trình của anh đến mục đích của anh?
- Một trở ngại ư? Ôi Goldmund không một ai giúp đỡ anh bằng em. Em có tạo cho anh những khó khăn, nhưng anh không là một kẻ thù của các khó khăn. Chính các trở lực đã dạy cho anh nhiều điều, anh đã vượt qua từng phần.
Goldmund cắt lời, vừa nói vừa cười nửa miệng:
- Anh đã vượt qua cái khó khăn một cách tuyệt vời! Nhưng anh hãy nói với em: Bằng cách giúp đỡ em, hướng dẫn, giải phóng em, trả lại sức khoẻ cho tâm hồn em, có phải  anh đã đích thực phụng sự tinh thần. Chắc hẳn như vậy, anh đã đánh mất của tu viện một tập tu đầy  lòng nhiệt thành và ý chí tốt lành; có lẽ anh đã đứng lên chống lại tinh thần như một kẻ thù nghịch, một kẻ hành động, tin, và theo đuổi những gì đi ngược lại điều anh vốn tin là tốt đẹp!
- Sao không? Narcisse nói, trang nghiêm.- Chú bạn, chú hiểu anh còn quá ít?
Chắc là anh đã dập tắt mất ở chú một tu sĩ tương lai; và ngược lại anh mở ra với chú con đường hướng tới một số phận khác thường. Cho dù ngày mai chú có đốt cháy tu viện đẹp đẽ của chúng ta và ra đi loan báo với thiên hạ đôi điều là thuyết điên khùng, anh vẫn không hối tiếc có lúc đã giúp chú tìm ra con đường của chú.
Thầy đặt một cách bạn bè hai bàn tay mình trên vai Goldmund.
- Chú bạn thân yêu, này đây nữa một điều hoà hợp với mục đích của anh. Dù anh là giáo sư, tu viện trưởng, linh mục nghe xưng tội hoặc là gì đi nữa, anh không bao giờ muốn có cơ hội gặp lại một người có chân giá trị đầy sức mạnh và tính đặc thù mà anh không hiểu người ấy, không giúp anh ta phát triển nở rộ và tiến lên phía trước. Và anh nói với chú: Cho dù có chuyện gì xảy ra với chú và với anh,  cho dù cả hai chúng ta biến thành theo kiểu này hay kiểu khác, khi nào chú nghiêm túc gọi anh và chú tin là cần đến anh, sẽ không bao giờ chú thấy anh giả điếc làm ngơ với chú, không bao giờ đâu. Lời nói ấy vang lên như một câu nói từ biệt, quả thật đó là một ấn tượng báo trước rồi sẽ có sự giã từ. Đứng đó trước mặt anh bạn, ngắm nhìn anh trong vẻ quả quyết với con mắt hướng về mục đích của anh, Goldmund cảm thấy rõ họ là anh em, và bạn bè với nhau trên cùng một bình diện, cho dù các con đường của họ đã tách biệt họ với nhau. Người đứng trước mặt cậu không phải là một kẻ mơ mộng, và không chờ đợi các lời gọi của số mệnh; đó là một tu sĩ, người ấy đã dấn thân, đã hiến dâng mình cho một dòng tu cụ thể và một bổn phận, người ấy là một nô bộc, một người lính của dòng tu và Nhà thờ, của tinh thần. Còn về phần cậu, - nay với cậu đã rõ ràng - đây không phải là chỗ của cậu, cậu không có tổ quốc; một thế giới cậu chưa biết đến đang đón chờ cậu. Cũng như trước đây đối với mẹ cậu. Bà đã bỏ nhà ra đi, bỏ gia đình, chồng con, bỏ cuộc sống cộng đồng và trật tự xã hội, bổn phận và danh dự, để ra đi vô định, đến nơi chắc hẳn từ lâu bà đã bị chìm đắm. Bà không có một mục đích nào, cũng như cậu đâu có mục đích. Có chăng mục đích là hiến mình cho mọi người, chứ không phải vì bản thân - Ôi! Narcisse thấy rõ điều ấy từ lâu rồi, anh có lý bao nhiêu!
Mấy hôm sau đó không lâu, có thể nói Narcisse biến mất. Dường như không thể tìm ra thầy. Một ông giáo khác lên lớp thay, ngăn bàn của thầy ở tu viện trở nên trống vắng. Thầy vẫn còn đó, không phải thầy hoàn toàn vô hình. Người ta có thể nhìn thấy thầy đi dạo dưới hành lang, người ta có thể đôi khi nghe thầy cầu nguyện ở một trong các nhà thờ nhỏ, quì gối trên sàn nhà. Người ta biết thầy bắt đầu cuộc ẩn cư lớn, thầy nhịn ăn và mỗi đêm thức dậy ba lần để rèn luyện tinh thần hiếu đạo. Thầy vẫn còn ở, đó thế nhưng đã chuyển qua một thế giới khác. Người ta có thể nhìn thấy thầy - hiếm khi thôi - nhưng không gặp được thầy, không có điều gì cùng chung với thầy, không thể trò chuyện với thầy. Goldmund biết điều ấy, cậu lại xuất hiện, lại ngồi vào chỗ của mình ở lớp học, ở nhà ăn, cậu lại trò chuyện, nhưng những gì là Goldmund  trước đây nay không trở lại nữa. Narcisse không còn là của cậu nữa. Nghĩ đến điều ấy, cậu hiểu rõ rằng chỉ có một mình Narcisse  làm cho cậu yêu quí, coi trọng tu viện và cuộc sống ở đó, văn phạm và khoa học logic, sự học tập và sự tư duy. Tấm gương của thầy đã lôi cuốn cậu theo, lý tưởng của cậu đã từng giống như của thầy. Chắc vị tu viện trưởng vẫn còn đó, cậu cũng tôn kính ông, cũng yêu quí ông và tìm thấy nơi ông một tấm gương cao thượng. Nhưng những người khác - các thầy giáo, các bạn cùng học, phòng ngủ, nhà ăn, trường học, các bài vở, các buổi học kinh nhật tụng, cả tu viện - không có Narcisse, điều đó không làm cho cậu quan tâm nữa. Cậu còn ở đây làm gì? Cậu chờ đợi. Sống dưới mái nhà tu viện, cậu như một du khách ngập ngừng đợi qua cơn mưa ở bất cứ một nơi nào đó hoặc đến một tán cây, chỉ để mà chờ đợi hoặc như một vị khách, chỉ vì sợ các điều khắc nghiệt của thế giới xa lạ bên ngoài.
Cuộc sống của Goldmund bấy giờ chỉ còn là đợi chờ và từ biệt. Cậu đi thăm lại mọi nơi mà cậu đã yêu thích hoặc đã có một ý nghĩa nào đó trong cuộc sống của mình. Cậu vô cùng ngạc nhiên nhận ra hiện diện ở nơi ấy rất ít những người và những bộ mặt khiến cậu đau xót khi cách biệt họ. Ở đó có Narcisse và vị tu viện trưởng già Daniel, còn nữa cha Anselme tốt bụng, có thêm anh gác cổng dễ mến, và có lẽ còn người láng giềng làm công việc xay bột vốn yêu đời. Nhưng những người ấy, cả họ nữa cũng đều hầu như mất tính thực tại. Xót xa hơn cả sẽ là cuộc từ biệt pho tượng đá cao lớn Đức Mẹ Đồng Trinh của Nhà thờ có các thánh tông đồ ở cổng chính. Cậu dừng lại lâu trước các nơi ấy và cũng trước các công trình điêu khắc đẹp đẽ tại phòng đồng ca, trước đài nước bên hành lang để đi dạo, trước hàng cột có ba cái đầu con vật. Cậu tựa lưng vào các cây đoạn trong sân và vào cây dẻ. Có ngày tất cả những cái ấy đối với cậu sẽ là một kỷ niệm một quyển sách ảnh, một khuôn viên kín đáo trong tim cậu. Bây giờ trong khi sống giữa sự vật ấy, chúng bắt đầu thoát ra khỏi cậu, mất đi tình thực tại của chúng, ngọ ngậy như những bóng ma thời dĩ vãng. Với cha Anselme đã trao tình bạn cho cậu, với những con người bình thường, anh thợ cối xay bột của tu viện, những người làm lao công ở đó, cậu đi tìm họ nhìn họ làm việc, đôi khi mời họ uống một cốc rượu vang hoặc ăn mấy con cá nướng như cậu xa lạ với tất cả, chỉ nhìn thấy như thể những kỷ niệm. Cũng như trong bóng tranh kín chịu tội, anh bạn Narcisse của cậu để lại và sống nhưng đối với cậu anh chỉ còn là một cái bóng, cũng như mọi thứ khác quanh mình cậu đều đã mất tính thực tại; tất cả gợi nhớ đến mùa thu, mùa của những gì qua đi và biến mất.
Sự vật duy nhất vẫn mang tính thực tại và hoạt động, đó là cuộc sống trong sâu thẳm tâm tư cậu: nhịp đập âu lo của tim cậu, chiếc gai đâm đau nhói của dục vọng, các niềm vui và nỗi lo trải qua các cơn mộng mị của cậu. Cậu là của nhưng cái đó, cậu dâng hiến cho các xúc cảm ấy. Giữa những lúc đang học và đọc sách có khi cậu lạc trong các tư duy của mình và quên lãng tất cả, chỉ lao mình vào cái dòng chảy và các giọng nói, của cuộc sống nội tâm hằng lôi cuốn cậu xuống các giếng sâu đầy những chuyện phiêu lưu thần tiên, có muôn ngàn âm thanh vang vọng từ tiếng nói của mẹ cậu, với những con mắt đều là những con mắt của mẹ cậu.